THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THI VÂN YÊN TỬ

SỚM CHIỀU DU NGOẠN CÙNG MÂY NÚI
HOA TRÁI QUA NGÀY TA VỚI TA

Thứ Bảy, 24 tháng 7, 2010

Tháng bảy ở Quảng Trị

Người thành cổ Quảng trị
Thả hoa tưởng nhớ đồng đội ở sông Thạch Hãn, Quảng Trị.
Ðã thành thông lệ, cứ vào tháng bảy hằng năm là lại có những cựu chiến binh tóc đã hoa râm từ mọi miền trở về Quảng Trị. Mấy chục năm trước, họ đã có mặt ở mảnh đất này, họ đã sống, đã gắn bó với những người dân bất khuất, kiên cường. Họ đã có những ngày chiến đấu quả cảm, và cũng từ ngày đó, hàng vạn đồng đội của họ đã không trở về...
Buổi tối khánh thành Bến thả hoa bên dòng Thạch Hãn, cả một đoạn dài bên bờ sông chỉ có người và người. Là ngày hội nhưng rất ít tiếng nói cười, chỉ thấy những gương mặt trang nghiêm của già trẻ, gái trai. Và những bè hoa lung linh, chập chờn ánh nến, huyền ảo trôi trong đêm Thạch Hãn, như trôi về nơi có linh hồn những người lính ngã xuống năm nào.



Tôi đã từng gặp rất nhiều người lính trở lại chiến trường Quảng Trị. Mỗi người một vẻ, mỗi người một hoàn cảnh, nhưng mỗi khi nhắc đến những ngày khói lửa trên đất Thành cổ là mắt họ lại ánh lên niềm tự hào, ánh lên vẻ can trường của những người lính Cụ Hồ từng hiên ngang đối mặt với bão đạn mưa bom. Chiến tranh qua đi, những người lính trở về với cuộc sống thường ngày. Thời hậu chiến, họ phải đối mặt với vô vàn gian nan của cuộc mưu sinh. 

Nhưng đến hôm nay, dù thành đạt hay còn vất vả thì trong họ vẫn không nguôi ngoai những kỷ niệm của thời trai trẻ, thời họ đã sống, đã chiến đấu như những người con ưu tú của Tổ quốc. Cùng một cựu chiến binh, tôi tới một làng ven biển Quảng Trị. Vẻ trầm ngâm, anh kể với tôi: Ðầu những năm 70 ấy, anh chiến đấu ở vùng đất này. Quảng Trị ngày đó, xóm làng tiêu điều vì bom đạn, nhìn đâu cũng chỉ thấy có cát trắng và xơ xác hàng dương. 

Các anh sống trong dân, được sẻ chia, được đùm bọc, che giấu. Anh đã qua Ái Tử, Cồn Tiên, đã có những ngày vùi mình trong cát nóng Gio Linh, Triệu Phong. Một lần đi trinh sát bị lộ, giặc đuổi theo, anh nấp giữa những luống khoai trong vườn nhà của người mẹ Quảng Trị, chuẩn bị cho trận đánh sinh tử sắp tới. Mẹ đã không quản hiểm nguy, một mình ra vườn, vác những bó dây khoai lang che lên người anh, che mắt lũ giặc. Mẹ đã cứu anh, mẹ đã sinh ra anh lần thứ hai.
 
Giờ mẹ đã mất, hằng năm anh về thắp cho mẹ nén tâm nhang. Nhìn người cựu binh tóc đã hai mầu, mắt ngấn lệ, thành kính đứng bên bàn thờ người mẹ Quảng Trị, tôi hiểu, những kỷ niệm như thế đã trở thành một phần cuộc đời của những người lính đã chiến đấu trên mảnh đất này - mảnh đất từng phải chịu đựng, từng phải đối diện với các thủ đoạn chiến tranh tàn bạo.

Tháng bảy, người từ mọi miền về Quảng Trị đông hơn thường lệ và vì thế tôi đã có những cuộc gặp gỡ tình cờ. Như lần tôi nhẹ bước bên dãy mộ liệt sĩ thuộc trung đội Mai Quốc Ca, đọc tên của từng người, 19 anh đã hy sinh để bảo vệ cầu Thạch Hãn, và tôi dừng lại khi thấy một người đàn ông luống tuổi ngồi bên ngôi mộ liệt sĩ Nguyễn Huy, như đang thủ thỉ điều gì đó với người dưới mộ. 

Sau tôi mới biết, ông là một đại tá về hưu, đang ở TP Hồ Chí Minh. Nhà chỉ có hai anh em, từ ngày đất nước thống nhất, cụ đi tìm mộ em nhiều lần mà không thấy. Năm ngoái, cơ quan của liệt sĩ Nguyễn Huy đã tìm được và mời cụ ra để cùng xây lại ngôi mộ. Lật xấp ảnh trên tay, cụ kể với tôi về những kỷ niệm gắn với từng bức ảnh đen trắng của hai em thời còn trẻ mà cụ đã chụp lại, ép plattic cẩn thận. Cụ bảo:

- Từ Tết đến giờ tôi ra đây với em ba lần rồi. Còn khỏe thì tôi cố gắng ra với em, sau này yếu, không đi được nữa.

Nhìn theo ông cụ tuổi đã gần tám mươi, chậm rãi, xiêu xiêu đi giữa Nghĩa trang liệt sĩ trong nắng chiều Quảng Trị, trong tôi tê tái điều gì đó không thể nói thành lời. Các anh hy sinh, nhưng các anh vẫn sống mãi trong tâm trí của những người ruột thịt, các anh vẫn sống cùng đất nước, vẫn sống cùng cháu con.

Sớm mai của một ngày tháng bảy, Nghĩa trang liệt sĩ Ðường Chín tấp nập người. Ðoàn từ Hà Nội, đoàn từ TP Hồ Chí Minh, đoàn từ Việt Bắc và Tây Bắc, đoàn từ miền Ðông, miền Tây. Ðứng giữa Nghĩa trang mênh mông, hàng hàng lớp lớp những ngôi mộ liệt sĩ được bao bọc bởi rừng cây xanh ngát, tôi lặng nhìn các anh chị, các bác cựu chiến binh quân phục chỉnh tề, lặng nhìn từng đoàn, từng tốp các cụ, các ông, các bà, từng đoàn em nhỏ đến bên các ngôi mộ thắp nén hương lòng. Không khí rộn ràng, tấp nập của cuộc sống hằng ngày đã được đặt sang một bên, chỉ còn lại là tấm lòng thành kính hướng về những người con anh hùng của đất nước. 

Dường như mỗi khi đến với Quảng Trị, đến với vùng đất từng một thời không có nổi một thước đất nguyên vẹn này, mọi người đều chiêm nghiệm ra điều kỳ diệu không gì có thể sánh được là, máu xương của lớp người đi trước đã làm nên nền móng của cuộc sống hôm nay. 

Trước ngôi mộ của liệt sĩ Nguyễn Ðộ, vợ chồng anh chị Nguyễn Văn Trình - Lê Thị Huệ và hai con đang lúi húi chuẩn bị thắp hương. Anh chị đều là con liệt sĩ, chị Lê Thị Huệ là con liệt sĩ Lê Quỳnh, mộ đã đưa về quê, bà nội của chị là Mẹ Việt Nam Anh hùng Lê Thị Thân cũng đã mất. Hai người cha hy sinh khi họ còn nhỏ. Nhà ở TP Ðông Hà, hằng tháng anh chị đều ra đây thắp hương cho cha, hôm nay là ngày lễ của cả nước, cả nhà cùng đi.

- Thắp hương cho cha không chỉ là tấm lòng của mình, mà còn để cho các cháu luôn nhớ đến ông.

Anh Trình nói với tôi như vậy. Nhìn hai cháu nhỏ khôi ngô và lễ phép, tôi trộm nghĩ, nếu biết được chuyện nhân gian, hẳn liệt sĩ sẽ thấy ấm lòng.

Như mọi người, mỗi lần tới Quảng Trị, tôi đều đến viếng thăm các nghĩa trang. Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, Nghĩa trang liệt sĩ Ðường Chín... và bao nhiêu nghĩa trang nữa là nơi yên nghỉ của hàng vạn người cha, người anh đã cầm súng ra đi để đất nước vẹn toàn. Ðã nhiều lần tôi ngậm ngùi đứng trước những ngôi mộ liệt sĩ vô danh hay chỉ vỏn vẹn một cái tên như Nguyên, như Mảnh, như Chanh... Lần này thời gian nhiều hơn, có điều kiện đi đây đi đó, tôi lại càng hiểu thêm về sự hy sinh của cha anh mà tôi tin là, khó có ngòi bút nào có thể tả xiết. Riêng xã Gio Hòa của huyện Gio Linh có bốn nghĩa trang liệt sĩ. 

Ở Nghĩa trang xã Triệu Trạch thuộc huyện Hải Lăng, trong hơn 600 ngôi mộ liệt sĩ thì có gần 300 ngôi mộ liệt sĩ vô danh... Tôi ghi những con số ấy vào sổ tay và đối với tôi, đó là những con số biết nói. Quảng Trị là thế. Quảng Trị đã chịu bao nhiêu mất mát và đau thương, đã lấy thân mình làm cầu nối giữa Bắc và Nam. Những đoàn quân đã qua đây, những người lính đã ngã xuống. Bằng lòng quả cảm và ý chí kiêu hùng, tiếp nối truyền thống của tổ tiên, họ đã lập nên những chiến tích phi thường gắn liền với Thành cổ - "vùng đất tâm linh", vùng đất của "thời hoa lửa", vùng đất của những kỳ tích ngỡ như huyền thoại, và là địa danh đã thành địa chỉ hành hương của mọi người Việt Nam. 

"Tại đây Thành cổ Quảng Trị kiên cường, bao chiến sĩ sinh viên Việt Nam đã anh dũng chiến đấu vì độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc. Nhiều người trong số họ đã hy sinh oanh liệt. Các anh sống mãi trong lòng đất nước, nhân dân, và đồng đội thân yêu". Ðó là dòng chữ ghi trên bia tưởng niệm những người lính sinh viên đã chiến đấu trong 81 ngày đêm năm 1972 tại Thành cổ. 81 ngày đêm, các anh sống và chiến đấu trên mảnh đất rộng chưa đầy 2 km2 nhưng phải hứng chịu tới 330.000 tấn bom đạn.

Rời giảng đường ra chiến trường, với khí phách, nhiệt huyết của trai nước Việt, các anh đã dâng hiến tuổi xuân cho đất nước. Ra đi, nhưng những dòng nhật ký của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc, những lá thư viết vội của liệt sĩ Lê Binh Chủng, của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh với lời để lại bất hủ: "Thôi mẹ nhé đừng buồn, coi như con đã sống trọn đời cho Tổ quốc mai sau",... rồi tấm áo, đôi dép cao-su, chiếc ba-lô bạc mầu, cây bút, khẩu súng, chiếc xẻng, cây cuốc... được gìn giữ trong Bảo tàng di tích Thành cổ Quảng Trị đã thay các anh nói lên tất cả. Cho nên, dù đã tới Thành cổ Quảng Trị nhiều lần mà lần nào cũng vậy, tôi chỉ dám bước đi nhè nhẹ, vì e đâu đó vẫn còn những người anh đang nằm. 

Và khi ngước nhìn mái vòm của phòng giam chật chội xây từ thời thuộc Pháp - nơi là vị trí cố thủ của các anh trong 81 ngày đêm, tôi đã thấy dòng chữ: "Hãy khóc người Việt Nam yêu nước". Nét chữ còn non nớt lắm, hẳn là do một bạn trẻ nào đó đã viết lên. Vâng, như nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường từng viết về những người lính Thành cổ: "Những người chết không phải vì để trở thành anh hùng mà chính là để đằng sau họ những người khác được tiếp tục sống trong tự do và hòa bình, chết cho nhân loại sống còn và thức tỉnh". Ngã xuống, các anh đã trở thành con của mọi nhà, trở thành người anh lớn của thế hệ chúng tôi và sâu xa hơn, các anh đã trở thành một phần máu thịt của Tổ quốc...

Tháng bảy, trời Quảng Trị như cao hơn, xanh hơn và sông Thạch Hãn như hiền hòa hơn để linh hồn những người lính quả cảm năm xưa luôn luôn được thanh thản. Và "lính Thành cổ" - nay như đã trở thành một khái niệm, lại từ mọi miền trở về thắp nén hương lòng tưởng nhớ đồng đội năm xưa. Sau mấy chục năm, Quảng Trị đã thay da đổi thịt, một cuộc sống mới đã và đang hiện rõ hình hài trên những con đường, trong mỗi ngôi nhà, trên gương mặt của mọi người. 

Cuộc sống sinh sôi, và đôi khi, chuyện của quá khứ chỉ còn đọng lại trong ký ức thế hệ. Song có một điều chắc chắn là, dù thế nào chăng nữa, cùng với đất nước này, những sự tích thần kỳ, sự hy sinh không thước nào có thể đo hết được của người lính Cụ Hồ, của người dân nước Việt trong những năm tháng chiến tranh sẽ sống mãi cùng thời gian. Vì, mỗi khi nhớ về quá khứ, mỗi khi đến với những địa danh như đất Quảng Trị này, mỗi người lại như thấy mình nhỏ bé, và lại nghĩ phải tiếp tục làm điều gì đó cho xứng đáng với ngày hôm qua.
                                   NGUYỄN HÒA

Bến thả hoa

Lãnh đạo tỉnh Quảng Trị tiếp nhận đất, nước được lấy từ quê Bác - Nam Đàn (Nghệ An). - Ảnh: Thành Dũng

Đại diện CCB Trung đoàn Triệu Hải trao đất, nước được lấy từ một số vùng quê của các anh hùng liệt sĩ và CCB.-  Ảnh: Thành Dũng


Thả hoa xuống sông Thạch Hãn. - Ảnh: Thành Dũng
 Nhân kỷ niệm 63 năm ngày Thương binh- liệt sĩ 27/7 (1947-2010), tại thị xã Quảng Trị, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND, UBMTTQVN tỉnh Quảng Trị phối hợp với Ngân hàng Phát triển Việt Nam long trọng tổ chức Lễ dâng hương khánh thành công trình Đền tưởng niệm- Bến thả hoa và làm lễ động thổ xây dựng công trình Đài tưởng niệm anh hùng liệt sĩ tại bờ Bắc sông Thạch Hãn để tri ân các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. 

Công trình Đền tưởng niệm-Bến thả hoa bờ Bắc sông Thạch Hãn xây dựng tại phường An Đôn, thị xã Quảng Trị được khởi công vào tháng 12/2009 để tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị. Tổng số vốn đầu tư xây dựng công trình gần 15 tỷ đồng, nguồn từ sự đóng góp của cán bộ viên chức Ngân hàng Phát triển Việt Nam, do Ban Quản lý dự án Khu kinh tế Bắc Thành Cổ, tỉnh Quảng Trị trực tiếp quản lý.




Nhân dịp này, thay mặt lãnh đạo tỉnh Quảng Trị các đồng chí: Lê Hữu Phúc, Uỷ viên TƯ Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh; Nguyễn Đức Cường, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh đã trân trọng đón nhận đất, nước được lấy từ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Khu di tích K9 Đá Chông, từ khu nhà sàn, ao cá Bác Hồ, từ quê Bác-Nam Đàn, Nghệ An và từ nhiều vùng quê khác của các các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trên chiến trường Quảng Trị do Đại tá Phạm Văn Lập, Phó Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh; Giám đốc Khu di tích Hồ Chí Minh Bùi Kinh Hồng; đại diện CCB Ngân hàng Phát triển Việt Nam Nguyễn Đình Tải và CCB Lê Bá Dương thay mặt cho đồng đội chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị trao. 

Tiếp đó, các đồng chí: Nguyễn Huy Hiệu, Uỷ viên TƯ Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Anh hùng LLVT; Đinh Thế Huynh, Uỷ viên TƯ Đảng, Tổng Biên tập Báo Nhân dân, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam; Lại Văn Đạo, Phó Tổng Giám đốc Thường trực Ngân hàng Phát triển Việt Nam; Phan Văn Phong, Chủ tịch UBND thị xã Quảng Trị đã lên Đền tưởng niệm thỉnh 9 tiếng chuông mở đầu lễ dâng hương và thả hoa, hoà quyện đất, nước được mang về từ mọi miền quê vào lòng đất Quảng Trị và dòng sông Thạch Hãn để tưởng nhớ, tri ân các anh hùng liệt sĩ. 



Đồng chí Tô Huy Rứa, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư TƯ Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương đã đón nhận chân hương từ bát hương thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch - nơi Bác trút hơi thở cuối cùng vào ngày 2/9/1969 và cắm vào lư hương tại Đền do đồng chí Bùi Kim Hồng, Giám đốc Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch trân trọng rước về. 

Để bảo vệ Thành Cổ - Quảng Trị, đã có hơn 14.000 chiến sĩ đã anh dũng ngã xuống trên dòng sông Thạch Hãn và trong lòng đất Thành Cổ. Thực hiện tâm nguyện của các CCB từng chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị, đất, nước được rước về đây để hoà vào đất Quảng Trị và dòng sông Thạch Hãn anh hùng. Chân hương từ bát hương thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh được rước về cắm vào lư hương tại Đền, thắp lên bàn thờ các anh hùng liệt sĩ để anh linh các anh, các chị mãi được sưởi ấm trong tình thương yêu của Bác Hồ, của nhân dân và của Tổ quốc Việt Nam. 




Tại buổi lễ, các đồng chí lãnh đạo Trung ương, các tỉnh, thành phố trong cả nước và đông đảo cựu chiến binh, nhân dân đã dâng hương, kính cẩn nghiêng mình trước anh linh các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc thân yêu. 

* Sau khi dự lễ tri ân các anh hùng liệt sĩ tại Đền tưởng niệm-Bến thả hoa bờ Bắc sông Thạch Hãn, đồng chí Tô Huy Rứa, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư TƯ Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương cùng các thành viên trong đoàn đã đến dự lễ khởi công công trình Đài tưởng niệm Anh hùng liệt sĩ. 

Công trình Đài tưởng niệm sẽ được xây dựng trên diện tích 50.000m2, nằm trong khuôn viên Bến thả hoa, bao gồm các hạng mục nhóm tượng đài chính cao 29,7m, bệ đài rộng trên 50m2 bằng đá granit trắng xám và các nhóm tượng đài công trình phụ trợ khác. Công trình do nhà điêu khắc Nguyễn Quốc Thắng - Thành phố Hồ Chí Minh sáng tác và thiết kế với tổng vốn đầu tư trên 40 tỷ đồng bằng nguồn đóng góp của các tỉnh, thành phố, doanh nghiệp và nhân dân trong cả nước. 




Dự kiến công trình sẽ được hoàn thành đúng vào dịp kỷ niệm 65 năm ngày Thương binh - liệt sĩ năm 2012. Đài tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ hoàn thành cùng với Bến thả hoa ở hai bờ Nam và Bắc sông Thạch Hãn sẽ tạo nên một quần thể di tích tưởng niệm đầy ý nghĩa ở đôi bờ sông Thạch Hãn lịch sử, nơi đã ghi dấu những sự tích anh hùng một thời đánh giặc giữ nước của dân tộc mà đỉnh cao là chiến dịch 81 ngày đêm tử thủ ở Thành cổ - Quảng Trị năm 1972. 

Tiếp đó, đồng chí Tô Huy Rứa cùng các đồng chí lãnh đạo Bộ, ngành Trung ương và của tỉnh đã đến đặt vòng hoa, dâng hương tại Nghĩa trang liệt sĩ Quốc gia Đường 9 - nơi có hơn 10.000 phần mộ của các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống trên mảnh đất Quảng Trị trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. 




Cùng ngày, đoàn lãnh đạo Đảng, Nhà nước do đồng chí Tô Huy Rứa, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư TƯ Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương dẫn đầu đã đến thăm và tặng quà gia đình bà Phan Thị Cầm, mẹ liệt sĩ Lục Thị Xuân và gia đình anh Nhan Ngọc Công, thương binh 1/4 tại thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong. 

Tại các gia đình đến thăm, đồng chí Tô Huy Rứa đã ân cần hỏi thăm sức khoẻ, động viên gia đình khắc phục những khó khăn của đời sống thường nhật để vươn lên, sống khoẻ, sống có ích, phát huy truyền thống cách mạng, góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển quê hương, đất nước. 

                        Nhóm PV Thời sự-Chính trị Báo Quảng Trị



“Hoài niệm về chiến trường xưa và đồng đội”

Người thành cổ Quảng trị


Bến thả hoa
 
 Là tên chương trình giao lưu nghệ thuật sẽ diễn ra trong khuôn khổ Hội nghị tổng kết 5 năm chương trình Du lịch hoài niệm giai đoạn 2005-2010; được tổ chức tại di tích Thành cổ Quảng Trị vào 20h ngày 23-7 (truyền hình trực tiếp trên kênh VBC (Đài Truyền hình VTC), Kênh truyền hình thực tế Real TV (Đài Truyền hình VN), Đài PT&TH Quảng Trị). Tham gia vào đêm giao lưu đặc biệt này có khoảng 10 khách mời là các cựu chiến binh, thân nhân liệt sĩ, những người trực tiếp tham gia vào chương trình Du lịch hoài niệm.
Trong đêm giao lưu nghệ thuật đặc biệt này, cùng với các phóng sự chương trình Du lịch hoài niệm về chiến trường xưa và đồng đội là các tiết mục biểu diễn do các nghệ sĩ NSND Thanh Hoa, ca sĩ Phương Thảo, Xuân Hảo... thể hiện


Cũng trong đêm giao lưu, BTC chương trình sẽ tiếp tục phát động, kêu gọi các cựu chiến binh, thân nhân liệt sĩ, và mọi người dân hiến tặng kỷ vật kháng chiến cho Phòng Truyền thống Trung tâm Phát triển du lịch hoài niệm tại Quảng Trị và cho Cuộc sưu tầm và giới thiệu các kỷ vật kháng chiến. Trong khuôn khổ các hoạt động kỷ niệm 63 năm ngày Thương binh, liệt sĩ tại Quảng Trị, sáng ngày 24-7, tỉnh Quảng Trị sẽ tổ chức lễ khánh thành 1 bến thả hoa nữa bên bờ sông Thạch Hãn.


Trong chuỗi các hoạt động nằm trong tổng kết 5 năm chương trình Du lịch hoài niệm, còn có một cuộc triển lãm về đề tài này, giới thiệu cho người xem những bức ảnh, kỷ vật của chương trình... 
                                                                                              Hà Thu

Thứ Hai, 19 tháng 7, 2010

Một số hình ảnh về Hồ Gươm xưa

Người thành cổ Quảng trị












http://i240.photobucket.com/albums/ff56/dreamtheater85/00143.jpg

http://i240.photobucket.com/albums/ff56/dreamtheater85/0071.jpg



Tân Sở - kinh đô kháng chiến

Người thành cổ Quảng trị


(QT) - Hơn 300 năm sau, khi Ái Tử hay Trà Bát không còn là thủ phủ như buổi đầu khởi nghiệp, nhưng hậu duệ của Nguyễn Hoàng- vua Hàm Nghi, một vị vua yêu nước của triều Nguyễn đã về Quảng Trị lập “kinh đô kháng chiến” chống Pháp, đấy chính là thành Tân Sở ở Cam Lộ. 

Dài theo đường thiên di của lịch sử, của dân tộc, nhiều chứng tích đã bị phôi pha, quên lãng rồi tan vào cát bụi. Và Tân Sở cũng không ngoài số phận ấy.

“Kinh thành dự bị- kinh đô kháng chiến”

Từ huyện lỵ Cam Lộ (nơi năm 1973 được chọn làm thủ đô của Chính phủ cách mạng lâm thời CHMNVN), nằm ở km 12 trên Quốc lộ 9 từ Đông Hà đi Lao Bảo, rẽ về hướng Nam theo đường vào Cùa chừng 7 cây số sẽ gặp một bình nguyên đất bazan màu mỡ được vây bọc với những đồi núi bát úp khá kín đáo và hiểm yếu. Đấy chính là thành Tân Sở. 

 
 Cửa tiền thành Tân Sở (mô phỏng).

Sau khi Pháp nổ súng tấn công xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn từng bước nhượng bộ “chủ hòa” , tuy nhiên trong triều đình vẫn nổi lên phái “chủ chiến” do Thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết và Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường đứng đầu. 

Kinh thành ngày càng bị uy hiếp, từ năm 1883, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã chủ trương xây dựng một kinh đô dự phòng để di đô khi Huế lâm nguy. Vùng Cùa với Tân Sở là trung tâm được chọn. Khi người Pháp đánh chiếm cửa Thuận An (tháng 8-1883) thì Tân Sở được đẩy nhanh tốc độ xây dựng. 

Một kinh đô kháng chiến được xây nên bởi nguyên vật liệu tre, gạch, gỗ, đá… của nhân dân Quảng Trị đóng góp. Đến đầu năm 1885 Tân Sở được xây dựng hoàn thành. Một trong những tư liệu đầu tiên tìm hiểu về căn cứ Tân Sở là của giáo sĩ A.Delvaux, người từng đến truyền giáo ở xứ đạo Phước Tuyền (Cam Lộ) được đăng trên tập san Đô Thành hiếu cổ (B.A.V.H-“Le Camp de Tan So”) với những miêu tả chi tiết kèm theo bản đồ thành Tân Sở. 

Tân Sở được xây với mục đích làm căn cứ kháng chiến nên thành có diện tích rộng gần bằng kinh thành Huế. Với chiều dài 548 mét, rộng 418 mét (kinh thành Huế mỗi chiều rộng khoảng 600 mét), ngoài thành có hàng rào cọc nhọn và hào sâu bao bọc, thành đắp bằng đất nện, mở 4 cửa Tiền -Hậu -Tả -Hữu theo hướng tương ứng là nam-bắc-đông-tây, tiếp theo là tre gai được trồng thành lũy dày với bốn lớp lũy, giữa các lũy tre là thành đất, tiếp giáp với thành nội là trại lính, kho hậu cần, bãi tập voi, ngựa. 

Chính giữa trung tâm là khu vực thành nội được xây bằng gạch vồ với chiều dài 165 mét, rộng 100 mét, ngoài 4 cửa tiền - hậu - tả - hữu còn có thêm Ngọ Môn. Bên trong thành nội là hành cung với các ngôi nhà kiên cố được tháo dỡ từ Huế rồi mang ra dựng lại để vua và các quan làm việc như dinh Lãnh binh, Chánh sứ, Phó sứ, Bang Tá… 

Lần giở những trang tài liệu cũ về căn cứ Tân Sở lúc bấy giờ có thể hình dung cả một “công trường kháng chiến” khi hàng vạn dân đinh trong vùng tụ hội về đây xây dựng thành lũy, binh lính tập trung luyện tập. Lương thực lúa gạo chuẩn bị cho cuộc kháng chiến được vận chuyển từ đồng bằng sông Hồng vào đây qua ngả cảng Cửa Việt. Súng thần công, đạn dược được chuyển từ kinh thành Huế ra, lò rèn nổi lửa đúc súng ống.Tiền bạc ngân lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến cũng được Tôn Thất Thuyết cho chuyển ra đây với ba trăm ngàn lượng, bằng một phần ba kho nội phủ. 

 
 Những viên gạch vồ được dân nhặt về lát sân.

Những trù liệu của triều đình khi xây dựng căn cứ Tân Sở đã thành sự thật khi sự biến đêm 23 tháng 5 năm Ất Dậu (1885) xảy ra. Cuộc tập kích đồn Mang Cá và tòa Khâm Sứ Pháp không thành, kinh đô chìm ngập trong biển máu. Tôn Thất Thuyết và triều thần phò giá vua Hàm Nghi ra Tân Sở để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến đánh Pháp. Tại đây, vua Hàm Nghi đã xuống chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân cả nước phò vua đánh giặc. 

Cuộc kháng chiến của phong trào Cần Vương với sự tham gia của nhân dân và nhiều sĩ phu yêu nước kéo dài đến những năm đầu thế kỷ XX. Tân Sở thành xưa sau này bị quân Pháp đốt phá, nhưng theo A.Delvaux, khi ông lên đây lần đầu vào năm 1906, những thành lũy trong và ngoài Tân Sở vẫn còn khá nguyên vẹn. 

Hoang tàn dấu tích...

Quảng Trị: Ba lần được chọn làm kinh đô và thủ phủ

Lần thứ nhất: Khi chọn đất đứng chân cho hành trình mở cõi, từ năm 1558 Nguyễn Hoàng đã chọn Ái Tử của Quảng Trị.

Lần thứ hai: Năm 1883, phòng khi Huế thất thủ, nhà Nguyễn chọn Quảng Trị để lập “kinh đô kháng chiến”, xây dựng căn cứ Tân Sở (nay thuộc vùng Cùa, huyện Cam Lộ, Quảng Trị) được sử sách coi là kinh thành dự phòng với quy mô tương đương kinh thành Huế.

Lần thứ ba: Năm 1973, khi đặt “thủ đô” cho Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CHMNVN), giữa lúc cuộc đấu tranh đòi thống nhất đất nước diễn ra ác liệt nhất, Cam Lộ cũng được chọn đặt trụ sở của Chính phủ cách mạng lâm thời CHMNVN. Nơi đây đã diễn ra những lễ trình Quốc thư, tiếp kiến ngoại giao với sự có mặt của các chính khách trong chính phủ kháng chiến Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình…               (L.Đ.D)
Hơn 120 năm trôi qua, chúng tôi về lại thành xưa Tân Sở chỉ thấy một bình nguyên mênh mông phủ kín bạt ngàn cao su. Những lũy tre ken dày mấy lớp xưa kia nay chỉ còn vài khóm lưa thưa nhưng vẫn mọc thẳng hàng đủ cho chúng tôi nhận ra dấu vết của vòng thành ngoại. Trên lô cao su chưa khép tán, người dân vùng Cùa đang tranh thủ gặt lúa. 

Chị Trần Thị Cúc ở thôn Mai Lộc 2, xã Cam Chính kể hồi còn nhỏ lên đây chị vẫn thấy bờ tre ken dày. Những năm 70-80 của thế kỷ trước, người dân mưu sinh bằng công việc tìm phế liệu, trong khu vực thành Tân Sở xưa này được tìm thấy khá nhiều đạn của súng thần công. Đấy là những viên đạn hình cầu đúc bằng gang hay sắt, đồng, kích cỡ đường kính lớn bé khác nhau. Còn theo A.Delvaux, sau khi Tân Sở bị Pháp chiếm và đốt phá, công sứ Quảng Trị là Hamelin đã sai chuyển 4 khẩu thần công có khắc chữ Hán từ Tân Sở về đặt trước hành cung ở thành cổ Quảng Trị, trong đó hai cỗ súng dài đến 2m57. 

Hỏi thăm những người dân quanh vùng để tìm đến chủ một vựa thu mua phế liệu thời đó, chúng tôi gặp anh Trần Xuân Hòa, 54 tuổi, người thôn Đốc Kỉnh, Cam Chính. Anh Hoà cho biết số đạn thần công hồi đó anh mua nhiều vô kể nhưng đều cân sắt phế liệu, anh có giữ lại một vài viên bằng đồng nhưng đã thất lạc mất. 

Lũy tre không còn, những chứng tích súng đạn của kinh thành kháng chiến cũng không còn. May sao trong vườn nhà anh Hòa vẫn còn một số viên gạch vồ, vốn xưa kia là gạch xây thành nội Tân Sở. Hồi đó, dân trong vùng vào Tân Sở kiếm hết phế liệu đã nhặt những viên gạch còn lành lặn về lát sân, lát nền giếng. Tôi cúi xuống, những viên gạch vồ với kích thước không lẫn vào đâu được đã xanh sắc rêu im lặng trong góc vườn nhà anh Hòa. 

Một kinh đô kháng chiến được nhắc nhiều trong sử sách nay chỉ còn lại vài viên gạch lẻ loi như thế này thôi ư? Một chương bi tráng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc lẽ nào không còn ai biết? Nhìn ra mênh mông bình nguyên, chập chùng đồi núi vây bọc bốn bề, chốn hiểm địa chở che cho Tổ quốc buổi sơn hà nguy biến nay cần phục dựng lại để nhắc nhở hậu thế. 

                                                Bài, ảnh: LÊ ĐỨC DỤC 

Từ "Lời thiên thu gọi" ở vườn Cơ Hạ đến cuộc hội ngộ tại Tích Tường

Người thành cổ Quảng trị

(QT) - Sau những chương trình đêm nhạc Trịnh Công Sơn với chủ đề “Lời thiên thu gọi” trong lễ hội Festival 2010 tại thành phố Huế, Đoàn nghệ sĩ hát nhạc Trịnh Công Sơn từ sân khấu tại vườn Cơ Hạ, Đại Nội, Huế đã trực chỉ về Thành Cổ Quảng Trị, viếng Đền tưởng niệm các liệt sĩ và bến thả hoa bên sông Thạch Hãn, ngưỡng vọng tháp chuông Thành Cổ và tham gia cuộc gặp gỡ với những người yêu nhạc Trịnh tại Khu du lịch sinh thái Tích Tường. 

Cuộc tao ngộ “ngẫu nhiên” mà dường như là đã hẹn trước tại mảnh đất từng là chiến trường xưa khốc liệt nhất, nơi thể hiện ý chí và khát vọng hoà bình mãnh liệt của dân tộc, khát vọng đó cũng từng ngập tràn thống thiết trong nhạc Trịnh. 
Phải chăng, nơi năm xưa nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng khuân đá làm đường sắt Thống Nhất, từng đi thực tế để viết bút ký về đại công trường Nam Thạch Hãn, nay “được chọn” làm nơi ngân lên nốt nhạc trầm “Lời thiên thu gọi” từ vườn Cơ Hạ vọng về. Cuộc tao ngộ rất “mộc”, rất “Trịnh” tại Khu du lịch sinh thái Tích Tường trong không gian ấm áp, không khí thắm tình nhân ái. 
 
Một tiết mục của đoàn tại buổi giao lưu.
Nghệ sĩ Thuỷ Tiên tâm sự: “Tuy đây là lần đầu tiên em đến Quảng Trị, nhưng qua lời kể của bố mẹ nuôi là người gốc Quảng Trị, các ca khúc viết về Quảng Trị, em hiểu được mảnh đất Quảng Trị anh hùng trong chiến tranh và thân thiện trong cuộc sống đời thường. 
Em sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo tại vùng ven Sài Gòn. Mới 2 tuổi em đã mất bố và năm 3 tuổi thì bị một chứng bệnh nan y phải cắt một phần môi và xương hàm. Từ đó em phát âm bập bẹ, phần lớn không chuẩn tiếng. Được gia đình và bạn bè động viên, em nỗ lực luyện tập phát âm và hoàn thiện dần. 
Em từng tập hát nhiều nhạc phẩm, nhưng đến năm 16 tuổi, một hôm nghe nhạc Trịnh Công Sơn, em thấy thích và hát theo một số bài. Nhiều người bảo số em “bén duyên” với nhạc Trịnh Công Sơn nên động viên em hãy phát huy khả năng hát nhạc Trịnh. 
Năm 2004, em đạt giải nhất cuộc thi hát về nhạc Trịnh Công Sơn do Hội quán Hội Ngộ, thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, với nhạc phẩm “Xin cho tôi”, cầu nguyện cho hoà bình trên quê hương. Sau này là những chuyến lưu diễn đến nhiều nước trên thế giới”. 
Hiện nay, Thuỷ Tiên là Phó Chủ nhiệm Hội quán “Đời rất đẹp”, trực thuộc Chương trình Khuyết tật và Phát triển, khoa Xã hội học, Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh, tích cực tham gia hoạt động xã hội ở nhiều nơi trong nước. 
Và một nghệ sĩ khác, được những người yêu mến nhạc Trịnh Công Sơn tặng cho anh biệt danh “Người hát nhạc Trịnh xuyên lục địa”, đó là Kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái Hoà. Thái Hoà là Việt kiều Canada. Hiện anh là Tổng Giám đốc chất lượng Khu vực châu Á -Thái Bình Dương của Tập đoàn Scheinder Electric, Pháp.
 
Là người yêu mến nhạc Trịnh, anh đã phát hành 7 album nhạc Trịnh Công Sơn do mình thể hiện, tham gia nhiều chương trình ca nhạc tưởng niệm Trịnh Công Sơn tại Pháp, Mỹ, Australia, Việt Nam. Anh đã xuất bản tập sách “Vườn xưa - hành trình âm nhạc Trịnh Công Sơn” (NXB Trẻ) và hiện đang thực hiện tập 2 “Hành trình âm nhạc Trịnh Công Sơn- Giọt lệ thiên thu”
Thái Hoà cùng một số bạn bè thực hiện nội dung tập hợp tư liệu về cuộc đời sáng tác, nhạc phẩm... của Trịnh Công Sơn trong thư viện Centro Studio Vietnamiti, một thư viện dành cho người Việt tại thành phố Torino (Ý). Là người khởi xướng Quỹ da vàng (2009) nhằm giúp đỡ những nạn nhân chất độc da cam tại Việt Nam, anh tâm sự: “Tôi muốn dòng nhạc Trịnh sẽ tiếp tục chảy qua các vùng miền của trái đất này để làm dịu những nỗi đau trên da thịt con người Việt Nam”. 
Buổi gặp gỡ lắng đọng lại khi bà Trần Tuyết Hoa, mẹ của anh Nguyễn Hữu Thái Hoà hồi tưởng lại những kỷ niệm sâu sắc với Trịnh Công Sơn. Bà Trần Tuyết Hoa là vợ của ông Nguyễn Hữu Thái. Ông Thái là bạn cùng lớp với Trịnh Công Sơn thời Trung học Trường Providence (Thiên Hựu), Huế. 
Hai người đã gặp nhau vào trưa 30/4/1975, đúng thời khắc lịch sử trọng đại của dân tộc khi quân ta cắm lá cờ chiến thắng trên Dinh Độc Lập. Lúc đó, biệt động thành mới chiếm Đài phát thanh Sài Gòn, ông Nguyễn Hữu Thái nằm trong đội sinh viên tiếp quản, Trịnh Công Sơn gặp bạn cũ tại đây và hai người cùng một số sinh viên khác đã hát bài hát đầu tiên ca ngợi hoà bình trên sóng phát thanh bài “Nối vòng tay lớn”: “Bàn tay ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam”, “Dòng máu nối con tim đồng loại... Dựng tình người trong ngày mới...” hát trong khi súng một số nơi vẫn nổ ác liệt. 
Sau này, Nguyễn Văn Thọ, một chiến sĩ giải phóng quân viết trong nhật ký như sau: “Bài ca có tác động làm chùng tay súng, một ngày, một giờ mà sinh mệnh hàng triệu con người nằm trên đường tơ kẽ tóc. “Mặt đất bao la...anh em ta về ...gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng...”. Lời ca không phải là tiếng thách thức tử thủ, không phải là tiếng bể máu như kết cục thường của chiến cuộc, mà lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học. Chúng tôi tiến vào Sài Gòn, chiến tranh bao giờ chẳng có mặt trái, nhưng tiếng hát kia, bản nhạc ấy, mở ra cho cả hai bên nghe như một liều thuốc vô hình đã làm chùng xuống một thời khắc dễ nổi cáu và nổi đoá”. 
Bà Trần Tuyết Hoa lại là bạn học cùng khoá với Nhất Chi Mai, người đã biến thân mình làm ngọn đuốc sống để phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam. Bà kể trong nghẹn ngào: “Chi Mai học Sử ở Văn khoa, tôi học Triết, chúng tôi thường đi làm công tác xã hội ở các vùng ven ngoại ô Sài Gòn. Chị Chi Mai tính nhu mì, hiền lành, một nữ tu Dòng Tiếp hiện được quý nể trong công tác với tâm bồ đề chân thành. 
Sáng hôm ấy, khoảng 7 giờ 30 phút, ngày 16/5/1967, bạn Phan Đạm Hiệp đạp xe đến gọi tôi thảng thốt: “Chị Hoa ơi! Chi Mai tự thiêu trên chùa Từ Nghiêm rồi”. Tôi vừa khóc vừa đạp xe lên Từ Nghiêm, đến nơi thì ngọn lửa vừa tắt, Nhất Chi Mai của tôi ngồi xếp bằng như một pho tượng đồng đen, mùi thịt da khét lẹt bốc khói. 
Tôi đặt tay lên đùi chị lại phải rụt lại ngay vì suýt bỏng tay. Tôi gục xuống nức nở đau đớn: “Mai ơi! Sao lại phải thế này? Không còn cách nào khác sao, hở Mai?”, nhìn hai pho tượng nhỏ Đức Mẹ Maria và Quan Âm Bồ Tát đặt ngay ngắn trước mặt chị với 10 bức thư gửi gia đình và cho những quan chức đang cầm đầu cuộc xâm lược tại Việt Nam... 
Tôi đạp xe qua kể hết sự tình cho Sơn nghe, Sơn hốt hoảng rơi người xuống ghế, sửng sốt chết lặng một lúc rồi kêu lên: “Trời ơi, con gái mà cũng tự thiêu à? Dễ sợ quá, sao không ai can ngăn dùm?”. Can ngăn nổi gì Sơn ơi, chị Mai đã âm thầm chuẩn bị rất kỹ khi nghe tin Morison tự thiêu bên Mỹ kia. Tôi vừa khóc vừa đọc bài thơ “Chắp tay tôi quỳ xuống” của Chi Mai cho Sơn nghe. “Sơn thấy không, cái tâm Bồ Đề của chị thanh cao vời vợi như vậy thì làm sao mà can ngăn cho được. Chị thành Bồ Tát rồi Sơn ơi!”. 
Sơn ứa nước mắt: “Ừ! Chỉ có cái tâm Bồ Tát mới làm được một hạnh nguyện lớn lao vậy!”. Vài ngày sau, Sơn nhắn tôi lên phòng và ôm đàn hát miên man ca khúc vừa mới viết: “Hãy sống dùm tôi, hãy nói dùm tôi, hãy thở dùm tôi...”. Sơn nói: “Hôm đó bạn về rồi, suốt ngày mình không làm gì được, suốt đêm cũng không ngủ được, cứ trằn trọc mãi với câu thơ của Chi Mai: “Sống mình không thể nói/ Chết mới được ra lời”, tại sao vậy? Mình đã tự hỏi bao lần như vậy. Tối qua vùng dậy viết, cuối cùng đã trả lời được cho Chi Mai”. Sau này bài này phổ biến trên nhiều nước, công chúng cho rằng: “Đây là tiếng kêu hoà bình thống thiết nhất từ Việt Nam”. 
Trở lại cuộc kỳ ngộ, tiến sĩ Nguyễn Hữu Liêm, đang giảng dạy tại Đại học Hoa Kỳ, ông Nguyễn Trí Dũng, Việt kiều Nhật Bản, bà Mỹ Linh, Việt kiều Pháp, người xây dựng hơn 100 cây cầu khỉ cho đồng bào miền Đông Nam Bộ đã cùng nhau ôn lại những kỷ niệm về người nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn. 
Họ cũng lặng người khi nghe nhà thư pháp Hoàng Tấn Trung ngâm bài thơ “Cái rốn” của tác giả Nguyễn Văn Đắc: “Có hạnh phúc nào không bắt đầu từ nỗi đau/ Có nỗi đau thì niềm hạnh phúc mới diệu vợi/ Ai cũng có một quê hương/ Ai cũng có một nơi chôn nhau cắt rốn/ Từ thuở mới lọt lòng đỏ hỏn/ Ai cũng có một phần máu thịt để lại nơi đây/ Không nơi đâu sâu nặng hơn nơi này/ Quê hương/ Cái rốn”. Có phải chăng có một sự đồng điệu từ “Như một hòn bi xanh”, “Cái rốn” với thế giới đại đồng và cội nguồn bọc trăm trứng của Mẹ Âu Cơ mà những người con của quê hương đã trở về. 
Các ca khúc lừng danh của Trịnh như “Còn tuổi nào cho em”, “Hãy yêu nhau đi”, “Diễm xưa”, “Biển nhớ” đã được hát lên, nhiều người yêu nhạc Trịnh ở Đông Hà, thị xã Quảng Trị đã say sưa hát giao lưu với đoàn. Chúng tôi ấn tượng mãi câu chia tay của người dẫn chương trình buổi nhạc rằng: “Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về” (Biển nhớ), quê hương luôn dang rộng vòng tay đón những người con, người bạn trở về. Trở về “Nối vòng tay lớn” xây dựng quê hương ngày một mạnh giàu. Trở về “Dựng tình người trong ngày mới” (Nối vòng tay lớn). Và trở về ban sơ bên bọc trăm trứng, bên “Cái rốn” của mẹ hiền. 
                      Bài, ảnh: MINH TUẤN

Khánh thành cầu cửa Việt

Người thành cổ Quảng trị
Hôm nay 17-7, hàng ngàn người dân vùng ven biển hai huyện Gio Linh và Triệu Phong vui mừng vì cây cầu Cửa Việt bắc qua sông Hiếu nối hai huyện này được khánh thành và đưa vào sử dụng.
Đây là cây cầu lớn nhất tỉnh Quảng Trị đến thời điểm này.
Cầu Cửa Việt khởi công cuối năm 2007, có vốn đầu tư hơn 300 tỉ đồng, được thiết kế bằng bêtông cốt thép gồm 12 nhịp, dài 806m, mặt cầu rộng 12m dành cho hai làn xe, khổ thông thuyền rộng 50m và cao 7m, đường hai đầu cầu dài hơn 1.000m.
Người dân đội mưa xem cầu Cửa Việt trong ngày khánh thành - Ảnh: Quốc Nam 
Cầu Cửa Việt nối liền hệ thống giao thông ven biển dài 73km phía đông của tỉnh Quảng Trị, nối liền hai cảng biển lớn là Cửa Việt và Cửa Tùng, và cũng có thể thông với quốc lộ 9 tạo nên một hệ thống giao thông thông suốt từ phía tây ra các hướng bắc nam của tỉnh.

Thứ Tư, 14 tháng 7, 2010

Các loại MBH

Người thành cổ Quảng trị
creative motorcycle helmet

creative motorcycle helmet
creative motorcycle helmet
creative motorcycle helmet
creative motorcycle helmet
creative motorcycle helmet
creative motorcycle helmet
creative motorcycle helmet
creative motorcycle helmet
creative motorcycle helmet
creative motorcycle helmet
creative motorcycle helmet
creative motorcycle helmet
creative motorcycle helmet

Thứ Ba, 13 tháng 7, 2010

Mẹ Gio Linh - Mẹ Việt Nam

Người thành cổ Quảng trị

Bút ký - Nguyễn Hoàn


--------------------------------------------------------------------------------




... Để tránh Tây lùng sục, các mẹ đã giấu đầu hai anh kín đáo ở trên tra, gần nóc nhà, sau đó nhờ người đóng những chiếc hòm đặc thù hình vuông khâm liệm hai anh rồi đem chôn. Đầu anh Kỳ được chôn tại vùng Dôông, Mai Xá Chánh, đầu anh Phi được chôn tại nghĩa địa Cồn Dài, xóm Kênh, Mai Xá Chánh. Ba đêm sau, tại nhà mẹ Cháu, bộ đội, du kích đã về cùng bà con quây quần làm lễ truy điệu cho các anh sát nách đồn giặc ở Mai Xá....



--------------------------------------------------------------------------------





“Gan Mai Xá, đá Hảo Sơn”, danh tiếng làng Mai đã lừng vang trong câu tục ngữ truyền đời ấy của người Quảng Trị. Như thừa hưởng được phong vận, chính khí của trời đất xứ này, cả đến hoa mai của làng Mai không chỉ lừng hương với gió mà còn lừng hương cả trong dòng sử thơm. Cụ Nguyễn Du viết: “Mai cốt cách”. Người làng Mai truyền tụng câu “Mai vàng tụ nghĩa”.



Thuở đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, vua Duy Tân ra Cửa Tùng lấy cớ “nghỉ mát” để che mắt giặc, kỳ thực vua tìm người thân tín họp bàn việc Cần Vương, cứu nước, ở Quảng Trị đã mọc nên sáu vườn đào tụ nghĩa. Đó là vườn đào Tường Vân, Triệu Phong của cụ Lê Thế Vỹ (thân phụ của hai cụ Lê Thế Hiếu, Lê Thế Tiết, hai nhà cách mạng tiền bối tiếng tăm của tỉnh Quảng Trị), vườn đào Cam Lộ của cụ Nguyễn Khoá Bảo, vườn đào Linh Yên, Triệu Phong của cụ đề đốc Nguyễn Thành Đốc, người mang bầu máu nóng “bình Tây, sát tả”, bị giặc Pháp xử trảm ở bãi bồi làng Nhan Biều, Triệu Thượng, Triệu Phong, vườn đào Bồ Bản, Triệu Phong của cụ Ấm Muộn, vườn đào Bích Khê, Triệu Phong của cụ Hoàng giáp Hoàng Hữu Bính và vườn đào Mai Xá, Gio Linh của cụ tú tài Trương Quang Cung. Môn đệ vườn đào Mai Xá họp mặt, khi ở bến đục Hà Trung, Gio Linh, khi ở lòi Mai Xá. Mỗi độ xuân về, lòi Mai Xá cây xanh, cát trắng bỗng thắm vàng trong sắc rừng mai nở, vì thế, vườn đào Mai Xá được gọi tên “Mai vàng tụ nghĩa Cần Vương”. Trong những lần họp mặt, các vị tụ nghĩa Cần Vương đã truyền cho nhau những lời hiệu triệu thống thiết: “Thế nước như trứng chồng, chỉ có hợp quần sức mạnh mới lên!”.



Ở làng Mai Xá bấy giờ có cụ Trương Quang Đông đi lính Cần Vương được hàm bát phẩm. Đêm nào, ở nhà cụ Đông xuất hiện một vị khách giả dạng thầy đồ, hoặc thầy bói, hoặc lính lệ Nam triều đến nhỏ to mưu sự với cụ thì ngay đêm đó, những người phụ nữ phải lo nấu từ hai đến ba nồi bung cơm vắt, từng vắt ở giữa có muối mè, để ra nhiều nống chừng trăm vắt, xong có người đến lấy, gánh ra đình làng phân phát cho những người đợi sẵn. Những người này nhận cơm vắt rồi biến mất tăm. Làng Mai đã nuôi những người đi đánh Tây bằng nắm cơm vắt ấm nồng như thế đó. Ngược dòng lịch sử mới thấy, chính hạt gạo khó nhọc làng Mai đã từng nuôi lớn sức mạnh võ công của những người theo nghĩa khí phong trào Tây Sơn.



Tộc phả họ Bùi làng Mai còn truyền tên tuổi, công trạng của hai vị quan võ thời Tây Sơn. Đó là chánh tiền chỉ huy sứ Bùi Văn Hịch (chỉ huy một doanh 500 người), có công đặc biệt, sau về làng “giữ ngôi tiên chỉ, giàu có vạn tiền, ruộng liền một dải”. Đó là tiền đạo thuỷ binh Bùi Văn Huy với sức khoẻ và võ công cao cường, ngỡ như huyền thoại: “Chỉ huy tiền đạo thuỷ quân đánh vào căn cứ mạnh của địch, sức khoẻ bẻ gãy cây tre, để cối đá trên bụng cho người giã trắng gạo, uống rượu bao nhiêu cũng không hề say”. Mảnh đất từng hun đúc nên nghĩa khí “Mai vàng tụ nghĩa” lúc đất nước đương cơn bĩ cực cũng chính là nơi sớm sản sinh những hạt giống đỏ. Hưởng ứng phong trào Thanh niên cách mạng đồng chí hội những năm 1925-1929, chi hội Thanh niên cách mạng đồng chí hội huyện Gio Linh đã được thành lập, trong đó có ba hạt giống đỏ Mai Xá là Trương Quang Phiên, Trương Khắc Khoan và Trương Quang Côn, lấy đình làng Mai Xá Chánh làm điểm hẹn liên lạc. Sau vụ rải truyền đơn khắp tỉnh đêm 17-6-1929 kêu gọi thành lập Đảng Cộng sản mà tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí hội của tỉnh có tham gia, bọn địch tức tối lùng sục, dò xét manh mối. Nhiều hội viên Thanh niên đã bị bắt, trong đó có ba hạt giống đỏ Mai Xá.



Bọn thực dân Pháp và Nam triều ở tỉnh Quảng Trị đã kết án 31 hội viên Thanh niên tại phiên toà ngày 13-10-1929, trong đó Trương Khắc Khoan 11 năm tù, Trương Quang Phiên 10 năm tù và Trương Quang Côn 11 tháng tù. Nhưng tù tội chẳng qua là nơi rèn khí tiết, đợi thời cơ. Và rồi thời cơ khởi nghĩa, cướp chính quyền đã đến với khí thế trống giong, cờ mở của mùa thu tháng Tám. Ngày 18-8-1945, tại sân đình làng Mai Xá Chánh, cụ Trương Quang Phiên, hạt giống đỏ “Thanh niên” ngày nào đã chủ trì lãnh đạo việc cướp chính quyền ở địa phương và chuẩn bị ra mắt Uỷ ban khởi nghĩa. Cũng tại sân đình này, đêm 1-9-1945, cụ Trương Quang Côn, Chủ nhiệm Việt Minh xã đã tập hợp, dẫn đầu một đoàn đại biểu dân làng náo nức tiến về thị xã Quảng Trị mừng ngày Quốc khánh 2-9-1945. Nhưng thực dân Pháp không từ bỏ âm mưu cướp nước ta lần nữa. Vì thế, cùng với cả nước, người làng Mai đã tức thì đứng lên kháng Pháp bằng việc gửi con em vào đoàn Nam tiến để chia lửa với chiến trường miền Nam. Cùng với cả huyện, người làng Mai đã góp phần tạo dựng nên “Huyện kháng chiến kiểu mẫu” Gio Linh - danh hiệu được tỉnh công nhận năm 1949 - bằng “kiểu mẫu” riêng, bằng cốt cách truyền thống hun đúc và bằng cả những huyền thoại có thật: đau thương mà bi tráng, uất hận mà khí tiết...trong đó mãi lung linh huyền thoại mẹ Gio Linh.



Ký ức người Mai Xá không bao giờ quên ngày uất hận, ngày giặc Pháp ở đồn Nhĩ Hạ bắt được hai anh Nguyễn Đức Kỳ, xã đội trưởng xã Linh Hưng (nay là xã Gio Mai) ở thôn Lâm Xuân, Gio Mai và anh Nguyễn Phi, cán bộ bình dân học vụ ở miếu Đôi ngoài đồng Mai Xá đưa về đồn tra tấn suốt ngày đêm, rồi hành quyết cắt đầu hai anh đem cắm ở chợ trước cổng đình làng Mai Xá Chánh ngày 16-8-1948. Ông Trương Ký Túc, người làng Mai Xá Chánh, nay đã 72 tuổi, lúc đó hãy còn là một chú bé đi chăn bò chứng kiến sự việc bi thương này, nhớ lại: “Sáng đó, lúc 4 giờ tôi đã dậy đi lùa bò. Do bò chạy vào đình làng, tôi phải vào lùa, chợt thấy có hai đầu người bị Tây cắm trên đòn xóc trước đình. Tôi vuốt vào cái đầu người thấy láng mượt, sợ quá, tôi vội quay ra, bị con bò đạp lên chân làm toe móng chân. Chỗ móng chân bị bò đạp vẫn còn “kỷ niệm” mãi đến nay”. Đã làm cái việc dã man trung cổ là bêu đầu, lại còn xức dầu bidăngtin láng mượt lên đầu hai chiến sĩ theo kiểu “hoa lệ” thực dân đểu cáng, giặc Pháp hòng răn đe, làm nhụt ý chí kháng chiến của quân dân Gio Linh. Nhưng chúng đã nhầm to và càng làm mồi thêm ngọn lửa căm thù bốc cao như núi. Trước khi bị hành quyết, hai anh đã dõng dạc gửi lại nghĩa khí cho đời, như trong bài thơ “Mẹ già liệt sĩ làng Mai” của Mai Quang Trí, một tác giả quê ở chính làng Mai Xá Thị, Gio Mai, Gio Linh đã cảm khái và hào sảng viết: “Họ hô to “Độc lập muôn năm”, Họ hô lớn “Việt Nam bất diệt”...



Anh Nguyễn Đức Kỳ quê ở làng Mai Xá Thị, Gio Mai, Gio Linh, là con của ông Nguyễn Xun và bà Lê Thị Cháu (tên thật là Lê Thị Lý), dân làng quen gọi là ông bà Diêu Cháu. Anh Nguyễn Phi quê ở làng Mai Xá Chánh, Gio Mai, Gio Linh, là con của ông Nguyễn Sửu (thường gọi là ông Cửu Đen) và bà Hoàng Thị Sáng. Chính những người mẹ đứt ruột sinh ra những cái đầu gan góc đã quặn lòng nuốt hận mang thúng đi lấy đầu con về. Từ phía đình làng Mai Xá Chánh trong ngày trời đất nhuốm màu tang tóc, có bóng những người phụ nữ cắp thúng mủng giả dạng đi chợ nhưng thực ra là đi lấy đầu liệt sĩ làng Mai, đóï là mẹ Lê Thị Cháu và bà Khương Thị Mén, thím của anh Nguyễn Đức Kỳ (bà Mén là vợ ông Nguyễn Văn Thạng, em ruột ông Nguyễn Xun), mẹ Hoàng Thị Sáng và bà Bùi Thị Con, thím của anh Nguyễn Phi (bà Con là vợ ông Nguyễn Văn Di, em ruột ông Nguyễn Sửu). “Con mang theo dòng máu anh hùng, Sống chiến đấu, chết toàn danh tiết, Con ra đi hình hài tuấn kiệt, Con trở về có chiếc đầu thôi”.



Để tránh Tây lùng sục, các mẹ đã giấu đầu hai anh kín đáo ở trên tra, gần nóc nhà, sau đó nhờ người đóng những chiếc hòm đặc thù hình vuông khâm liệm hai anh rồi đem chôn. Đầu anh Kỳ được chôn tại vùng Dôông, Mai Xá Chánh, đầu anh Phi được chôn tại nghĩa địa Cồn Dài, xóm Kênh, Mai Xá Chánh. Ba đêm sau, tại nhà mẹ Cháu, bộ đội, du kích đã về cùng bà con quây quần làm lễ truy điệu cho các anh sát nách đồn giặc ở Mai Xá. Gương hy sinh bất khuất của hai anh đã có sức hiệu triệu lay động mạnh mẽ lòng người, sức mạnh kỳ diệu đó vang vọng cả trong thơ và trong nhạc: “Đồng đội đến trăm người, trăm hỏi, Anh em đầy đủ mặt bốn bề, Nhìn nhau đi cho dạ tái tê, Cho uất hận trào lên cực độ” (Mai Quang Trí).



Từ đó, huyền thoại mẹ Gio Linh đã kết nên tượng đài đau thương lộng lẫy, bất diệt sừng sững đổ bóng xuống những giai điệu có sức lan toả nhanh rộng thời bấy giờ trong bản nhạc “Bà mẹ Gio Linh” của nhạc sĩ Phạm Duy: “Mẹ già cuốc đất trồng khoai, nuôi con đánh giặc đêm ngày, cho dù áo rách sờn vai, cơm ăn bát vơi bát đầy, hò ơi ơi ới hò...Mẹ già tưới nước trồng rau, nghe tin xóm làng kêu gào, quân thù đã bắt được con, mang ra giữa chợ cắt đầu, hò ơi ơi ới hò, nghẹn ngào không nói một câu, mang khăn gói đi lấy đầu”. Hình ảnh bên mẹ sau cái chết nghĩa khí của con mẹ đã chắp cánh cho Phạm Duy viết nên những nốt nhạc đau thương nhưng không bi luỵ mà bi hùng: “Đoàn người kéo đến nhà chơi, khơi vui bếp lửa tơi bời...Khi trông con nuôi xúm xít dưới túp nhà, mẹ nhìn đàn con thương nhớ đứa con xưa”. Con mẹ đã hy sinh, nhưng mẹ có cả đàn đàn con nuôi là bộ đội về làm ấm lòng mẹ.



Các anh ngã xuống trút nghĩa khí cho chính khí đất trời, còn hình hài đã hoá thân vào đất đai sông núi, không mất đi đâu cả, cho dẫu chết đầu lìa khỏi xác. Hai anh đã được mẹ Gio Linh lấy đầu về chôn cất, nhưng tấm thân còn vùi khuất đâu đó bên đồn Pháp dã man Nhĩ Hạ. Mãi mấy năm sau, khoảng năm 1952-1953, lúc thế giặc nao núng, gia đình mới đi lấy được thân xác hai anh về. Ông Nguyễn Sửu, bố anh Nguyễn Phi đã đi lấy thân xác anh, cùng đi có đứa cháu ngoại mới 9 tuổi lon ton theo, đó là chú bé Trần Thành Huế, cháu gọi anh Nguyễn Phi bằng cậu ruột. Tôi đã hỏi chuyện giáo sư tiến sĩ Trần Thành Huế, Chủ nhiệm khoa Hoá, Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, tức là chú bé thuở ấy về ký ức xưa đau đớn, ngậm ngùi. Trải qua tháng năm dằng dặc, ký ức thuở còn bé trong ông vẫn giữ vẹn nguyên đến từng chi tiết về hình dáng người cậu oanh liệt: “Khi đào hố lên, ở hố chôn tập thể, tôi thấy có tóc của những người phụ nữ rất xanh. Những người đã chôn xác cậu tôi và ông Kỳ họ rất có ý thức, họ chôn riêng ra một góc, nên ông ngoại tôi tìm ra được. Cậu tôi có một chân bị tật vòng kiềng, xương ống chân bị cong. Nhờ dấu hiệu đó, ông ngoại tôi nhận ra ngay hình hài cậu tôi”. Thi hài các anh vậy là đã được gắn kết trọn vẹn. Mộ anh Kỳ hiện được đặt trong khu lăng mộ phái Nguyễn Đức tại Cồn Go, Mai Xá Thị, mộ anh Phi đặt trong khu lăng mộ gia đình tại Cồn Dài, xóm Kênh, Mai Xá Chánh.



Mỗi lần về Gio Mai, Gio Linh, tôi thường tần ngần đến viếng đình làng Mai Xá Chánh để được sống trọn vẹn với niềm cảm khái trào dâng về nghĩa khí “gan Mai Xá” và cốt cách “mai vàng tụ nghĩa”. Cái thế vững như bàn thạch của đất này đã được diễn tả qua câu đối tạc trên cổng đình Mai Xá Chánh: “Thượng hạ cửu xã phường, giang sơn ngật để trụ, Tây Đông giáp Tiên Việt, môn địa tráng trường thành”, tạm dịch: trên dưới chín xã, phường (đất Mai Xá ngày trước rất rộng gồm xã Mai Xá Chánh và 8 phường: Xuân Lộc, Đào Xuyên, Quảng Xá, Nam Đông, Nam Tây, Bái Sơn, Phú Phụng, Phú An, gọi là bát phường Mai Xá thuộc tổng Bái Trời), giang sơn cao gốc vững, Tây Đông giáp Cồn Tiên, Cửa Việt, cửa đất rộng thành dài. Phát huy truyền thống “kháng chiến kiểu mẫu” thời chống Pháp, tạo thế tấn vững vàng trên “dãi trường thành” này,



Anh Trương Quang Tùng, một “nhà khuyến học” của làng Mai, một người say sưa sưu tầm những tư liệu lịch sử về làng Mai đã nhiệt tình dẫn tôi ngược chuyến tàu thời gian trở về với quá khứ làng Mai oanh liệt. Anh tất tả ngược xuôi dẫn tôi đi thăm thú nết đất, nét người Gio Mai. Một buổi chiều vàng trong gian nhà nhỏ ấm cúng của mình, anh mở chiếc máy cát xét cũ kỹ cho tôi nghe đoạn băng ghi âm cũng đã rất cũ, ghi lại buổi phỏng vấn nhạc sĩ Phạm Duy và ca sĩ Thái Thanh về bài hát “Bà mẹ Gio Linh” do đài Pháp RFI thực hiện năm 2001. Đoạn băng nghe tiếng được, tiếng mất nhưng vẫn nổi rõ tiếng lòng thổn thức của Phạm Duy và Thái Thanh về bà mẹ Gio Linh. Phạm Duy cho biết ông sáng tác “Bà mẹ Gio Linh” trong có một đêm, lúc nằm trên giường tre ở chiến khu. Ông nghẹn ngào kể: “Tôi làm xong tôi khóc. Tôi nhớ hoài, tôi khóc như một đứa con nít”. Giọng Thái Thanh chùng xuống, vẻ thấm thía: “Một bà mẹ bình thường con cái đã là một gánh nặng lớn của mẹ rồi, huống chi lại còn trong thời chiến tranh nữa. Cái bi kịch này nó ghê gớm quá. Lần nào hát “Bà mẹ Gio Linh” tôi cũng khóc”. Anh Tùng và tôi đặc biệt cùng để ý đến đoạn bình luận của đài Pháp: “Những giây phút sáng tạo như thế không đến nhiều lần trong đời nghệ sĩ...Từ niềm đau cá nhân của một bà mẹ đã thăng hoa thành niềm đau chung của một dân tộc và của loài người”. Đài Pháp quả đã công nhận cái “thần hứng” mà bà mẹ Gio Linh đã mang lại cho người nghệ sĩ. Nội dung buổi phỏng vấn này tôi đã nghe rõ hơn qua đĩa CD do nhạc sĩ Phạm Duy mở cho nghe, trong lần tôi gặp nhạc sĩ đang ở tại Khách sạn Saigon Star. Sau khi được Nhà nước cho phép hồi hương, nhạc sĩ đã bộc bạch trên báo chí rằng chặng đời ba mươi năm qua ở hải ngoại của mình như một giấc ngủ dài, tỉnh dậy thấy trời sáng. Khi giai điệu dân ca bi hùng của “Bà mẹ Gio Linh” được tấu lên qua đĩa CD, người nhạc sĩ già 85 tuổi làm lại cuộc đời, người nhạc sĩ già viết đơn xin Mẹ Việt Nam “cho đi lại từ đầu”, như lời trong ca khúc “Kỷ niệm” (ca khúc này, cùng với “Bà mẹ Gio Linh” nằm trong số những ca khúc của Phạm Duy đã được Bộ Văn hoá cho phép phổ biến), người nhạc sĩ trắng xoá cả mái đầu vì ôm mối sầu xa cố xứ này đã lặng người đi. “Người Việt Nam vốn theo dòng mẫu hệ, tình mẹ nặng lắm - Nhạc sĩ Phạm Duy xúc động tâm sự - Một đất nước có một nhân vật như bà mẹ Gio Linh đáng quý lắm”. Hồi ấy, năm 1948, trong chuyến công tác vào chiến trường Bình Trị Thiên, Phạm Duy đã đến làng Mai, được nghe và được gặp hình ảnh bà mẹ Gio Linh với câu chuyện đau thương “chấn động” lẫy lừng. Mẹ Diêu Cháu với gương mặt đã mang nhiều nếp nhăn nheo của thời gian nhưng đối với Phạm Duy, “mẹ đẹp như một vị thánh” (chữ dùng của Phạm Duy), khiến cho Phạm Duy bị xâm chiếm cả cõi lòng, trở nên lúng túng không biết nói năng gì với mẹ, đành nhờ người đưa đường nói hộ.



Mẹ dẫn Phạm Duy đi qua một rặng tre để ra tới chợ làng Mai, nơi ngày nào mẹ đến lấy đầu con “tay nâng nâng lên, rưng rức nước mắt đầy”. Từ đó, mẹ Gio Linh đã thành một ám ảnh nghệ thuật và ám ảnh cuộc đời đeo đẳng, “không buông tha” Phạm Duy cả nhiều năm về sau này. Năm 1951, khi trót bước chân qua Phát Diệm để rời xa cuộc kháng chiến chống Pháp, Phạm Duy đã khóc vì tiếc thương cho những năm đem hết tâm trí ra phục vụ cách mạng và kháng chiến. Nước mắt Phạm Duy lúc rơm rớm, lúc trào rơi vì bao hồi ức nhưng bỗng đã tuôn ào ào khi nghĩ đến chuyện bi hùng của bà mẹ Gio Linh. Năm 2003, Phạm Duy đã về thăm lại chỗ nhà cũ của mẹ Diêu Cháu. Năm 2005, nhạc sĩ được hồi hương, “lá rụng về cội” và bài hát “Bà mẹ Gio Linh” được phép phổ biến. Ôi! Mẹ Gio Linh, Mẹ Việt Nam đôn hậu và bao dung nhường nào, bởi mẹ biết năm ngón tay có ngón ngắn, ngón dài, nhưng ngắn dài đều trên một bàn tay. Trong một thư mail cho nhạc sĩ Phạm Duy, tôi có nhắc một ý của nhà thơ lớn Tố Hữu nói sau ngày đất nước giải phóng năm 1975 rằng, Phạm Duy hãy cứ ở lại đất nước, đừng đi đâu cả và tiếp tục sáng tác, để khúc giữa qua một bên, lấy khúc đầu (kháng chiến) và khúc đuôi (hoà bình). Gửi mail lại cho tôi, nhạc sĩ Phạm Duy hứng khởi viết: “Hãy sống với một Việt Nam hôm nay và ngày mai, rạng rỡ huy hoàng”.



“Xuân làng Mai đã trổ màu”, câu thơ của nhóm Bích Khê Hoàng gia thi phái (nhóm thơ họ Hoàng làng Bích Khê, Triệu Long, Triệu Phong) gửi báo “Xuân làng Mai”, tờ báo viết tay của người làng Mai ra đời thời tiền khởi nghĩa quả đã ứng vận với hôm nay. Đình Mai Xá Chánh đang được trùng tu lại và đề nghị công nhận di tích lịch sử của tỉnh. Cả đến con rùa trong đình này cũng có một số phận hy hữu lạ thường. Năm 1968, lính Mỹ đưa xe về húc tan đình làng và lấy đi con rùa trong đình, con rùa quý, trên thân mạ sắc vàng và có hai con hạc đứng. Năm 1995, chính người lính Mỹ lấy rùa đình làng Mai Xá Chánh đã mang rùa sang trả lại cho làng. Người Mỹ cũng đã biết lỗi trước văn hoá làng Mai vậy.



Người làng Mai không những đánh giặc dũng khí có thừa mà còn chuộng tài hoa văn chương, học vấn hết mực. Một sớm, anh Tùng dẫn tôi băng vào một vùng cây cối nguyên sinh rậm rạp, đó là lòi Mai Xá Chánh, nơi người làng Mai đã dựng nên Văn Thánh vào năm 1910 nhằm tôn vinh những người học hành đỗ đạt. Ngày trước, cạnh Văn Thánh có một cây trầm nguyên sinh to lớn, mình chảy nhựa đầy. Làng làm lễ “khuyến học” tại Văn Thánh trong hương nhựa trầm xông ngào ngạt. Anh Tùng và tôi bâng khuâng bước trên nền Văn Thánh, lần tìm những viên gạch cũ, bóc gỡ lớp rêu phong của thời gian vẫn thấy hiện nguyên sắc nâu hồng được nung đúc từ bầu máu nóng của ông cha. Năm 1980, nhà khảo cổ học Trần Quốc Vượng đã đến đây để khảo sát, cho đào hố khai quật. Ông đề nghị cho rào lại khu vực Văn Thánh để bảo vệ, trong khi chưa phục chế. Thời chiến dùng võ công. Thái bình dùng văn trị. Hương mai, hương trầm làng Mai thêm ngát lừng




--------------------------------------------------------------------------------



Những bài viết khác cùng tác giả:

Chiều kích đặc biệt của con người ...(Nguyễn Hoàn)

Festival Huế (Nguyễn Hoàn)

Gặp Chủ Nhiệm Đề Án Mới Trên Hành Lang Kinh Tế Đông Tây (Nguyễn Hoàn)

Mẹ Gio Linh - Mẹ Việt Nam (Nguyễn Hoàn)

Những sai lệch, thiếu sót trong “Trịnh Công Sơn, vết chân dã tràng” (Nguyễn Hoàn)

Thượng Thư Bộ Lễ Lê Trinh (Nguyễn Hoàn)

Trường Sa trong thơ Trần Đăng Khoa (Nguyễn Hoàn)

Tư tưởng đổi mới của TBT Lê Duẩn (Nguyễn Hoàn)

Về cái gọi là “học thuật” của Ban Mai trong nghiên cứu Trịnh Công Sơn (Nguyễn Hoàn)

Để hiểu đúng câu Kiều về chữ “tâm” của Nguyễn Du (Nguyễn Hoàn)

“Lao động, tình thương và lẽ phải” của Lê Duẩn (Nguyễn Hoàn)