THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THI VÂN YÊN TỬ

SỚM CHIỀU DU NGOẠN CÙNG MÂY NÚI
HOA TRÁI QUA NGÀY TA VỚI TA

Thứ Bảy, 11 tháng 4, 2015

CIA và điệp vụ nghe lén tại Nghệ An năm 1972

Người thành cổ Quảng trị
Năm 1972, CIA đã thực hiện một kế hoạch liều lĩnh: Đó là cử một nhóm biệt kích gồm 2 người xâm nhập tỉnh Nghệ An để cài đặt thiết bị nghe lén vào đường dây điện thoại…


Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, miền Bắc vẫn là mục tiêu tối quan trọng đối với Cơ quan Tình báo trung ương Mỹ (CIA). Để theo dõi mọi động thái quân sự, chính trị, ngoại giao của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, dưới đất họ tung ra miền Bắc hàng chục toán biệt kích, ngoài biển là lớp lớp tàu trinh sát thuộc Hạm đội 7, còn trên trời là máy bay do thám U2.
Tuy nhiên, những tin tức thu lượm được chưa làm hài lòng giới cầm quyền nước Mỹ. Vì thế, năm 1972, CIA đã thực hiện một kế hoạch liều lĩnh: Đó là cử một nhóm biệt kích gồm 2 người xâm nhập tỉnh Nghệ An để cài đặt thiết bị nghe lén vào đường dây điện thoại…

1. Trong suốt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, tin tức về miền Bắc Việt Nam do các cơ quan tình báo Mỹ như tình báo Lục quân, Hải quân, Không quân, CIA, NSA… thu được rất ít ỏi. Một phần vì quân dân miền Bắc không ngừng nâng cao tinh thần cảnh giác.
Mặt khác, các nhà lãnh đạo Hà Nội hạn chế sử dụng sóng vô tuyến trong thông tin liên lạc đến mức tối đa vì họ biết hệ thống trinh sát điện tử của người Mỹ đặt tại bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, các trạm thu tin trên đất Lào và các tàu mã thám thuộc hạm đội 7 thường xuyên lảng vảng ở ngoài khơi vịnh Bắc Bộ có thể dễ dàng bắt được tần số của các sóng này, và đội ngũ chuyên viên giải mã của Mỹ đều là những người giỏi.
Vì vậy, phần lớn mệnh lệnh chỉ huy chiến đấu của Quân đội nhân dân, của Lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đều thông qua mạng lưới điện thoại hữu tuyến.
Điều này có cái bất lợi là phải rải dây - lắm khi dài cả trăm kilômét, xuyên qua đèo cao, dốc thẳm, rừng già…, đồng thời phải thường xuyên túc trực một đội quân vừa đề phòng biệt kích phá hoại, vừa làm nhiệm vụ bảo trì, sửa chữa, thay thế nếu chẳng may nó bị đứt hoặc hở mạch.
Tuy nhiên, ưu điểm do đường dây hữu tuyến mang lại là đối phương khó có thể nghe lén vì nếu muốn nghe lén, người Mỹ phải cử kỹ thuật viên đến tận nơi, sờ tận tay nhưng đó là chuyện không tưởng, chưa kể khi bộc lộ phần lõi bằng đồng hoặc bằng kim loại khác bên trong sợi dây để kết nối thiết bị nghe lén, nó sẽ tạo ra nhiễu - dù chỉ một thời gian rất ngắn nhưng vẫn có thể khiến người trực tổng đài nghi ngờ.
2. Đầu tháng 2/1971, trong một phi vụ do thám trên bầu trời miền Bắc Việt Nam, máy bay U2 đã chụp một loạt ảnh tại một khu vực cách thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An khoảng 46km về phía tây nam.
Phân tích những bức ảnh này, chuyên viên không ảnh ở căn cứ Clark, Philippines nhận thấy có một đường dây điện thoại được mắc trên những thanh ngang, đóng vào những cây cột bằng gỗ cao khoảng 4m, nhìn như những cây thập giá.
Cạnh đó là một con đường đất nhỏ, có lẽ dành cho xe đạp chạy song song với những cột điện thoại. Đường dây ấy kéo dài đến gần con sông Lam rồi đi lên một sườn núi.
Đến đoạn này, con đường đất kết thúc, có lẽ do địa hình quá dốc đối với xe đạp, còn những cột điện thoại thì tiếp tục đi sâu vào trong núi. Tại đây, có một căn nhà nhỏ, xây bằng gạch không tô, nằm ẩn khuất dưới những tán lá. Và do rừng quá rậm rạp nên những bức ảnh không cho biết đường dây điện thoại ấy còn kéo dài đến đâu.
Từ lâu, CIA đã biết Nghệ An là một trong những điểm tập kết người, vũ khí cùng hàng tiếp liệu chi viện cho chiến trường miền Nam bằng cách qua Lào rồi đi vào một tỉnh nằm ở bắc Tây Nguyên là Kon Tum.
Trong hồ sơ "Im lặng số 1 - Những bí mật của cuộc chiến Việt Nam - Quiet One - The Secrets in Vietnam War", báo cáo của sĩ quan do thám điện tử McTunler gửi Lầu Năm Góc đã viết: "Đây chắc chắn là hệ thống thông tin liên lạc, chỉ đạo những cuộc hành quân sang Lào và đây cũng là địa điểm lý tưởng để đặt thiết bị nghe lén".
Liên tục trong suốt tháng 2, máy bay do thám U2 chụp thêm hàng trăm tấm ảnh về đường dây điện thoại.
Qua phân tích, các chuyên viên không ảnh nhận thấy việc tuần tra bảo vệ không tuân theo quy luật nào. Có khi là hai người đàn ông trên một chiếc xe đạp, vai đeo súng trường CKC, sáng sớm chạy đến cạnh con sông Lam thì dừng lại, ở đó khoảng nửa tiếng rồi quay về. Cũng có khi một tốp vài người có vũ trang, từ căn nhà trên sườn núi đi bộ xuống vào buổi chiều.
Đặc biệt nhất là những tấm ảnh chụp một nhóm kỹ thuật viên sửa chữa đường dây. Họ dùng hai chiếc thang bằng tre chụm vào nhau theo hình chữ V ngược rồi một người trèo lên, còn vài người giữ thăng bằng ở phía dưới.
Các bức ảnh cho thấy những đoạn dây cần sửa chữa đều nằm ở giữa hai cột, bị đứt do nhánh cây rừng rơi xuống hoặc do lâu ngày, dưới tác động của sức nóng mặt trời, lớp nhựa bọc dây lão hóa, bong tróc ra. Khi gió thổi mạnh, hai sợi dây thỉnh thoảng lại chập vào nhau gây đoản mạch.
Thời điểm này, Ngoại trưởng Mỹ là Henry Kissinger đã có những cuộc gặp riêng với đại diện Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa là Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thủy nên Tổng thống Richard Nixon cũng như Lầu Năm Góc và CIA rất muốn biết các động thái của Quân Giải phóng trên chiến trường miền Nam Việt Nam, nhất là nếu Hiệp định Paris được ký kết. Vì vậy, việc nghe lén điện thoại lại càng thêm cấp thiết.
Theo chuyên gia phân tích của CIA là Dustin Kane thì: "Biết trước được những hành động của đối phương sẽ giúp chúng ta có lợi thế hơn nếu cần phải đánh phủ đầu, cũng như trong đàm phán".
Đến tháng 4/1971, một kế hoạch đã được CIA lập ra. Đó là một tấm pin mặt trời đường kính chỉ 10cm sẽ được lắp vào một đỉnh cột điện thoại để cung cấp năng lượng cho một máy thu, phát sóng cũng chỉ nhỏ bằng nửa bao thuốc lá đặt kế bên. Tất cả đều ngụy trang cho giống với màu sắc cây cột và nếu chỉ nhìn lướt qua, rất khó phát hiện.
Do máy thu, phát sóng nhỏ, công suất yếu, CIA sẽ thiết lập một trạm khuếch đại tín hiệu trên đất Lào rồi từ trạm này, những cuộc đàm thoại nghe lén được sẽ chuyển tiếp về Thái Lan.
Vẫn theo sĩ quan do thám điện tử McTunler: "Kế hoạch hoàn hảo đến nỗi chúng tôi tưởng như việc đặt thiết bị nghe lén sẽ chẳng gặp một trở ngại gì, giống như bạn leo lên nóc nhà mình để dựng một ăng ten thu tín hiệu truyền hình vậy".
Tuy nhiên, làm thế nào để có thể đặt thiết bị nghe lén một cách an toàn, không bị phát hiện? Rút kinh nghiệm những toán biệt kích gửi ra Bắc đều bị bắt hoặc sau khi nhảy xuống đất, mọi liên lạc với trung tâm chỉ huy ở Sài Gòn cũng im luôn nên phương án sử dụng kỹ thuật viên từ lãnh thổ Lào, vượt biên giới bí mật tiếp cận với đường dây điện thoại bị bác ngay từ đầu.
Với phương án một cuộc đột kích chớp nhoáng, bắt cóc một hay vài người dân ở những khu vực xung quanh rồi mua chuộc và huấn luyện họ cách thức cài đặt thiết bị nghe lén cũng bị xem là ảo tưởng bởi lẽ cuộc đột kích ấy chắc chắn không thể giữ bí mật được lâu khi gia đình của những người bị bắt cóc không thấy chồng, cha, anh, họ về, mà thời gian để mua chuộc, dụ dỗ, huấn luyện lại không chỉ một ngày một bữa.
Sau nhiều cuộc họp bàn bạc, tranh luận dựa trên những dữ kiện do nhóm chuyên viên phân tích không ảnh cung cấp, những người đứng đầu CIA chọn phương án tiếp cận đường dây điện thoại bằng trực thăng.
Một chiếc trực thăng bay ở chế độ bay treo - nghĩa là đứng yên một chỗ ngay trên cột điện thoại, thả kỹ thuật viên xuống bằng thang dây, lắp đặt thiết bị nghe lén rồi lại bay lên ngay xem ra khả thi.
Tuy nhiên, với những loại trực thăng của Hãng Hàng không Mỹ (Air America) - là hãng hàng không có vỏ bọc dân sự, hoạt động dưới sự chỉ huy trực tiếp của CIA - có thể thực hiện phương án này là Bell 205, H 34, UH thì tiếng ồn do động cơ gây ra quá lớn, ai cũng nghe được trong phạm vi bán kính đến vài kilômét.
CIA va diep vu nghe len tai Nghe An nam 1972
Chiếc trực thăng Hughes 500 số hiệu N351X tại căn cứ PS-44, Pakse, Lào trước ngày xâm nhập tỉnh Nghệ An.

Cuối cùng, CIA quyết định chọn loại trực thăng OH6A - Loach để tiến hành việc nghe lén, và kế hoạch nghe lén mang mật danh là "Chính lộ - Main Street".
3. Được Hãng Hughes, Mỹ, chế tạo, trực thăng OH6 có thể đảm nhiệm các chức năng tấn công, hộ vệ và trinh sát. Nó được trang bị động cơ Allison T68-A5A công suất 317 mã lực, trọng lượng rỗng là 696kg, tải trọng tối đa 1.610kg. OH6 có thể bay với vận tốc 282km/giờ và hoạt động trong phạm vi 430km.
Được vũ trang bằng 2 súng máy M60 hoặc 1 đại liên minigun 6 nòng, hoặc 2 đại liên 12,7mm cùng 14 quả rốckét 70mm Hydra và 4 tên lửa chống tăng TOW hay tên lửa Hellfire nên vì thế, OH6 có hỏa lực khá mạnh. Hơn nữa, nó còn được lắp đặt một thiết bị "phun lưới bắt người".
Nếu phát hiện 1 hoặc 2 người đang di chuyển trên một địa hình trống trải và nếu nghi ngờ đó là du kích, phi công sẽ cho máy bay sà sát xuống rồi bấm nút phun lưới.
Tấm lưới làm bằng sợi kelva mảnh như sợi chỉ nhưng sẽ thít chặt vào thân thể người bị bắt, càng giãy giụa nó càng thít chặt hơn, thậm chí cứa đứt da. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng người dân gọi OH6 là trực thăng "cán gáo" bởi lẽ hình dạng nó giống một quả trứng với cái đuôi mỏng manh, nhìn y như cái gáo múc nước.
Khi đưa vào sử dụng tại chiến trường miền Nam Việt Nam, người Mỹ đã cho in những tờ truyền đơn bằng tiếng Việt, rải xuống những vùng giải phóng, tuyên truyền rằng OH6 có thể "bay thụt lùi rồi dùng cánh quạt đuôi quậy nát những vách nhà bằng tranh hoặc lá dừa nước để phát hiện du kích Việt Cộng ẩn náu bên trong".
Tuy nhiên, đó là chuyện thổi phồng nhằm tạo ra hoang mang tâm lý bởi lẽ bay thụt lùi thì được, nhưng cánh quạt đuôi nếu chém vào những thân tre dùng làm cột nhà sẽ bị cong, thậm chí còn có thể gãy. Khi ấy, việc triệt tiêu mô men xoắn do cánh quạt chính tạo ra sẽ mất, và trực trăng sẽ xoáy trôn ốc trước khi cắm đầu xuống đất.
Trở lại chuyện xâm nhập tỉnh Nghệ An, thời điểm ấy Air America đang sở hữu 2 chiếc trực thăng OH6, nhưng là phiên bản dành cho dân sự, không vũ trang, được định danh là Hughes 500.
Khi quyết định chọn loại máy bay OH6 làm con át chủ bài cho việc cài đặt thiết bị nghe lén điện thoại, CIA lấy cả hai  chiếc Hughes 500 của Air America rồi chuyển cho Hãng Hughes, cấp cho họ 200 nghìn USD, yêu cầu họ làm thế nào để giảm bớt đến mức tối đa tiếng ồn do động cơ gây nên.
Suốt 3 tháng làm việc cật lực, bộ phận chuyên gia của Hughes đã thành công bằng cách thay đổi cấu trúc của cánh quạt, từ 2 lá tăng lên 4 lá, đồng thời lắp đặt thêm một bánh răng có tác dụng làm giảm vận tốc quay của cánh quạt đuôi, bố trí thêm một thùng xăng phụ trong khoang hành khách để kéo dài thời gian hoạt động, ống xả cũng được kéo dài về phía sau với những vách ngăn "lá sách" nhằm giảm tiếng ồn. Sau khi hoàn thành, chiếc Hughes 500 được đặt tên là "Im lặng số 1 - Quiet One".
Tiến hành bay thử, Hãng Hughes chọn một khu ngoại ô giàu có ở thành phố Los Angeles, nơi cư dân không ngớt than phiền về những tiếng động ầm ĩ của trực thăng cảnh sát tuần tra, bay ở độ cao thấp.
Kết quả ngoạn mục đến nỗi trong suốt 7 ngày kể từ lúc tiến hành bay thử, người dân ở khu ngoại ô này đã hỏi nhau, rằng không biết ngân sách thành phố có cắt giảm tiền xăng cho trực thăng tuần tra hay không mà cả tuần lễ chẳng thấy bóng dáng một chiếc nào…

4. Sau khi hoàn chỉnh hai chiếc trực thăng Hughes 500 Quiet One, dựa vào những bức không ảnh chụp đường dây điện thoại tại Nghệ An, CIA cho dựng một sa bàn sát với kích thước, giống như thật, kể cả một đoạn sông Lam cũng được đào nhưng không có nước, nằm sát một ngọn núi trong căn cứ bí mật "Vùng 51 - Air Force Area 51" thuộc bang Nevada.
Để che mắt vệ tinh trinh sát Liên Xô mỗi ngày bay qua nước Mỹ 6 lần, CIA ngụy trang sa bàn thành một phim trường, đang thực hiện quay một bộ phim hành động với những chiếc xe sơn màu trắng, bên hông có hàng chữ to đùng Paramount - là tên một hãng phim ở Hollywood, Mỹ - cùng hệ thống đèn rọi cỡ lớn và hàng chục tấm panô chiếu sáng, hàng dãy nhà tiền chế, đặt lộ thiên ngoài trời.
Tháng 8/1971, hai phi công người Đài Loan thuộc Không đoàn 34 Trung Hoa Dân quốc được gọi sang Nevada. Hướng dẫn cho họ tập bay trên chiếc Hughes 500 Quiet One là hai phi công kỳ cựu của Air America: Lloyd George Anthony Lamothe Jr. và Daniel H. Smith. Bên cạnh đó, hai biệt kích người Lào cũng được gọi sang để huấn luyện cách thức lắp đặt thiết bị.
Đến lúc này, Hãng Hughes lại đưa ra một cải tiến. Thay vì thả biệt kích xuống trụ điện thoại để lắp đặt thiết bị nghe lén bằng thang dây thì họ gắn ở hai bên cửa trực thăng, mỗi bên một tấm kim loại bằng nhôm tựa như chiếc ghế.
Biệt kích ngồi trên ghế này chỉ cần khom người xuống thao tác trong lúc trực thăng vẫn bay treo tại chỗ. Bên cạnh đó, Hughes 500 Quiet One còn được lắp đặt camera hồng ngoại FLIR để bay đêm.
Daniel H. Smith kể: "Từ độ cao 500m, tôi dạy phi công Đài Loan cách hạ xuống mục tiêu thật nhanh rồi giữ cho trực thăng đứng yên trong 2 phút. Sau đó lên ngay. Cũng có khi tôi cho họ bay cách mặt đất 2m rồi đột ngột bốc lên 4,5m, điểm dừng ngay trên đỉnh cột điện thoại".
Zuckerman, sĩ quan phụ trách huấn luyện lắp đặt thiết bị nghe lén nói: "Trong hơn 90 lần thực tập, thời gian lắp đặt hoàn chỉnh của biệt kích Lào trung bình là 1 phút 18 giây. Đến giai đoạn cuối, họ rút xuống còn 1 phút 6 giây nhưng tôi sẽ cố gắng để họ thực hiện chỉ trong 1 phút".
Tháng 10/1971, CIA chuyển hai chiếc Hughes 500 đến căn cứ không quân thuộc Không đoàn 34 ở Đài Loan. Tại đây, phi công Đài Loan tiếp tục tập bay đêm, bay trong điều kiện thời tiết xấu, gió thổi mạnh hoặc sương mù.
Kết quả cho thấy trong điều kiện thời tiết bình thường, khi đã vào đến mục tiêu, việc lắp đặt thiết bị nghe lén tính từ lúc Hughes 500 bắt đầu bay treo trên đỉnh cột cho đến khi hoàn tất, thời gian chỉ là 1 phút 4 giây. Nếu có sương mù đậm, thời gian là 1 phút 27 giây, còn nếu gió thổi với tốc độ 15m/giây thì thời gian xấp xỉ 2 phút.
5. Một tối tháng 5/1972, hai chiếc Hughes 500 mang số hiệu N351X và N352X được chuyển đến Thái Lan. Sau khi lấy thêm nhiên liệu, nó bay sang Lào cùng với một máy bay vận tải C130 chở theo các chuyên gia kỹ thuật.
Don Stephens, người quản lý hai chiếc Hughes 500 tại căn cứ bí mật PS-44 của CIA ở tỉnh Pakse, Lào kể lại: "Khi nó hạ cánh, tôi đã cố gắng lắng nghe xem tiếng động cơ phát ra từ hướng nào nhưng tôi không thể nghe thấy. Mãi đến khi nó chỉ còn cách tôi chừng 200 mét, tôi mới biết có một chiếc trực thăng đang ở trên đầu mình".
Rod Taylor, kỹ sư dự án của Hãng Hughes nói thêm: "Trong căn cứ, chiếc Hughes 500 cất, hạ cánh lúc nào, chẳng ai biết".
Căn cứ PS-44 nằm trên một ngọn đồi, ba mặt đều là dốc đứng, cách thị trấn Pakse khoảng hơn 30km về phía đông nam, gồm những dãy nhà lợp tôn dành cho quân phòng vệ người Mông của Vàng Pao, một đường băng dã chiến làm bằng những tấm vỉ sắt ghép lại, một kho chứa xăng và một trạm kiểm soát không lưu.
Lớp bụi đất bốc lên sau mỗi lần máy bay lên xuống khiến căn cứ ngập trong một màu vàng bẩn thỉu. Hai phi công Đài Loan được phép ra thị xã Pakse chơi bời nhưng được lệnh giữ bí mật tuyệt đối về những gì họ sắp sửa làm, còn hai biệt kích kiêm kỹ thuật viên người Lào thì bị giam lỏng trong một căn phòng vì họ là mấu chốt của kế hoạch nghe lén.
Dick Casterlin, phi công của Air America  nhớ lại: "Phần lớn địa điểm chơi bời của chúng tôi là các nhà thổ ở Pakse với những cô gái điếm người Thái. Thường thì chúng tôi không ai nói với họ là mình ở đâu, làm gì. Ngay giữa phi công với nhau, chúng tôi vẫn chỉ gọi nhau bằng nickname (biệt danh), còn với CIA, chúng tôi là "khách hàng".
Lúc này, tin tình báo của CIA cho biết một đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam và một đơn vị Quân đội nhân dân Cách mạng Lào (Pathet Lào) đã xuất hiện cách Pakse khoảng 35km về phía bắc. Tuy nhiên, nếu đối phương muốn tiến công căn cứ PS-44 thì chỉ có thể xông vào từ một hướng duy nhất là hướng tây nhưng hướng này đã có 6 đồn lính Vàng Pao làm nhiệm vụ bảo vệ.
Dẫu vậy, để đề phòng, thỉnh thoảng mới có những buổi bay tập vào ban ngày nhưng camera hồng ngoại và hai băng ca được tháo ra rồi ngụy trang như những chuyến bay tiếp tế thực phẩm nhằm đánh lạc hướng điệp viên Hà Nội có thể ở đâu đó quanh vùng.
Theo Stephens, sĩ quan quản lý hai chiếc Hughes 500 Quiet One,  máy bay được đặt trong một nhà chứa (hangar) và được che giấu rất kín đáo nhằm tránh con mắt soi mói của vệ tinh do thám Liên Xô
Nhưng xui rủi thay, trong một lần bay tập lúc chập choạng tối, chiếc Hughes 500 số hiệu N352X khi hạ cánh đã bị hỏng cánh quạt chính vì va vào một ngọn cây rồi rơi xuống một vũng lầy.
Theo Hãng Hughes, việc sửa chữa có thể kéo dài trong nhiều tuần lễ nên vì vậy, kế hoạch nghe lén sẽ phải thực hiện mà không có trực thăng dự phòng. Chưa kể hai phi công Đài Loan liên tục cãi nhau về việc ai sẽ là người lái chính trên chiếc Hughes 500 Quiet One còn lại.
Lamothe, người huấn luyện cho hai phi công ấy kể: "Cuối cùng, CIA quyết định loại họ ra khỏi cuộc chơi bằng cách đưa họ sang căn cứ Guam, giam lỏng ở đó cho đến khi kế hoạch nghe lén kết thúc. Việc xâm nhập Nghệ An được giao cho tôi và Daniel H. Smith".
Sáng ngày 1/6/1972, CIA chỉ đạo Hãng Air America chuyển đến căn cứ PS-44 một trực thăng Sikorsky S-58T "Twin Pack" làm nhiệm vụ giải cứu nếu chiếc Huges 500 N351X Quiet One bị bắn rơi.
Người trực tiếp điều hành kế hoạch lắp đặt thiết bị nghe lén là James Glerum, trợ lý chỉ huy CIA tại Udorn Thani, Thái Lan. Ông nói: "CIA  hy vọng có thể nghe được những cuộc điện thoại của người Bắc Việt Nam trước khi mùa mưa bắt đầu nhưng một loạt rủi ro xảy ra, cộng thêm gió mùa đến sớm nên chuyến bay đã bị trì hoãn".
6. Cuối cùng, gần nửa đêm ngày 5/6/1972,  Lamothe và Smith lái chiếc Hughes 500 N351X cất cánh từ căn cứ PS-44 với hai biệt kích kiêm kỹ thuật viên người Lào. Ngoài camera hồng ngoại, hệ thống định vị tầm xa LORAN-C, Lamothe và Smith còn được trang bị kính nhìn đêm SU-50 - và đây là loại kính lần đầu tiên được đưa vào sử dụng.
Theo sau họ là chiếc trực thăng cứu hộ Sikorsky S-58T "Twin Pack" nhưng nó chỉ đến một trạm thu tin của CIA ở gần biên giới Lào - Việt thì nằm lại. Tại căn cứ này, CIA đã bố trí sẵn một toán biệt kích Lào với đầy đủ súng đạn cùng một máy bay de Havilland DHC-6 Twin Otter để đề phòng trường hợp cần phải sử dụng vũ lực giải cứu chiếc Hughes 500 Quiet One cùng phi hành đoàn.
Thời điểm ấy, chiến dịch Linebacker ném bom hủy diệt miền Bắc đang diễn ra. Vì vậy, CIA yêu cầu Không quân Mỹ tổ chức một cuộc tập kích lớn vào khu vực Thanh Hóa, Ninh Bình trong đêm ngày 5 rạng ngày 6 để nghi binh nhưng không tiết lộ cho chỉ huy lực lượng không quân biết họ đang làm gì, mà chỉ đề nghị máy bay ném bom đừng bay vào vùng tiếp giáp giữa Nghệ An và Lào nhằm tránh va chạm hoặc bắn nhầm chiếc Hughes 500 Quiet One.
Theo kế hoạch, khi đến mục tiêu, biệt kích Lào ngồi trên trực thăng sẽ khom mình xuống để đặt một mảnh gỗ mỏng, trên có tấm pin mặt trời mà hai cạnh của mảnh gỗ đã có sẵn hai lỗ định vị. Với một chiếc khoan nhỏ cầm tay chạy bằng pin, hoạt động được 10 phút, họ sẽ khoan hai lỗ vào đỉnh cột điện thoại, đặt tấm pin mặt trời xuống rồi cố định nó với hai cái chốt cũng bằng gỗ.
Tiếp theo, họ giấu bộ thu phát sóng vào góc của thanh ngang dùng để đỡ đường dây điện thoại, nhìn xa như thể có một miếng gỗ được gá thêm vào cho chắc chắn rồi dùng 2 chiếc kẹp bé tí có hình dạng như ngàm cá sấu, kẹp vào đường dây.
Ở ngàm của hai chiếc kẹp ấy, có gắn bộ cảm biến đo những rung động của sóng âm thanh nên vì vậy, không cần phải bộc lộ lõi trong của dây mà vẫn nghe được những cuộc điện đàm. Với dây dẫn từ pin mặt trời đến bộ thu phát sóng, họ dán nó dọc theo cây cột bằng một loại keo đặc biệt, màu sắc trùng hợp với thân gỗ. Tất cả mọi việc, hai biệt kích phải hoàn  thành trong vòng 1 phút 15 giây!
Vượt qua biên giới Lào - Việt, Lemothe dùng kính nhìn đêm và camera hồng ngoại, điều khiển trực thăng bay ngoằn ngoèo giữa những ngọn núi thuộc dãy Trường Sơn. Tất cả mọi liên lạc vô tuyến đều không được phép, đèn hiệu máy bay cũng tắt ngúm. Gần đến mục tiêu, Lemothe hạ độ cao xuống chỉ còn 50m rồi cho trực thăng lách qua những ngọn cây. Khi nhìn thấy dãy cột điện thoại, anh ta cho trực thăng sà xuống.
Đến lúc này, xuất hiện một sự cố. Cột điện thoại không phải cao 4m như nhận định của các chuyên viên không ảnh, mà nó chỉ cao chừng 2,5m. Lemothe nói: "Độ cao ấy không bảo đảm lực nâng cho trực thăng bay treo quá 1 phút nên tôi ra hiệu cho hai biệt kích Lào nhảy xuống".
Do đã được huấn luyện phương án dự phòng, hai biệt kích người Lào nhanh chóng lao ra khỏi máy bay, còn Lemothe cho trực thăng đáp xuống con đường đất. Một trong hai biệt kích trèo lên cột điện thoại với túi đồ nghề lỉnh kỉnh nhưng hỡi ơi, cột thay vì bằng gỗ thì nó lại là bê tông.
Cố gắng khoan nhưng vẫn chẳng ăn thua vì mũi khoan chỉ dùng cho gỗ, gã biệt kích lấy tuýp keo dán dây dẫn, bôi xuống mặt bê tông một lớp rồi ấn tấm pin mặt trời lên. Sau đó, anh ta lắp đặt bộ thu phát sóng.
Công việc kéo dài gần 5 phút. Hấp tấp lao về phía máy bay, một biệt kích trượt chân, ngã sóng xoài khiến phi công phụ Smith phải nhảy xuống, đẩy anh ta lên. Trên đường về và khi vào tới đất Lào, phi công Lamothe mở radio rồi khi biết trạm thu tin của CIA ở Thái Lan đã nhận được tín hiệu từ bộ thu phát sóng. Lamothe nói: "Thế là thành công".
7. Hai ngày sau, trạm thu tin nghe được cuộc đàm thoại đầu tiên. Tất cả chỉ có: "A lô nghe đây", đầu bên kia nói: "Bốn  ba bẩy nhăm".
Các chuyên gia phân tích tình báo của CIA ở Udorn Thani, Thái Lan điên đầu vì cái "bốn ba bẩy nhăm" ấy. Hỏi một nhân viên người Việt thì hóa ra một số người miền Bắc gọi số 5 là "nhăm". Nhưng "bốn ba bẩy năm" là gì thì chịu!
Những ngày sau đó, trạm thu tin liên tục nghe được những cuộc điện thoại nhưng tất cả chỉ là những con số. Các bộ óc giải mã giỏi nhất của CIA, của tình báo quân đội và của cả NSA được yêu cầu phải tìm cho ra ý nghĩa của những mật ngữ này. Tuy nhiên, kết quả đều mờ mịt.
Ngày 28/10, nghĩa là gần 4 tháng kể từ khi thiết bị nghe lén được lắp đặt, một chuyên viên phân tích không ảnh ở căn cứ Clark, Philippines, lúc so sánh những bức ảnh do máy bay U2 vừa chụp được với những câu mật ngữ, đã phát hiện ra rằng đó chỉ là những báo cáo về mực nước của con sông Lam, còn căn nhà gạch trên sườn núi là một trạm thủy văn, làm nhiệm vụ cảnh báo lũ lụt.
Mấy năm sau, khi biết chuyện này, phi công Lamothe chỉ nói được một từ: "Shame - Xấu hổ quá!"
Theo Reds/ AN NINH THẾ GIỚI


Tiết lộ chuyên án bắt gián điệp đầu tiên ở miền Bắc

Người thành cổ Quảng trị

Trong suốt 10 năm (1961- 1970), lực lượng an ninh đã dùng chính gián điệp mà CIA đánh ra Bắc để câu nhử CIA làm theo ý đồ của ta. 

Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, với âm mưu "đánh Cộng sản trong lòng Cộng sản", Cơ quan Tình báo Mỹ và Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đã tung ra miền Bắc hàng trăm tên gián điệp, biệt kích. Tất cả số này đều bị ta tiêu diệt hoặc bắt sống; không những thế, lực lượng Công an nhân dân (CAND) còn thực hiện thành công chiến thuật "dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch". Chuyên án BK63 là một chiến công tiêu biểu của cuộc đấu tranh bí mật này.
Trong suốt 10 năm (1961- 1970), lực lượng an ninh đã dùng chính gián điệp mà CIA đánh ra Bắc để câu nhử CIA đưa phương tiện và nhiều toán biệt kích ra Bắc theo ý đồ của ta. Được sự giúp đỡ của Cục Chính trị Tổng cục An ninh, phóng viên đã tiếp cận khá đầy đủ hồ sơ chuyên án. Loạt bài tư liệu này sẽ dựng lại phần nào cuộc đấu trí suốt 10 năm của các cán bộ an ninh với trung tâm CIA…
KỲ I: CHIẾC THUYỀN LẠ TRÊN BÃI BIỂN VÀ CUỘC TRUY LÙNG "NGƯỜI TRỞ VỀ"
1. Một buổi sáng đầu tháng 4/1961, cũng như bao buổi sáng khác, ông Ngột, một ngư dân ở thôn La Khê, xã Tiền An, huyện Yên Hưng, tỉnh Hồng Quảng (nay là Quảng Ninh) cùng một bạn chài từ trong làng ra bến thuyền để đi biển. Nhưng khi qua đầm Thùa (thôn La Khê), hai người bất ngờ thấy có một chiếc thuyền nan có kiểu dáng rất lạ, không giống như của ngư dân vùng Hồng Quảng đang sử dụng.
Tò mò, hai người đến xem thì thấy trong thuyền có hai chiếc bơi chèo, một chiếc giỏ đan bằng mây để đựng cá, một cần câu, một ống câu. Thấy những vật này bỏ trong chiếc thuyền vô chủ, ông Ngột đã lấy mang về nhà, còn chiếc thuyền thì mang để ở bến thuyền với ý định sẽ dùng chung. Nhưng sáng hôm sau, khi ra bến thì không thấy chiếc thuyền đâu nữa.
Chuyện chiếc thuyền lạ lập tức được báo cho Cơ quan Công an. Công an huyện Yên Hưng sau đó cử cán bộ đi xác minh đã tìm thấy chiếc thuyền lạ này ở một xã khác cách xã Tiền An 2km. Người chủ của chiếc thuyền trình bày rằng anh ta mua lại của một gia đình thuyền chài.
Đúng lúc chuyện chiếc thuyền lạ bỗng nhiên dạt vào bờ còn chưa hết xôn xao thì mấy hôm sau, anh Phạm Văn Hán, ở xã Tiền An lên báo với Công an xã rằng mẹ anh là bà Trới, chiều ngày 9/4 khi lên núi Đầm Thùa lấy củi thì bất ngờ thấy ở gần nhà Phạm Ốc có một người đàn ông lạ ngồi trong bụi rậm, xung quanh có rất nhiều quần áo. Khi thấy bà, người này úp mặt trên đầu gối như che mặt rồi gừ lên một tiếng nghe sởn tóc gáy, tưởng ma, bà vứt cả dao lẫn củi bỏ chạy về nhà.
Tiet lo chuyen an bat gian diep dau tien o mien Bac
Báo cáo của Sở Công an Hồng Quảng gửi Bộ Công an về việc bắt Phạm Chuyên. 
Khi Công an huyện cử cán bộ đến gặp bà Trới để hỏi chuyện này thì bà nói rằng không có gì cả, người ngồi trong bụi rậm hôm ấy là Phạm Ốc, hôm đó đi lấy dây rừng về buộc chuồng lợn, thấy bà đi một mình nên định trêu bà thôi. Sau đó Ốc đã đến nhà xin lỗi vì làm bà sợ.
Tuy nhiên, với các cán bộ an ninh, xâu chuỗi những thông tin lại đã khiến họ đặt một nghi vấn lớn hơn, bởi Phạm Ốc có một người anh ruột là Phạm Chuyên vốn là một phần tử chống đối ở địa phương nhưng hai năm trước đã bỏ trốn đi Nam.
Theo hồ sơ lưu tại Cơ quan Công an thì Phạm Chuyên sinh năm 1922, thời Pháp thuộc đi lính khố xanh và được đi học về điện đài. Sau Cách mạng Tháng Tám, Chuyên tham gia Cách mạng và được kết nạp vào Đảng và có một thời gian làm ở Ty Công an Quảng Yên. Tháng 10/1947, Chuyên bị Pháp bắt, sau được tha và làm thư ký hội đồng ở thị xã Hồng Gai. Tháng 5/1948, Chuyên bỏ về quê, sau đó chạy vào căn cứ địa cách mạng ở huyện Hoành Bồ và được kết nạp Đảng lại.
Cuối năm 1948, Chuyên được phân công phụ trách 3 xã ở huyện Yên Hưng; đầu năm 1949, Chuyên được điều về làm ở Ban Thi đua tỉnh; đầu năm 1950 chuyển sang làm ở Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Yên. Năm 1953, khi được cử đi học trường Đảng, Chuyên bị tố hủ hóa sau đó đã cùng tình nhân bỏ vào vùng địch nên lại bị khai trừ Đảng. Sau hòa bình, dù được bố trí công tác trong một cơ quan, nhưng cuối năm 1957, Chuyên bất mãn, nên bỏ cơ quan về và gọi cả em trai là Phạm Ốc lúc đó đang học y sĩ bỏ học về nhà.
Về quê, sẵn tư tưởng bất mãn nên Chuyên sáng tác ca dao, hò vè đả kích, khích động quần chúng đấu tranh. Tháng 6/1959, sau khi bị Tòa án nhân dân huyện Yên Hưng gọi lên xét hỏi về hành động chống đối chính quyền, khi được cho về viết kiểm điểm, Chuyên đã bỏ trốn đi Nam. Thời gian sau đó, có bưu thiếp của Chuyên gửi về báo tin Chuyên làm ăn phát đạt.
Một loạt câu hỏi được đặt ra: Phải chăng Phạm Chuyên đã quay về? Người ngồi trong bụi rậm chính là hắn? Việc Phạm Ốc tự nhận là người ở bụi cây dọa bà Trới là một trò đánh lạc hướng điều tra của công an và để dập tắt mọi sự nghi ngờ?
Một báo cáo khẩn cấp của Công an Hồng Quảng gửi về Bộ Công an. Sau khi nhận được chỉ thị của Bộ, một đội trinh sát tinh nhuệ bí mật triển khai bám sát những thành viên trong gia đình Phạm Ốc và theo dõi những biến động khả nghi ở vùng lân cận.
Đêm 6/6/1961, phát hiện Phạm Đắc, em ruột Phạm Chuyên, xách một túi vải đi về thị xã Quảng Yên với nhiều dấu hiệu nghi vấn, tổ công tác quyết định bắt Phạm Đắc đưa về Đồn Công an Quảng Yên. Tại đây, khi khám xét chiếc túi đã thu giữ một máy phát tin, một gói cơm nếp và một số thực phẩm. Đấu tranh ngay trong đêm, Đắc khai chiếc máy này là của Phạm Chuyên, chiếc thuyền nan mà người dân xã Tiền An phát hiện thấy ở bờ biển chính là thuyền của Chuyên.
Kế hoạch vây bắt Phạm Chuyên được vạch ra. Khuya 11/6/1961, đồng chí Nguyễn Minh, Trưởng Ty Công an Hồng Quảng đã chỉ huy tổ trinh sát đặc nhiệm bí mật bắt Phạm Chuyên ngay tại nhà. Khám nhà, công an thu được 19 bộ lốc mã giấu trong cót thóc. Mở rộng diện đấu tranh, ta thu được trọn bộ điện đài vô tuyến điện gồm một máy thu, một máy phát và một máy phát điện quay tay.
Từng làm công an và lại được CIA đào tạo bài bản nên những ngày đầu bị bắt, Phạm Chuyên kiên quyết không khai và giở nhiều thủ đoạn để đối phó với cán bộ điều tra. Sau khi nhận báo cáo của Công an Hồng Quảng, đồng chí Nguyễn Tài, lúc đó là Cục trưởng Cục Bảo vệ Chính trị (đồng chí Nguyễn Tài sau này là Thứ trưởng Bộ Công an, rồi chuyển sang làm Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan), trực tiếp xuống Hồng Quảng.
Sau những cuộc trò chuyện với Phạm Chuyên, Cục trưởng Nguyễn Tài nhận ra một điều Phạm Chuyên là kẻ tráo trở nhưng lại rất thương mẹ, thương em, vì vậy cùng với việc thuyết phục Phạm Chuyên, Cục trưởng Nguyễn Tài cũng chỉ đạo phải làm tốt chính sách với với gia đình Phạm Chuyên. Vì vậy mà sau vài lần nói chuyện với Cục trưởng Nguyễn Tài, cùng với sự tác động của các cán bộ an ninh, Phạm Chuyên mới khai lại toàn bộ.
2. Trong bản báo cáo ngày 5/7/1961 có đóng dấu "tối mật" của Sở Công an khu Hồng Quảng đã trình bày lại toàn bộ quá trình trốn vào Nam của Phạm Chuyên như sau:
Ngày 25/6/1959, sau khi được Tòa án nhân dân huyện Yên Hưng cho về viết kiểm thảo, Phạm Chuyên quyết định bỏ trốn.
Ban đầu Chuyên lên Hà Nội rồi mua vé xe khách đi vào Vinh. Từ Vinh, Chuyên đi theo đường số 8 lên biên giới rồi vượt biên sang Lào. Sang Lào, sau khi được tiếp nhận, Chuyên được đưa về Savanakhet để thẩm vấn. Sau 9 tháng ở Lào và qua nhiều vòng thẩm vấn, Chuyên được đưa về trung tâm tiếp đón đồng bào vượt tuyến ở Sài Gòn. Tháng 5/1960, sau khi trải qua nhiều vòng thẩm vấn, Chuyên đề đạt nguyện vọng được có một việc làm để sinh sống, khi nào cần sẽ tình nguyện về miền Bắc làm việc, nếu không xin cứ cho nằm lại ở trung tâm.
Công việc mà Chuyên được Sở Nghiên cứu chính trị giao cho làm sau đó là đi nói chuyện ở một số địa phương với nội dung xuyên tạc về chính sách thuế nông nghiệp, hợp tác xã ở miền Bắc.
Sau vài tháng đi nói chuyện, một ngày đầu tháng 9/1960, một người tên là Phan đến gặp Chuyên. Phan giới thiệu là nhân viên của Sở Nghiên cứu chính trị thuộc Phủ Tổng thống (thực chất là cơ quan tình báo, phản gián chiến lược của chính quyền VNCH được thành lập năm 1956 do Trần Kim Tuyến làm giám đốc. Sở này có nhiệm vụ điều tra, thu thập tin tình báo chiến lược về mọi mặt; tổ chức, chỉ huy các hoạt động gián điệp tại Bắc Việt, bảo vệ an ninh nội bộ…).
Tiet lo chuyen an bat gian diep dau tien o mien Bac-Hinh-2
 Huấn luyện biệt kích tại Đà Nẵng.
Câu chuyện của Phan vẫn chỉ xoay quanh việc Chuyên vượt tuyến, việc Chuyên từng học điện đài thời Pháp thuộc. Cuối cùng, Phan mới lật bài ngửa với Chuyên khi hỏi thẳng có dám mạo hiểm trở lại miền Bắc không. Sau khi Chuyên đồng ý, Phan hẹn lần sau sẽ gặp để bàn tiếp công việc.
Vài ngày sau, Phan lại tới và yêu cầu Chuyên tự viết bản kế hoạch hoạt động khi quay trở lại miền Bắc. Chuyên lập tức viết một bản kế hoạch, trình bày chi tiết từ kế hoạch vượt tuyến trở lại miền Bắc, tới phương pháp gây dựng cơ sở khi ra Bắc, cách thức lãnh đạo đấu tranh, phương tiện liên lạc để cung cấp tin cho trung tâm ở Sài Gòn và cả dự trù kinh phí hoạt động… Cầm bản kế hoạch này, Phan ra về và hẹn sẽ gặp lại sau khi nghiên cứu.
Một buổi chiều giữa tháng 9/1960, Phan quay trở lại gặp Chuyên và đưa Chuyên đến khách sạn Majestic để gặp một người Mỹ. Người Mỹ này lại hỏi Chuyên những câu hỏi mà Phan đã hỏi nhiều lần; gã người Mỹ còn hỏi Chuyên về ấn tượng với chính thể miền Nam rồi sau đó câu chuyện kết thúc. Một tuần sau, Phan lại đưa Chuyên đến gặp gã người Mỹ nhưng địa điểm là ngôi biệt thự trên một con phố. Gã người Mỹ lại đặt những câu hỏi trắc nghiệm tâm lý. Khi kết thúc, gã nói với Chuyên rằng "cán bộ của chính phủ sẽ gặp ông nữa. Riêng tôi, chúc ông thành công".
3. Đó là nội dung Phạm Chuyên khai vào tháng 6/1961. Mấy chục năm sau, trong cuốn sách "Cuộc chiến bí mật - Hồ sơ Lực lượng đặc biệt Quân đội VNCH" của dịch giả, giáo sư Vũ Đình Hiếu (Giáo sư Vũ Đình Hiếu là một cựu biệt kích quân đội VNCH, sang Mỹ năm 1975, đi học trở lại, sau này trở thành giáo sư chuyên ngành Công nghệ thông tin, từng giảng dạy các trường đại học ở bang Texas - (Mỹ), căn cứ vào những tài liệu đã giải mã của Lầu Năm Góc cũng đề cập tới việc CIA và tình báo VNCH tuyển chọn Phạm Chuyên, trong đó có nhắc tới 2 người đã thẩm vấn và đào tạo Chuyên, đó là Trung úy Đỗ Văn Tiên, nhân viên của Phòng 45 và Edward Reagan, nhân viên CIA.
Phòng 45 là mật danh của Phòng Bắc Việt, trực thuộc Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống VNCH, thực chất là một đơn vị tình báo do CIA lập ra vào cuối năm 1958 gồm 12 sĩ quan người Việt cấp bậc từ thiếu úy đến trung úy. Tất cả những người này đều do CIA tuyển chọn và đào tạo về nghiệp vụ tình báo, tác chiến, phương thức phá hoại và chỉ huy đường dây tình báo.
"Phòng 45 lập kế hoạch 5 năm để xâm nhập vào vùng hậu phương mà đối phương kiểm soát rất chặt chẽ. Lần này Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống giao trách nhiệm cho Trung úy Đỗ Văn Tiên (mật danh Francois) phái một điệp viên đơn tuyến xâm nhập miền Bắc. Francois tìm được một người thích hợp là Phạm Chuyên, nguyên là một đảng viên biến chất, quê ở tỉnh Quảng Ninh. Chuyên bị vợ bỏ nên anh ta di cư vào Nam.
Thoạt đầu Phạm Chuyên từ chối, mặc dù Trung tá Lê Quang Tung đã cho đàn em theo dõi, dụ dỗ suốt nửa năm trời. Trung úy Tiên (Francois) buộc phải cộng tác với một nhân viên CIA là Edward Reagan tìm cách thuyết phục Chuyên. Sau hơn 6 tháng CIA trổ tài, Phạm Chuyên nhận lời. Anh ta được đưa ra Nha Trang để làm kỳ trắc nghiệm tâm lý. Chuyên đạt điểm xuất sắc trong kỳ trắc nghiệm.
Sau đó, Chuyên còn phải trải qua hai kỳ khảo nghiệm nữa, một ở Sài Gòn và một ở Nha Trang. Tiếp theo CIA huấn luyện cho Chuyên 6 tháng về kỹ năng truyền tin. Trong lúc Chuyên được huấn luyện các kỹ năng thì Trung úy Tiên và Reagan bận rộn phác thảo kế hoạch đưa điệp viên xâm nhập miền Bắc…".
Nhưng, đây là chuyện của mấy chục năm sau, khi các hồ sơ đã được giải mật. Còn vào thời điểm năm 1961 thì CIA vẫn chắc mẩm rằng đã thành công khi đưa được Phạm Chuyên trở lại miền Bắc an toàn…
(Còn nữa)...
Theo Nguyễn Thiêm/An ninh thế giới

Chủ Nhật, 5 tháng 4, 2015

Trận đánh tại nhà thờ Trí Bưu

Người thành cổ Quảng trị

Bùi Duy Dân

Như một quy luật, đời người có nhiều kỷ niệm, nhưng kỷ niệm dễ nhớ, khó quên nhất vẫn là những kỷ niệm của những năm tháng cam go, một sống hai chết, hòn tên mũi đạn, xanh cỏ đỏ ngực, đi không trở về… Kỷ niệm về một thời quân ngũ, khi tuổi xuân còn ngẩn ngơ, chập chững bước vào ngưỡng cửa cuộc đời. Đang là học sinh ngồi trên ghế nhà trường, nghe theo tiếng gọi của hồn thiêng sông núi, tôi hồn nhiên, tình nguyện vào lính như bao người bạn cùng trang lứa. Vào lính, vào chiến trường Quảng Trị, 81 ngày đêm đỏ lửa tại Thành Cổ, tôi tham gia không trọn vẹn vì bị thương sớm (18/7/1972) nhưng kỷ niệm về một trận đánh vẫn còn tươi nguyên trong đầu óc tôi suốt 35 năm qua - đó là trận đánh vào nhà thờ Trí Bưu, một hang ổ đầy gian nan, khó tiếp cận, đổ máu, hy sinh nhiều nhất phía sau bờ sông Thạch Hãn.
            Sẽ là không phải chút nào, trước khi hồi tưởng lại trận đánh mà không cám ơn Viettel ngàn lần, đơn vị tài trợ toàn bộ kinh phí chuyến đi hoành tráng “Một thời hoa lửa”. Viettel đã cho chúng tôi một cơ hội thăm lại chiến trường xưa mà những tưởng đến lúc nhắm mắt xuôi tay vẫn không làm được. Chuyến đi đầy ắp những kỷ niệm vui buồn, gặp lại bạn chiến đấu mà suốt 35 năm qua “bặt vô âm tín”. Giờ mỗi người một số phận, mỗi cương vị khác nhau. Tay bắt, mặt mừng kể cho nhau nghe từng trận đánh, từng mảnh đời của những số phận xấu số và cuối cùng chắp lại là một thiên anh hùng ca vĩ đại được viết bằng máu và nước mắt. Vui vẻ, bồi hồi nhớ lại cảnh cũ chuyện xưa là tâm trạng chung của tất cả chúng tôi. Như một điềm báo trước “Thiên thời, địa lợi, nhân hoà”, Thành Cổ đêm đó mưa tầm tã, mảnh đất khô cằn, khốc liệt xưa đón chúng tôi về cùng đồng đội với tâm trạng“Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa”. Chúng tôi khóc, đất trời cũng khóc, nước mắt hoà với nước mưa tắm tưới đẫm vào các anh, thấm vào lòng đất nơi an giấc ngàn thu của đồng đội tôi.
            Từ Đông Hà, xe Viettel hành quân qua các làng bản, qua cầu Quảng Trị, qua Thạch Hãn đưa chúng tôi về Thành Cổ Quảng Trị. Cái đích Thành Cổ sao bây giờ thênh thang, thuận lợi đến thế. Ngồi trên xe, chúng tôi muốn xe đi chậm lại để suy ngẫm, nghe lại bước chân hành quân, hình dung lại những trận rượt đuổi thù năm xưa. Song cái gì đến sẽ đến, Thành Cổ hiện ra trước mắt chúng tôi, bỏ lại sau lưng biết bao kỷ niệm mà chúng tôi chưa kịp mường tượng hết. Xuống xe, tôi và các cựu chiến binh đại đội 10, những anh Bằng, Điệp, Luỹ, Hùng, Đức vv… toả ra chạy vội đến nhà thờ Trí Bưu để tận mắt nhìn lại nơi diễn ra cuộc chiến ác liệt xưa.
                           Nhà thờ Trí Bưu hôm nay
     Đoàn cựu chiến binh Phủ Lý - Hà Nam đến Trí Bưu mỗi người một tâm trạng khác nhau, buồn nhất là anh Hùng có người em ruột hy sinh tại đó (vẫn chưa tìm thấy mộ), anh thắp nén nhang, khóc nức nở, cầu xin hương hồn em trai anh một cách mơ hồ trong nỗi tuyệt vọng. Riêng tôi, trước đây, Trí Bưu là một hình ảnh lờ mờ, vì thời đó 1972 ban ngày thì trú ẩn, ban đêm mới xông trận, cây cối trơ trụi, gạch đá ngổn ngang, cả Thành Cổ ta và địch lẫn lộn, làm sao nhớ nổi? Nay có dịp vào ban ngày cộng với những ký ức xưa dội về đã cho tôi một bức tranh toàn cảnh về Trí Bưu. Trí Bưu hôm nay đẹp đẽ, hiền hòa, biểu tượng cho sự hòa trộn giữa đạo và đời. Quanh Trí Bưu, xóm làng đông đúc, phủ kín cây xanh, đường đi lối về đoàng hoàng hơn. Đến đó, tôi vội chạy ra phía sau một nhà dân tìm lại con đường nhựa nhỏ năm xưa, đường vẫn còn đó, không tên nhưng chính nó là một chướng ngại vật rất trống trải buộc chúng tôi phải vượt qua để tiếp cập nhà thờ. 
   Tháng 7 năm 1972, nhà thờ Trí Bưu tồn tại như một thách thức giữa ta và địch. Trong nhà thờ có ngụy, có dân, diệt ngụy là diệt cả dân, diệt cả thì nhanh lắm, nhưng ta là quân đội nhân dân, chiến đấu vì dân, chẳng nhẽ lại làm như vậy sao? Bằng nhiều cách tiếp cận, dùng loa kêu gọi nhiều lần, để dãn dân, ít đổ xương máu, địch vẫn không nghe, chúng ngoan cố tử thủ đến cùng. Đã nhiều lần, các đơn vị nhận nhiệm vụ đánh vào nhà thờ đều vấp phải sự kháng cự quyết liệt của kẻ thù. Ta - địch tổn thất, thương vong khá nhiều. Mỗi lần đánh như thế, khi rút quân ra, ta gom lại còn ai lại vào trận, bất biết người lính đó ở đơn vị nào. Sự chiến đấu, hy sinh tình nguyện là nguồn mạch củng cố tinh thần tướng sĩ. Có lúc, có khi chúng tôi chẳng biết thủ trưởng mình là ai vì họ đã hy sinh, bị thương cả rồi.
            Tối 18 tháng 7 năm 1972, lệnh từ trên xuống, tiểu đoàn 9 xung trận. Màn đêm buông xuống, tôi và đồng đội vào trận như bao trận đánh trước, các mũi, các hướng đã bố trí sẵn sàng. Chúng tôi những người lính được lệnh của cấp trên bảo đi là đi, bảo đánh là đánh, cả đại đội dồn vào có lẽ được hơn một trung đội. Tôi đi theo mũi do tiểu đoàn phó Kiều Ngọc Luân dẫn đầu. Sau một hồi tiếp cận gian nan, vất vả, địch chống cự dữ dội. Trên trời pháo sáng, máy bay lượn vè vè, dưới đất thì đạn, cối, pháo tầm xa bắn như mưa. Mũi chúng tôi vấp phải ổ trung liên từ phía cửa sổ tầng hai nhà thờ bắn ra rát mặt, không sao tiến lên được. Tạm trú ở một hố bom sâu nhỏ, chờ lệnh cấp trên, chờ đợi giữa cái sống và cái chết trong gang tấc, nghĩ lại thật khủng khiếp! Tối đó, tôi được phân công bắn B40 (chiến trường hồi đó mà cầm hỏa lực thì cái chết chắc trong tay), mục tiêu là nhắm vào cửa sổ tầng 2 nơi ổ trung liên. Tôi khom người, chỉnh mục tiêu bóp cò. Viên đạn B40 bay đi để lại phía sau một vết sáng và khói mù. Bắn xong, tôi lao xuống hào, lập tức vài quả cối cá nhân từ hướng nào bắn tới nổ quanh tôi. Rất may, tôi vẫn an toàn nhưng bỗng tôi thấy nhói ở thái dương, sờ vào thấy máu chảy đầm đìa. Vết thương nhỏ thôi nhưng phải chỗ hiểm nên máu ra nhiều… Tôi được ai đó băng bó trắng toát cả đầu và đưa ra phía sau. Phía trước vẫn là một trận đánh, chẳng hiểu bắn có trúng hay không? Nhưng sau phát B40, tiếng súng trung liên của địch im bặt (sau tôi được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng III tại trận này). Tôi được chuyển vào hầm nhà Tỉnh trưởng. Đêm đó, ta thương vong nhiều, trong hầm ngổn ngang thương binh, mỗi người bị một kiểu. Tối hôm sau, tôi được thuyền chuyển qua sông Thạch Hãn ra Vĩnh Linh điều trị. Sau vài tháng chữa chạy vết thương và an dưỡng, tôi trở lại chiến trường và tham dự trận đánh Cửa Việt trước giờ ngừng bắn theo Hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973.
            Tản mạn nhớ lại chuyện ngày xưa, mà lại là chuyện người lính còn nhiều lắm, mực nào viết hết, giấy nào in xuể. Với tư cách một cựu chiến binh, một lần nữa xin cám ơn Ban liên lạc Trung đoàn 64 Sư đoàn 320B đã cho tôi một cơ hội để giãi bày tâm sự người lính hồi kết của cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại.
                                                                   Hà Nội, tháng 7 năm 2007.

Nguồn : " Còn lại với thời gian" - Hội CCB Đại học KHXH&NV