THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THI VÂN YÊN TỬ

SỚM CHIỀU DU NGOẠN CÙNG MÂY NÚI
HOA TRÁI QUA NGÀY TA VỚI TA

Hiển thị các bài đăng có nhãn CHÚA NGUYỄN HOÀNG. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn CHÚA NGUYỄN HOÀNG. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 9 tháng 2, 2015

Bí ẩn tượng đồng 500 tuổi cực thiêng xứ Quảng Trị


Người thành cổ Quảng trị
Ẩn giấu bên trong dáng vẻ thanh bình quê kiểng ấy là những tầng sâu văn hóa mang tính đặc trưng...  
Những ngày cuối tháng 11 vừa qua, có dịp theo mấy người bạn làm công tác sưu tầm văn hóa dân gian thực hiện một chuyến đi dọc theo các làng quê thuộc huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, chúng tôi thực sự bị hớp hồn bởi những ngôi đình cổ, những mái ngói rêu phong đã nhuốm màu thời gian và những bến sông quê huyền hoặc trong sương mai. 

Đến thôn Trà Liên Tây, thuộc xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, chúng tôi đã được ông Trịnh Minh Toàn, trưởng thôn kể lại câu chuyện về pho tượng đồng có niên đại gần 500 năm, tạc Thái phó Nguyễn Ư Dĩ, người được con dân của làng qua bao thế hệ xem như vị thần đầy linh nghiệm và ngành văn hóa tỉnh Quảng Trị cũng đã làm hồ sơ đệ trình đề nghị công nhận pho tượng quý này là "bảo vật quốc gia".

 Thái phó Nguyễn Ư Dĩ là một nhân vật có thật trong lịch sử. Tên tuổi của ông gắn liền với sự kiện chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, bắt đầu hành trình mở mang bờ cõi Tổ quốc về phía nam của các chúa Nguyễn và vương triều nhà Nguyễn sau này. Nguyễn Ư Dĩ tước Uy Quốc công, là cậu ruột của Nguyễn Hoàng và là người đã dày công nuôi dạy chúa Nguyễn Hoàng từ năm lên 2 tuổi. Gần gũi, chăm sóc cho Nguyễn Hoàng, Nguyễn Ư Dĩ thấy được đứa cháu của mình có tướng mạo khôi ngô, vai lân lưng hổ, mắt phượng trán rồng, thông minh tài trí... những người am tường về dịch số đều biết được đây là bậc phi thường. Vì vậy, Nguyễn Ư Dĩ đã đem việc kiến công lập nghiệp để khuyến khích cháu mình.

Vào năm 1527, khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê để lên làm vua lấy niên hiệu là Minh Đức, trong số các trung thần của nhà Lê có người tuẫn tiết, có kẻ chạy sang nước khác để chờ cơ hội rửa hận cho nhà Lê. Trong số những người trốn chạy sang Ai Lao ấy có quan Hữu vệ Điện tiền Tướng quân An Thanh Hầu Nguyễn Kim (thân phụ của Nguyễn Hoàng), một trung thần nổi tiếng của nhà Lê lúc bấy giờ. Khi chạy sang Ai Lao, Nguyễn Kim được vua của nước này là Xạ Đẩu cho đến ở tại xứ Sầm Châu, thuộc phủ Trấn Nam. Vì là một người có chí lớn, một dạ trung quân nên ông liền bắt tay vào việc tìm kiếm con cháu nhà Lê để lo việc khôi phục.
Năm 1532, Nguyễn Kim lập người con út của Vua Lê Chiêu Tông là Duy Ninh lên ngôi, lấy hiệu là Trang Tông. Tìm được minh chủ, Nguyễn Kim lại may mắn thu nạp dưới cờ một viên tướng trẻ tài ba là Trịnh Kiểm, người làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc. Thấy Kiểm là người có thực tài, đồng thời muốn mưu đồ của mình được sớm thành tựu, nên Nguyễn Kim đã gả người con gái cưng đầu lòng là tiểu thư Ngọc Bảo cho Trịnh Kiểm. Từ đó, cha vợ và con rể cùng bắt tay vào việc xây dựng lý tưởng chung là hết lòng phò vua giúp nước. Sau 8 năm chuẩn bị, khi thấy lực lượng đủ mạnh, Nguyễn Kim mới phò Lê Trang Tông về đánh chiếm đất Nghệ An, và kết quả là thành công tốt đẹp.
Năm 1542, Nguyễn Kim lại phò vua ra đánh hai vùng Thanh Nghệ, thế quân lúc bấy giờ mạnh như chẻ tre, quân nhà Mạc càng đánh càng thua. Quan Tổng trấn nhà Mạc là Dương Chấp Nhất biết mình thế yếu đánh không lại nên xin hàng. Nguyễn Kim biết Dương Chấp Nhất là viên tướng tài của họ Mạc nên đã hết lòng chiêu dụ. Nhưng Dương Chấp Nhất vốn là một tay mưu sĩ, trước đây hắn ta chỉ trá hàng chứ không hề thực bụng, do đó hắn đã thừa dịp đánh thuốc độc giết chết Nguyễn Kim, rồi sau đó trốn theo nhà Mạc. Nguyễn Kim chết, binh quyền giao hết lại cho người con rể là Trịnh Kiểm. Ông để lại ba người con là Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm) và hai con trai là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng.
Khi Trịnh Kiểm bước vào tuổi trung niên thì hai người con trai của Nguyễn Kim đã trở thành những viên tướng trẻ. Đó là Lạng Quận công Nguyễn Uông và Thái úy Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng. Không hiểu được do đâu, vào thời điểm này ở trong thành ngoài nội lại rộ lên tin đồn cho rằng đã đến lúc Trịnh Kiểm phải "trả" quyền hành lại cho hai người em vợ.
Chuyện đó người ta xầm xì với nhau chưa được bao lâu thì lại xảy ra chuyện Lạng Quận công Nguyễn Uông bị chết bất ngờ. Dư luận lại chuyển sang nghi kị họ Trịnh đã ra tay thủ ác để diệt trừ hậu họa. Đau đớn trước cái chết của anh trai mình và biết chắc rằng bản thân mình cũng sẽ khó lòng bảo toàn được tính mạng trước người anh rể nhiều tham vọng. Nguyễn Hoàng đã nhờ cậu ruột, người từng nuôi nấng mình là Nguyễn Ư Dĩ đánh đường đến làng Trung An, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương để tìm gặp Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm xin vấn kế. Trạng Trình phán rằng: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân". Ý Trạng Trình nói rằng: Một dãy núi Hoành Sơn ở đèo Ngang tỉnh Quảng Bình chính là nơi dung thân đến vạn đời...


Ngay sau đó, Nguyễn Hoàng đã đến nhờ chị ruột của mình xin anh rể tâu với vua Lê xin cho Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa. Năm Mậu Ngọ 1558, khi vừa tròn 34 tuổi, Nguyễn Hoàng đã cùng với Nguyễn Ư Dĩ và bà con họ hàng, hàng ngàn quân sĩ và gia đình họ với vô số dân nghèo vốn là nạn nhân của bọn cường hào ác bá... lên đường đến định đô ở vùng đất mới. Đầu tiên, Nguyễn Hoàng đã chọn vùng đất Ái Tử thuộc huyện Đăng Xương, Quảng Trị để lập dinh trại. 

Ông Toàn và nhiều bô lão trong làng kể cho chúng tôi nghe rằng: suốt mấy chục năm chúa Nguyễn Hoàng đóng dinh tại Quảng Trị. Những thành quả về thu phục nhân tâm của các bậc anh tài hào kiệt, của hàng nghìn người từ mọi nơi kéo về với Nguyễn Hoàng để tụ nghĩa là nhờ công lao rất lớn của Nguyễn Ư Dĩ. Sử cũ chép lại rằng, khi đoàn quân của Nguyễn Hoàng vào đến Ái Tử thì người dân địa phương đã đón tiếp quan trấn thủ rất trọng thị và tôn xưng Nguyễn Hoàng là nhà chúa. Dân bản địa lúc bấy giờ vốn là thành phần nông dân nghèo khổ nên chỉ có quà dâng lên là 7 chiếc vò lớn đựng đầy nước mưa. Nguyễn Ư Dĩ nói với cháu mình rằng, đến một vùng đất mới mà được dân tình dâng nước ấy là điềm đại cát nên phải cố mà giữ lấy.
Khi Thái phó Nguyễn Ư Dĩ qua đời, hậu thế tưởng nhớ nên đúc tượng thờ ông. Người dân trong vùng xem ông là vị thần linh nghiệm, luôn có mặt đúng lúc ra tay giúp đỡ dân nghèo. Tượng được làm bằng chất liệu đồng, tạc ở tư thế ngồi trên ghế thấp, hai chân gấp khuỷu hơi dang ra. Khuôn mặt chữ điền, mắt nhìn xuống, mũi cao, môi mỏng, cằm vuông, râu dài, dái tai rộng, đầu đội mũ quan hai lớp, chân đi hia chỉ để lộ phần mũi. Toàn thân khoác áo choàng rộng phủ từ vai xuống vắt trùm cả hai chân. Hai tay vòng phía trước bụng khuất trong vạt áo choàng chỉ để hở một ngón tay cái của bàn tay phải. Phần bụng để hở to, tròn. Trên ngực có một dãi đai vòng. Trọng lượng pho tượng hơn 300 kg.  
Tôn kính ông nên bà con người gọi ông là ngài, người gọi là thần, rồi lập chùa Liễu Ba (hay còn gọi là Liễu Bông, Miếu Bông) thỉnh ngài vào chùa để thờ. Kể từ khi thờ pho tượng Thái phó Nguyễn Ư Dĩ, người dân làng Trà Liên kể rằng, họ luôn hưởng được nhiều may mắn, tốt đẹp. Trong chiến tranh, ngài đã che chở cho dân lành tránh được mưa bom, bão đạn của kẻ thù. Chuyện kể rằng, năm 1972, lúc ấy bom đánh sập nát chùa, song điều ngạc nhiên là pho tượng vẫn uy nghi ngồi trên bệ đá. Sau sự kiện này mọi người càng tin tưởng hơn ngài có phép thuật cao nên giúp dân tránh được mọi biến cố.
Ông Toàn trưởng thôn nhớ lại: trải qua biết bao nhiêu thăng trầm dâu bể của đất nước, người dân làng Trà Liên vẫn bảo vệ pho tượng hết sức cẩn  trọng với niềm tin là "làng còn là tượng phải còn". Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, để gìn giữ được pho tượng khỏi bị mất cắp, người dân trong làng phải mang tượng chôn dưới lòng hồ. Nghe tiếng làng có pho tượng linh nghiệm, bọn quyền thần đương thời đã cho người về lùng sục khắp làng nhưng vẫn không tìm ra pho tượng. 

Song có một lần pho tượng đã bị kẻ xấu đánh cắp. Ấy là vào năm 1975. Nghe tin pho tượng quý bị mất, người dân làng Trà Liên tỏa ra đi tìm suốt mấy ngày, bà con dùng từng cây sắt nhọn để xăm vào từng vuông đất kiểm tra. Cuối cùng, bà con phát hiện tượng nằm ở bờ sông Ái Tử, trong tình trạng bị kẻ xấu cố tình chôn dưới cát. Sau khi tìm ra, pho tượng được đưa về thờ trong nhà bia, đặt tại gần đầu làng. Năm 1989, kẻ gian lại tìm đến nơi thờ pho tượng để lấy cắp, nhưng chẳng hiểu vì sao, khi kẻ gian gánh pho tượng ra khỏi bệ thờ thì bỗng dưng trời nổi giông, sấm chớp liên hồi. Tiếp theo đó là một trận mưa rất to nên kẻ gian không thể mang pho tượng đồng tạc hình quan Thái phó Nguyễn Ư Dĩ đi được. Đến lúc trời sáng, người dân phát hiện pho tượng nằm chỏng chơ trên cỏ trong tình trạng bị kẻ gian cưa mất hai dải bách trên chiếc mũ của pho tượng. Người dân trong làng đã đốt nhang thơm khấn vái rồi thỉnh ngài trở lại bệ thờ...
Từ đó, dân làng Trà Liên xây kín ba mặt của nhà thờ tượng, chỉ để lại một phần nhỏ mặt tiền, rồi cử hẳn ông từ của làng canh gác hàng ngày. Người ta đồn đại rằng, tượng này được người xưa làm bằng một loại hợp kim rất quý. Ông Toàn cũng thừa nhận, năm 1972, một đơn vị bộ đội rađa về đóng doanh trại ngay bên cạnh vị trí đặt pho tượng. Chẳng hiểu vì lý do gì mà từ lúc đến đây hệ thống máy móc của đơn vị này không bắt được sóng, sửa mãi không xong nên các anh đành phải dời đến đóng trại ở địa phương khác thì chuyện bắt sóng lại trở nên dễ dàng? Người ta cho rằng người xưa đã dùng đồng đen để đúc tượng quan Thái phó vì vậy mà pho tượng đã làm nhiễu sóng rađa (?!).
Ghi nhớ công ơn của quan Thái phó nên đã bao nhiêu thế hệ qua đi, người dân làng Trà Liên vẫn duy trì truyền thống mỗi năm tổ chức 4 lần cúng quan Thái phó Nguyễn Ư Dĩ với nghi thức đại lễ của làng. Ngoài việc thờ tự vào dịp tết, thì lễ cúng được tổ chức rất linh đình vào các ngày rằm tháng 2, 6, 8 và 12 âm lịch. Hàng năm chánh lễ của làng thường đến chỗ đặt tượng làm lễ cầu xin mưa thuận, gió hòa, bà con nông dân luôn gặp mùa màng bội thu.
Trả lời thắc mắc của chúng tôi, nhiều bậc cao niên của làng Trà Liên cho biết: Sở dĩ có chuyện cúng ngài Nguyễn Ư Dĩ nhiều lần trong năm như thế là vì lòng dân trong làng vô cùng tôn kính ông, mặc dù ông đã sống cách chúng ta nhiều thế kỷ nhưng những câu chuyện về ông đối với dân nghèo, như chuyện ông khuyên nhủ quan Trấn thủ Thuận Hóa giảm thuế cho dân, giảm tối đa việc sai dịch để ổn định cho dân được an cư lạc nghiệp.
Theo chỉ bảo của ông mà Trấn thủ Thuận Hóa Nguyễn Hoàng đã cho dân tự do khai khẩn đất hoang. Ai có tài sức khai khẩn được bao nhiêu thì được quyền làm chủ thửa đất đó. Nhờ vào sự khuyến khích và nâng đỡ của ông mà dần dần lãnh thổ được mở rộng. Đất đai trước đây khô cằn, nay trở nên màu mỡ. Dân chúng kéo nhau đến những vùng xa xôi hơn để tiếp tục mở đất khai hoang, ngày đêm phá rừng lập ruộng, xua đuổi thú dữ vào tận rừng sâu núi thẳm, tạo nên cuộc sống no đủ yên vui...
Hiện tại, pho tượng đã được chính quyền xã Triệu Giang kết hợp với Trường tiểu học Triệu Giang quản lý. Trên thực tế thì việc quản lý pho tượng đồng chủ yếu vẫn do người dân trong làng.  
Bức tượng Thái phó Nguyễn Ư Dĩ, mang trong mình một giá trị văn hóa lớn lao như lời đánh giá của một cán bộ Bảo tàng Quảng Trị: Đây là bức tượng có một không hai, đã tồn tại hàng trăm năm và đã trở thành báu vật quốc gia. Theo ghi nhận của chúng tôi, mặc dù được đặt trong cái am nhỏ bằng bê tông cốt thép khá kiên cố song nó lại nằm giữa đồng không mông quạnh. Với việc "tự quản lý" của người dân trong thôn, liệu ai dám chắc rằng bức tượng sẽ không bị đánh cắp hay xâm hại một lần nữa?



Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013

QUẢNG TRỊ, ĐỊA BÀN CHIẾN LƯỢC TỐI ƯU CỦA CHÚA NGUYỄN HOÀNG

Người thành cổ Quảng trị

Người ta thường nói anh hùng tạo ra thời thế, nhưng cũng có khi thời thế tạo ra anh hùng. Nguyễn Hoàng là một nhân vật lịch sử do thời cuộc tạo ra. Ông sinh trưởng ở đất Bắc nhưng lại dựng nên nghiệp lớn và lưu danh muôn thuở ở phương Nam.
Thật vậy, sự phân cực về quyền lực trên chính trường đầy rối ren ở đất Bắc giữa các dòng họ Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn trong nửa đầu thế kỷ XVI đã đẩy đưa ông vào trấn thủ Thuận Hóa vào năm 1558. Sự kiện và thời điểm lịch sử này là một cái mốc đáng ghi nhớ trong quá trình hình thành và phát triển lãnh thổ Đàng Trong. Nhân vật lịch sử ấy và các thế hệ chúa Nguyễn kế vị ông sẽ tiếp tục hoàn thành cuộc Nam tiến để mở ra một đất nước Việt Nam hoàn chỉnh vào đầu thế kỷ XVIII.
Vào giữa thế kỷ XVI, phía nam dãy núi Hoành Sơn là một vùng đất mênh mông vốn đã được tiếp quản bởi nhà Trần, nhà Lê rồi nhà Mạc, nhưng trên đường vào trấn nhậm lãnh địa mới, Nguyễn Hoàng chỉ chọn Quảng Trị làm chỗ đứng chân. Trong giai đoạn chân ướt chân ráo ấy, chắc hẳn ông cho rằng đây là chỗ cắm chốt an toàn nhất, vì nó không va chạm quyền lợi với bất cứ thế lực nào kể cả thế lực “chính phủ” và “phi chính phủ”.
Sau ba lần xây dựng và di chuyển lỵ sở của mình từ Ái Tử (1558) đến Trà Bát (1570) rồi Dinh Cát (1600), cho tới cuối đời (1613), ông vẫn xem lưu bồn sông Thạch Hãn như là một địa bàn chiến lược tối ưu chứ chưa bao giờ nghĩ đến lưu bồn của sông Hương hay một con sông nào khác ở phía Nam.
Bài tham luận này điểm lại đôi nét lịch sử liên quan đến việc chọn lựa 3 lỵ sở ấy và ý nghĩa của các lần di chuyển lỵ sở.
1. ÁI TỬ 愛子 : 1558 – 1570
Sau khi được chính quyền lưu vong Lê – Trịnh ở Tây đô (Thanh Hóa) cho phép, vào tháng 10 năm Giáp ngọ (1558), “Đoan Quận công Nguyễn Hoàng đem quân vào trấn thủ xứ Thuận Hóa... Mọi việc của xứ này không cứ lớn hay nhỏ, và các ngạch thu thuế đều giao cả cho, hàng năm đến kỳ hạn thì thu nộp” (1). Năm ấy, Nguyễn Hoàng 34 tuổi. Đoàn người theo ông xuôi về Nam trong dịp này khá đông, gồm nhiều kẻ đồng hương ở huyện Tống Sơn, gia đình binh sĩ ở Thanh, Nghệ, một số viên chức đã từng phục vụ cho nhà Lê. Trong khoảng 1.000 người đó, có một người cậu ruột của ông là Nguyễn Ư Dĩ từng nuôi dạy ông “trù tính nhiều cách để xây vững nghiệp chúa” (2). Nguyễn Hoàng còn có sẵn uy tín do thân phụ ông là Nguyễn Kim – một trung thần đã quá cố của nhà Lê – để lại, ông dùng đức độ của mình để “vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được dân mến phục... Bấy giờ, mọi việc bắt đầu. Chúa khuya sớm chăm lo, nghĩ việc củng cố căn bản” (3).
Phần lớn những người mới đến Thuận Hóa lần này là thủy quân. Họ đã đi đường biển bằng chiến thuyền và vào đất liền bằng cửa Yên Việt (tức là của Việt hiện nay), rồi “đóng quân trên bãi cát nổi thuộc xã Ái Tử, huyện Vũ Xương” (4).
Ái Tử là tên một làng, trước đó từng được liệt kê trong sách Ô Châu Cận lục do tiến sĩ Dương Văn An biên tập vào năm 1555. Đây là 1 trong 59 làng của huyện Vũ Xương thuộc phủ Triệu Phong bấy giờ (5). Làng Ái Tử ngày nay thuộc xã Triệu Gia, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Làng nằm ở bờ bắc sông Thạch Hãn, cách thành cổ Quảng Trị khoảng 4km đường chim bay về phía tây bắc và cách Quốc lộ 1A hơn 1 km về phía đông bắc.
Nguyễn Hoàng đã đóng lỵ sở đầu tiên của ông tại đó. Nếu gọi Ái Tử bấy giờ là Thủ phủ thì có lẽ không chính xác, vì quy mô xây dựng ở đây chỉ là một quân dinh hoặc dinh trại. Một số nhà nghiên cứu người Pháp trước kia, đã dùng từ  “ le camp” (dinh, trại) hoặc “ le camp militaire”  (trại quân) để nói lên tình trạng xây dựng lỵ sở đơn sơ giản dị của Nguyễn Hoàng và những người đi theo ông bên bờ sông Thạch Hãn.
Dinh Ái Tử bấy giờ tọa lạc tại bên trong một khúc uốn hình bán nguyệt của dòng sông ấy. Đường cong của nó hướng ra phía biển cách đó khoảng 7 km về phía đông bắc. Về mặt chiến lược, đoạn sông uốn cong này là một tuyến đường thủy có thể dùng làm tuyến phòng thủ cho cả 3 phía bắc, đông và nam của quân dinh. Còn ở phía tây của nó thì đã có một chi lưu ở tả ngạn sông Thạch Hãn ngăn cản. Chi lưu này được sử sách gọi là sông Ái Tử (7) và nhân dân địa phương gọi là Rào Ái. “Đất nầy ở ven sông, gần biển, hơi xa cách rừng núi” (8).
Người ta kể rằng khi lập dinh ở Ái Tử, chúa Nguyễn Hoàng đã “truyền dựng một cột cờ trên bãi cát, gần bờ sông Đá Hàn (nay là sông Thạch Hãn hay sông Quảng Trị), sông nầy, xưa nước trong suốt đá, gọi là “bãi cát Cồn Cờ”. Do đó đã có câu ca dao địa phương như sau:
          Nước Cồn Cờ hòa trong hòa mát,
          Bãi Cồn Cờ nhỏ cát càng xinh” (9).
Trong quyển Sử ký tỉnh Quảng Trị do Ty Tiểu học tỉnh này biên soạn và ấn hành vào đầu thập niên 1960, các nhà giáo tại chỗ nói rằng bấy giờ chỉ còn một dấu vết duy nhất của Nguyễn Hoàng để lại. Họ viết: “Tại thôn Lập Thạch có một gò đất cao do chúa Nguyễn lúc vào trấn đất Thuận Hóa đã đắp nên với mục đích quan sát tàu bè ngoài biển và trên sông Cái. Nay dân chúng vẫn còn gọi là Cồn Dõi Lập Thạch” (10).
Cồn đất cao ấy còn có một cái tên khác nữa là Cồn Súng hoặc Mô Súng, ngày nay vẫn tồn tại, nằm ở ngã ba sông Ái Tử - Thạch Hãn, thuộc làng Lập Thạch, xã Triệu Lễ. Về phương diện quân sự, Cồn Dõi Lập Thạch bấy giờ là một tiền đồn của dinh Ái Tử, chỉ cách quân dinh của Nguyễn Hoàng khoảng 1km về phía hạ lưu. Nó giữ nhiệm vụ vừa quan sát mọi tàu bè đi lại trên biển và trên sông, vừa đề phòng sự xâm nhập của lực lượng hải quân đối phương.
Hiện nay, nhìn chung, ngoài một số địa danh chỉ các vị trí mà Nguyễn Hoàng đã cho xây dựng dinh trại để thiết lập cơ ngơi ban đầu của mình ở Ái Tử, tất cả các dấu vết lịch sử của hơn 4 thế kỷ trước đã trở nên nhạt nhòa trên thực địa. Ngay vào đầu thập niên 1970, một người cầm bút ở Quảng Trị đã phải ngậm ngùi: “Ngày nay Ái Tử không còn giữ được một dấu vết nào đáng kể, những du khách đến đây đều phải bâng khuâng...” (11).
Nhưng, thử hỏi tại sao khi mới vào trấn thủ Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng không chọn một địa điểm nào đó bên bờ sông Bồ hoặc sông Hương để lập dinh, mà phải đóng ở bờ sông Thạch Hãn ?
Có lẽ đó là một quyết định mang tính sách lược chính trị có sự tham mưu của “quân sư” Nguyễn Ư Dĩ. Ở Quảng Trị bấy giờ dân cư còn thưa thớt, đất đai còn nhiều nơi hoang vắng, không phải là miếng mồi ngon để các “anh hùng hào kiệt” thuộc loại thảo dã của họ Mạc và triều đình Lê – Trịnh quan tâm giành giật. Trong khi đó thì địa bàn Thừa Thiên bấy giờ đã trở nên trù phú hơn nhiều, nhất là tại vùng phủ lỵ phủ Triệu Phong, tức là thành Hóa Châu ở mạn hạ lưu sông Hương: “Sông Cái Kim Trà rót vào phía nam, đập lớn, chằm to ước nghìn vạn khoảnh. Các dòng nước bọc cả bốn bề, giữa có một tòa thành trăm nhận sừng sững như đám mây dài. Đó là nơi địa hình kết hợp, thiên tạo đặt bày vậy”. Trong thành “la liệt những trường học, nha môn...” (12).
Nếu so sánh với vùng đất còn tương đối hoang vu ở Quảng Trị thì khung cảnh vừa được mô tả là một nơi sinh hoạt nhộn nhịp và phồn thịnh, là một miếng mồi ngon để các thế lực nhắm vào. Nhưng, khi chọn Ái Tử, Nguyễn Hoàng đã tỏ ra khôn khéo trong việc tìm nơi cắm chốt ban đầu để tránh khỏi những va chạm không cần thiết và bất lợi có thể xảy đến do các thế lực bất mãn với chính quyền Lê – Trịnh và các thành phần cưu dân phức tạp trên địa bàn Thuận Hóa gây ra.
2. TRÀ BÁT  茶缽: 1570 – 1600
Năm 1570, sau khi ra Tây đô yết kiến vua Lê và gặp lại Trịnh Kiểm lần đầu tiên trở về nhiệm sở, Nguyễn Hoàng cho “dời dinh sang xã Trà Bát” (13).
Trước đó 2 năm, Trấn thủ Quảng Nam Bùi Tá Hán mất khi còn tại chức, triều đình Lê – Trịnh ở Thanh Hóa cử Nguyễn Bá Quýnh vào thay. Nay, 1570, triều đình lại triệu Nguyễn Bá Quýnh ra giữ chức Trấn thủ Nghệ An, và giao Quảng Nam cho Nguyễn Hoàng kiêm nhiệm. “Họ Nguyễn gồm có đất đai hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam từ đấy” (14). Bấy giờ, “Thuận Hóa có 2 phủ, 9 huyện, 3 châu... Quảng Nam có 3 phủ, 9 huyện... [Nguyễn Hoàng] đeo ấn Tổng trấn tướng quân” (15).
Với chức vụ mới là Tổng trấn, lãnh đạo cả Thuận Hóa lẫn Quảng Nam, quyền lực của Nguyễn Hoàng đã tăng lên gấp đôi. Việc ông cho dời dinh sang làng Trà Bát bấy giờ mang một ý nghĩa lịch sử: đánh dấu một thắng lợi của cá nhân ông khi được thăng quan tiến chức.
Trà Bát nằm cách Ái Tử khoảng 1 km về phía hạ lưu sông Thạch Hãn (16). Về sau, tên làng Trà Bát đổi thành Trà Liên, nay thuộc xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong.
Vào năm 1966, các tác giả của sách Địa phương chí tỉnh Quảng Trị viết rằng: “Thời bấy giờ, để phòng ngự cho chính dinh, Nguyễn Hoàng đặt 5 cánh quân chung quanh, gọi là Trung kiên, Hậu kiên, Tả kiên, Tiền kiên, Hữu kiên; ngày nay, tên 5 cánh quân này vẫn còn dùng để đặt tên cho thôn ấp” (17).
Đa số các nhà nghiên cứu gần đây đều cho rằng địa điểm trung tâm của Trà Bát “nằm tại khu đất được gọi tên là Nương Phủ hay Phủ Thờ, gần sát với khu dân cư của xóm Bồi làng Trà Liên, kéo dài ven sông Thạch Hãn cho tới làng Tiền Kiên. Phủ Thờ nằm tại phía đông của Cồn Đinh. Cách Phủ Thờ chừng hơn 300 m về hướng đông nam là Ghềnh Phủ, một bến cảng với các hoạt động buôn bán tấp nập của dinh chúa một thời” (18). Lê Quý Đôn cho biết thêm rằng bấy giờ cũng đã có nhiều thuyền buôn ngoại quốc đến mua bán, đổi chác hàng hóa ở đây (19). “Ở về phía bắc và nam của Phủ Thờ, tức là hai đầu của làng Trà Liên hiện còn các địa danh như: Mô Súng, Thành ao, Bến đò xưởng, Ruộng xưởng, Bãi trận, Đình hát...” (20).
3. DINH CÁT 營葛 : 1600 – 1636
Sau khi Trịnh Tùng (con của Trịnh Kiểm) đem quân từ Tây đô ra đánh lấy lại được Đông đô trong tay nhà Mạc, vua Lê được trở về cố đô của mình vào tháng 4 năm Quý tị (1593). Một tháng sau, Nguyễn Hoàng đem binh thuyền ra đó yết kiến vua Lê. Ông được vua khen ngợi và lưu lại làm chức quan Thái úy Hữu tướng, rồi được phong tước Đoan Quốc công, đồng thời vẫn kiêm nhiệm chức Tổng trấn hai xứ Thuận – Quảng như cũ.
Bấy giờ, tuy kinh đô nhà Lê đã được thu phục, nhưng quân nhà Mạc vẫn còn chiếm cứ và đánh phá nhiều nơi trên đất Bắc. Nguyễn Hoàng đã có nhiều công lao trong việc đem quân đi tiểu trừ, nhưng sau 7 năm chinh phạt thắng lợi, ông vẫn không nghe Trịnh Tùng đề cập gì đến việc để cho ông trở về Thuận Hóa. Do đó, ông phải lập kế để trở vào nam bằng cách “mưu sử bọn thủy tướng quân là Phan Ngạn, Ngô Đình Nga và Bùi Văn Khuê làm phản ở cửa biển Đại An, rồi tự xin đi đánh, đến nơi giả cách thua, bèn do đường biển về thẳng Thuận Hóa” (21).
Ngay sau khi về đến nhiệm sở cũ vào tháng 5 Âm lịch năm ấy (1600), ông “cho dời dinh sang phía đông dinh Ái Tử (bấy giờ gọi là Dinh Cát)” (22).
Về địa danh và địa điểm Dinh Cát, có đôi điều cần tìm hiểu. Một nhà nghiên cứu từng sống lâu năm ở Quảng Trị đã viết rằng: “Dinh được xây cất trên một động cát, do đó dinh mới gọi là Dinh Cát hay Cát Dinh” (23). Nhưng, chữ nghĩa được ghi chép trong sử sách không cho phép cắt nghĩa theo cảm tính như vậy.
Khi nói về sự kiện Nguyễn Hoàng cho dời dinh từ Trà Bát sang phía đông dinh Ái Tử, Quốc Sử Quán triều Nguyễn đã viết một câu bằng chữ Hán, nguyên văn như sau: 移營于愛 子營之東時稱葛營 (Di dinh vu Ái Tử dinh chi đông, thời xưng Cát Dinh). Riêng chữ Cát 葛 trong câu này được Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giải nghĩa là dây sắn, còn Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh thì dịch là cây sắn, cây đay. Nếu là động cát hay bãi cát thì trong chữ Hán cũng như trong chữ Nôm đều có ký tự để dùng. Trong chữ Hán, sa 沙 có nghĩa là cát.

Về địa điểm của Dinh Cát, gần đây có một số ý kiến cho rằng nó nằm quanh vực nền chùa Liễu Bông vốn được xây dựng sau khi chúa Nguyễn Phúc Nguyên di chuyển lỵ sở vào làng Phước Yên. Đây chính là địa điểm nằm trên khu đất có tên gọi là Cồn Dinh thuộc làng Trà Liên, tiếp giáp với làng Tiền Kiên, ở bờ tây sông Ái Tử đoạn ôm vòng lại (gọi là cổ chai), cách địa điểm gọi là Nương Phủ (Phủ Thờ) chưa đầy 500m về phía tây bắc mà ngày nay còn lưu lại nhiều vết tích về một vòng thành (thành nội). So với 2 địa điểm khác [Ái Tử và Trà Bát] thì đây là nơi mà dấu vết còn lại khá rõ nét” (25).
Tuy lỵ sở của Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng đóng tại Dinh Cát chỉ 26 năm (1600 – 1626), nhưng địa danh này đã được sử dụng trong một thời dài để chỉ cả địa bàn tỉnh Quảng Trị về sau. Chẳng hạn như trong một bức thư của Laurent Barisy đề ngày 16 – 7 – 1801 (sau khi Nguyễn Phúc Ánh tái chiếm Phú Xuân từ tay nhà Tây Sơn), có câu: “Tất cả quân lính các tỉnh gốc Chàm, Huế, Dinh Cát... từ xưa vẫn mến chúa đã kéo từng lũ đến yết kiến và xin đầu quân với Nguyễn Vương” (26).
Dù sao,  sự thiên di lỵ sở từ Trà Bát đến Dinh Cát cũng đã mang một ý nghĩa lịch sử. Để biểu tỏ một đổi thay nào đó trong cung cách ứng xử của chính quyền Thuận Quảng, ngay sau khi từ đất Bắc trở vào đến nhiệm sở của mình, Nguyễn Hoàng liền cho dời dinh sang một địa điểm mới, và sau đó 2 năm, 1602, ông cử người con trai thứ 6 của mình là Nguyễn Phúc Nguyên vào giữ chức Trấn thủ Quảng Nam. Với sự kiện ấy, Nguyễn Hoàng đã tự nâng địa vị của mình lên một bậc. Ý nghĩa của sự dời dinh lần này có lẽ là như vậy.
Nhìn chung,  trong suốt 55 năm trấn nhậm xứ Thuận Hóa rồi xứ Quảng Nam (1558 – 1613), chúa Tiên Nguyễn Hoàng vẫn giữ trung tâm hành chính của mình tại đất Quảng Trị. Mặc dũ đã trải qua 3 lần dời dựng lỵ sở từ Ái Tử đến Trà Bát rồi Dinh Cát, nhưng chúa vẫn lựa chọn địa điểm ở lưu bồn sông Thạch Hãn. Mỗi lần thiên di lỵ sở như vậy đều gắn liền với một sự kiện quan trọng, một dấu mốc lịch sử trong quá trình xác lập thế lực chính trị của chúa trên con đường mở rộng lãnh địa về phía nam. Vào năm 1611, tức là 2 năm trước khi qua đời, chúa Nguyễn Hoàng còn mở thêm một đơn vị hành chính mới là phủ Phú Yên (27). Sự kiện này tiếp tục mở ra một chân trời mới trong sự nghiệp Nam tiến của chúa Tiên. Nhưng, chúa vẫn không di dời lỵ sở của mình ra khỏi lưu bồn sông Thạch Hãn. Điều này chứng tỏ rằng cho đến bấy giờ, Quảng Trị vẫn là địa bàn chiến lược tối ưu của chúa.
Suốt đời mình, chúa Tiên “muốn dựng lên nghiệp lớn” và “xây dựng cơ nghiệp muôn đời” cho họ Nguyễn, trong đó có việc đánh bại họ Trịnh và thống nhất đất nước. Ý muốn này đã được bộc lộ trong lời dặn người con kế nghiệp trước khi ông trút hơi thở cuối cùng:
“Đất Thuận Quảng phía bắc có núi Ngang và sông Gianh hiểm trở, phía nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống choi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời...” (28).
Quản lý một vùng đất rộng lớn từ Thuận Hóa đến Phú Yên, Đoan Quốc công đã lập được một tuyến phòng thủ từ Cửa Việt đến 5 đơn vị quân đội “Ngũ Kiên” đóng dọc theo sông Thạch Hãn, và trong hơn nửa thế kỷ (1558 – 1613), lỵ sở của ông đã được xây dựng ngày càng quy củ và kiên cố ở lưu vực con sông này. Nếu bộ chỉ huy của ông di chuyển đi xa phòng tuyến đó, e rằng lỵ sở đó sẽ bị hở sườn và sẽ có sự dòm ngó từ miền Bắc để xuống thôn tính lãnh địa trù phú của ông.
Lời “di huấn” của ông trên đây đã gián tiếp tuyên chiến với thế lực họ Trịnh. Con ông là chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên sẽ công khai xây thành đắp lũy ở Đồng Hới để thay thế cho phòng tuyến ấy khi dịch chuyển lỵ sở xuống phía nam và ra mặt “chống chọi với họ Trịnh” như lời ông dặn.
Với việc dùng địa bàn Quảng Trị làm đất bản bộ trong tiến trình ổn cố và mở mang lãnh địa của mình, chúa Nguyễn Hoàng đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong lịch sử đất nước. “Ông là người khởi đầu cuộc mở rộng biên cương lớn nhất trong lịch sử về phía nam... Có thể nói rằng nếu không có việc Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa vào năm 1558 thì lịch sử có thể đã diễn ra theo một chiều hướng khác” (29).
 

                                                CHÚ THÍCH
(1)             Đại Việt Sử ký Toàn thư, NXB KHXH, Hà Nội, 1993, tập III, bản dịch của Hoàng Văn Lâu và Ngô Thế Long, tr. 132.
(2)             Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam Liệt truyện, bản dịch của Viện Sử Học, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993, tập 1, tr. 77.
(3)             Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam Thực lục (Thực lục),  bản dịch của Viện Sử Học, tập I, NXB Sử Học, Hà Nội, 1962, tr. 30 – 32.
(4)             Nguyễn Khoa Chiêm, Nam triều công nghiệp diễn chí, bản dịch của Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2003. tr. 26.
(5)             Dương Văn An, Ô Châu Cận lục, bản dịch của Bùi Lương, Văn hóa Á châu xuất bản, Sài Gòn, 1961, tr. 38.
(6)             A. Laborde, “La Province de Quảng Trị”, Bulletin des Amis du Vieux Hué, 1921, tr. 112.
(7)             Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí: Tỉnh Quảng Trị và tỉnh Quảng Bình, bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn Hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1961, tr. 42.
(8)             Phan Huy Chú, Lịch triều Hiến chương Loại chí: Dư địa chí, bản dịch của Nguyễn Thọ Dực, Sài Gòn, 1972. tr. 345.
(9)             Léopold Cadière, “Les Résidences des Rois de Cochichine (Annam) avant Gia Long”, Ernest Leroux, Paris, 1916, tr. 10 – 11. Xem thêm: Nguyễn Văn Ngọc, “Lược sử xứ Dinh Cát”, Giai phẩm Chim Việt, số 3, tháng 6 – 1971, Quảng Trị, tr. 52 – 53.
(10)        Sử ký tỉnh Quảng Trị, in ronéo, 49 trang cỡ 21 x 27,5 cm, tr. 47.
(11)        Thạch Hà, “Vài nét sơ lược về Quảng Trị”, Giai phẩm Chim Việt, số 4, tháng 8 – 1971, Quảng Trị, tr. 67.
(12)        Dương Văn An, sách đã dẫn, tr. 65.
(13)        Thực lục, tập đã dẫn, tr. 33.
(14)        Lê Quý Đôn, Phủ biên Tạp lục, bản dịch của Lê Xuân Giáo, Phủ Quốc Vụ khanh Đặc trách Văn hóa xuất bản, Sài Gòn, tập I, 1972, tr. 69 – 70. Xem thêm bản dịch của Viện Sử Học, NXB KHXH, Hà Nội, 1977, tr. 49 – 50.
(15)        Thực lục, nơi đã dẫn.
(16)        A. Laborde, bài đã dẫn, tr. 113.
(17)        Địa phương chí tỉnh Quảng Trị, 65 trang cỡ 15,5 x 23 cm, Tòa Hành chánh Quảng Trị ấn hành, 1966, tr. 7.
(18)        Lê Chí Tài, “Các dinh chúa Nguyễn ở Quảng Trị - Bảo tồn và phát huy giá trị của di tích”, đăng trong Di sản Văn hóa Huế, nghiên cứu và bảo tồn do Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế ấn hành, Huế, tập II, 2012, tr. 463.
(19)        Phủ biên Tạp lục, bản dịch của Viện Sử Học, tr. 50. Chúng tôi xin cập nhật hóa vấn đề bằng cách cung cấp thông tin liên quan dưới đây với tất cả sự dè dặt cần thiết. Vừa qua, bảo tàng Quốc gia Kyushu ở tỉnh Fukuoka (Nhật Bản) đã phát hiện và công bố một bức thư đề năm 1591 do “một nhân vật có địa vị cao có liên quan đến triều đình nhà Nguyễn (xứ Đàng Trong) nắm quyền cai quản Quảng Nam thời kỳ đó” gửi cho chính phủ Nhật Bản, tỏ quyết tâm muốn thông thương với nước này (Xem Tấn Vũ, “Phát hiện thư tịch cổ về giao thương Việt Nam và Nhật Bản”, báo Tuổi Trẻ, số ra ngày 3 – 7 – 2013, tr. 16). Năm 1591 là thời điểm Nguyễn Hoàng đang đóng dinh ở Trà Bát.
(20)        Lê Chí Tài, nơi đã dẫn.
(21)        Lê Quý Đôn, Phủ biên Tạp lục, bản dịch của Viện Sử Học, tr. 51.
(22)        Thực lục, tập đã dẫn, tr. 41.
(23)        Nguyễn Văn Ngọc, Lược sử xứ Dinh Cát, trang đã dẫn.
(24)        Đại Nam Thực lục Tiền biên, quyển 1, tờ 19b.
(25)        Lê Chí Tài, bài đã dẫn, tr. 464.
(26)        “Những ngày tàn của Tây Sơn dưới mắt các giáo sĩ Tây phương”, Đặng Phương Nghi sưu tầm, Nguyễn Ngọc Cư dịch, tập san Sử Địa, số 21, Sài Gòn, 1971, tr. 183.
(27)        Thực lục, bản dịch, tập đã dẫn, tr. 43 – 44.
(28)        Thực lục, nơi đã dẫn.
(29)        Võ Hương An, Từ điển nhà Nguyễn, NXB Nam Việt, California, 2012, tr. 423.
Tác giả bài viết: Phan Thuận An

MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VỀ TÁC GIẢ AN NAM QUỐC THƯ CỦA CÁC CHÚA NGUYỄN Ở ĐÀNG TRONG

Người thành cổ Quảng trị

 . Đặt vấn đề: Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, mối quan hệ bang giao quốc tế của đất nước ta thời kỳ đầu chúa Nguyễn đã được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu, và đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, góp phần bổ khuyết cho lịch sử Đàng Trong nói riêng và lịch sử Đại Việt – An Nam – Việt Nam nói chung. Trong đó, quan hệ thông thương với Nhật Bản thời kỳ Shuinsen (Châu Ấn thuyền) (1592-1635) không những được giới nghiên cứu Việt Nam tìm hiểu, mà trên bình diện quốc tế cũng đã có nhiều học giả nước ngoài như Seiichi Iwao1, Kawamoto Kuniye2, Li Tana3 …khảo sát và đề cập. Tuy nhiên, tất cả các bài viết ấy đều chủ yếu căn cứ vào Gaiban Tsusho (Ngoại phiên thông thư) (quyển 11-14, phần An Nam quốc thư)4 và tham khảo thêm một số tư liệu khác như Rekidai hoan (Lịch đại bảo án)5, Nanpo bunshū (Nam Phố văn tập); Koji ruien (Cổ sự loại uyển), Tsūkō ichiran (Thông hàng nhất lãm), Shuinsen bōekishi (Châu ấn thuyền mậu dịch sử)… Những công trình trên đây đều chủ yếu được biên tập và xuất bản ở Nhật vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, và là sự tập hợp lại các tư liệu liên quan có trong hệ thống thư tịch của nước Nhật.
       Từ đó, một vấn đề cần bàn đến là: khi dẫn liệu, các tác giả chưa tìm hiểu cụ thể về văn bản học của những bức Thông thư đó (chẳng hạn: những cuốn sách liên quan đến các bức thư đó xuất hiện lúc nào, nguyên tác các bức thông thư đó hiện nay còn không? Số lượng bao nhiêu? Nằm ở đâu?... tính chính xác của các bức thư được trích dẫn vào sách đối chiếu với nguyên bản như thế nào?…) Điều ấy khiến cho mức độ xác tín của các cứ liệu trên thực sự cần được tìm hiểu.
Chẳng hạn, ở Ngoại phiên thông thư (Gaiban tsūsho): trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi được biết Ngoại phiên thông thư do Morishige Kondō (Cận Đằng Thủ Trọng) (1771-1829) thu thập, được dẫn liệu, công bố trong bộ sách Shiseki shūran (Sử tịch tập lãm) quyển 21, do Heijō Kondō (Cận Đằng Bình Thành 1832-1901) biên tập và xuất bản theo kỹ thuật in hoạt bản (sắp chữ rời) trong nhà xuất bản Cận Đằng từ năm 1881, nhưng thực tế sách lại được xuất hiện với độc giả vào khoảng từ năm 1902-1926. Sách Sử tịch tập lãm quyển 21 này có 233 trang, ở đây, An Nam quốc thư được bắt đầu từ trang 93 đến trang 233. Bên cạnh đó, bộ Ngoại phiên thông thư cũng được tập hợp trong cuốn sách Kondō seisai zenshū. 1 (Cận Đằng Chính Trai toàn tập, tập 1) – bộ sách Cận Đằng Chính Trai toàn tập  này do Kokusho Kankōkai (Quốc thư san hành hội), Tokyo xuất bản đầu tiên vào năm 1905-1906. Sách Koji ruien (Cổ sự loại uyển) gồm 1000 cuốn, được biên tập xong vào năm Meiji (Minh Trị. 1907) thứ 40, sau gần 30 năm miệt mài (1879 – 1907), và san hành trong khoảng từ năm 1896 (Meiji thứ 29) đến năm 1914 ( Taishō (Đại Chính) thứ 3)6 … Các sách Rekidai hōan (Lịch đại bảo án), Nanpo bunshū (Nam Phố văn tập), Tsūkō ichiran (Thông hàng nhất lãm), Shuinsen bōekishi (Châu ấn thuyền mậu dịch sử)…cũng vậy!
          Như vậy, các tác phẩm được dẫn liệu liên quan đến văn thư trao đổi giữa An Nam và Mạc Phủ thời Shuinsen (Châu Ấn thuyền) (cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII) lại là các bản in hoạt bản, xuất hiện sớm nhất vào cuối thể kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, cách nhau gần 3 thế kỷ.
Tại Việt Nam, An Nam quốc thư lần đầu tiên được biết đến vào đầu thế kỷ XX, do Sở Cuồng Lê Dư đăng tải ở Tạp chí Nam Phong7, lấy tên Cổ đại Nam-Nhật giao thông khảo 古代南日交通攷, về cơ bản tương đối giống với một số bản An Nam quốc thư (quyển 11 -14) ở Ngoại phiên thông thư8 đã kể ở trên.
         Năm 1969, Sử gia Phan Khoang trong công trình Việt sử xứ Đàng Trong – 1558-1777, ở mục 10)Ngoại giao – c)Giao thiệp với Nhật Bản 9 đã điểm qua và trích dịch đại ý nội dung các bức thư của Sở-cuồng Lê Dư. Năm 2006, 2007, các tác giả Phạm Hoàng Quân đã giới thiệu các văn bản được ông Lê Dư cho đăng ở Nam Phong tạp chí  trong tạp chí Nghiên cứu & Phát triển (thuộc Sở Khoa học & Công nghệ TT Huế) số 3 (56) năm 2006 10, các nhà nghiên cứu Phan Thanh Hải – Vĩnh Cao đã tiến hành dịch thuật và bước đầu bình luận những bức thư này trên các số 4 (57) – 5+6 (58-59) năm 2006 của tạp chí Nghiên cứu & Phát triển và Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 7 (375) năm 2007.
          Có thể nói, bản dịch của nhà Hán học Vĩnh Cao và TS. Phan Thanh Hải đối với các bức thư liên quan đến mối quan hệ bang giao giữa chúa Nguyễn, vua Lê, chúa Trịnh, tòng sự với triều đình Mạc Phủ Edo rất giá trị, thể hiện sự đóng góp quan trọng cho việc bổ khuyết tư liệu đối với lịch sử, văn hóa, ngoại giao nước ta thế kỷ XVI-XVII, nhất là những hiểu biết vốn còn ít ỏi về mọi mặt đời sống ở Đàng Trong. Tuy vậy, để có sự nhận định chuẩn xác hơn về số lượng, tác giả của các văn kiện ngoại giao này, chúng ta cần có những khảo cứu cụ thể.
           Xuất phát từ những nguyên nhân trên, chúng tôi đã cố gắng tìm hiểu kỹ về vấn đề văn bản học của các bức thư này, cụ thể là các văn thư liên quan đến chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Sau một thời gian dài thu thập, xử lý tư liệu, chúng tôi đã may mắn phát hiện ra được một số văn bản gốc của các bức quốc thư với hoa văn, chất liệu giấy đặc trưng và dấu triện son rõ nét. Đây chính là những tư liệu chính xác nhất làm căn cứ để bổ khuyết, hiệu chỉnh lại một số nhầm lẫn về tác giả của các bức thư được nói đến.
            2.  Bàn về tác giả của một số bức thư giữa Chúa Nguyễn và Nhật Bản
          Từ trước đến nay, khi nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, ngoại giao, ngoại thương của Việt Nam (nhất là vào thời các Chúa Nguyễn) vào  thế kỷ XVI-XVIII, nhiều học giả đã rất quan tâm đến An Nam quốc thư,  hầu hết các công trình đều dẫn liệu những bức thông thư này để mặc nhiên khẳng định rằng trong mối quan hệ giữa Nhật Bản và Việt Nam thời kỳ Châu Ấn thuyền, “…Người viết là Chúa đời thứ nhất họ Nguyễn ở Quảng Nam, nghĩa là Nguyễn Hoàng” 11. Nhận định ấy căn cứ vào lời án (xét) của Cận Đằng Thủ Trọng (Morishige Kondō) khi thu thập và biên tập phần An Nam quốc thư (Ngoại phiên thông thư tập 11); Trong lời nói đầu ở sách đó, ông đặt ra nghi vấn rằng: “chữ Thụylà sự nhầm lẫn của chữ Đoan 端”12 Từ nghi vấn này, giới nghiên cứu của Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam…trong thời gian qua đã đi đến khẳng định bức thư này là của Đoan quốc công Nguyễn Hoàng 13.
          Cơ sở của những đoán định này, theo chúng tôi, chính là ở chỗ lúc bấy giờ người Nhật chưa nắm rõ những tên gọi của các vùng đất Đàng Trong - Đàng Ngoài, các tước hiệu của vua chúa và tùy tùng thế kỷ XVII (nhất là tước hiệu Đoan quốc công của chúa Tiên Nguyễn Hoàng và Thụy quốc công của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên), cũng như những mối quan hệ khá phức tạp trong lịch sử xã hội nước ta ở thế kỷ XVII, đúng như nhận xét của TS. Li Tana “…người Nhật đã tỏ ra lúng túng về tên gọi vùng đất dưới quyền kiểm soát của họ Nguyễn……Tới năm 1611, chúng ta còn thấy ghi trên danh sách cả hai tên “Annam” và “Cochinchina”. Điều này cho thấy người Nhật vẫn còn do dự chưa biết phải gọi vùng đất này bằng tên gì14.
           Người Nhật nghi ngờ có sự nhầm lẫn giữa Đoan 端 (quốc công) và Thụy 瑞(quốc công) cũng phải lẽ, bởi xét về cấu tạo chữ, 2 chữ trên gần như khá giống nhau, chỉ khác nhau ở bộ lập 立 và bộ ngọc 玉 ở phần bên trái của chữ. Đồng thời, lúc bấy giờ, khi giao thiệp với bên ngoài, chúa Nguyễn (Phúc Nguyên) – mặc dù vẫn dùng các niên hiệu của vua Lê, nhưng xưng hô bằng các danh xưng không chính thức như An Nam quốc thiên hạ thống binh đô nguyên soái Thụy quốc công 安南國天下統兵都元帥瑞國公 (bức thư thứ nhất ngày 5 tháng 5 năm Hoằng Định thứ 2 [1601]), An Nam quốc đại đô thống Thụy quốc công Nguyễn 安南國大都統瑞國公阮, An Nam quốc đại đô thống Thụy quốc công 安南國大都統瑞國公, An Nam quốc đại đô thống 安南國大都統, An Nam quốc điện hạ kiêm Quảng Nam đẳng xứ 安南國殿下兼廣南等處….
         Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi may mắn tìm được một số văn bản gốc của các bức “Thông thư” trong An Nam quốc thư, quyển 1 (được trích dẫn ở Ngoại phiên thông thư, quyển 11) trên. Văn bản này hiện lưu trữ tại Nhật Bản Quốc lập công văn thư quán (National Archives of Japan) ở Nhật Bản và Cửu Châu quốc lập bác vật quán (Kyushu national Museum), .
Đây là văn bản được các cơ quan hữu trách của Nhật Bản scan lại từ văn bản gốc, cho nên tất cả các yếu tố liên quan đến bức thư như hoa văn bức thư, ấn triện son, chữ nghĩa trên thư, dấu hoa áp…được bảo toàn nguyên vẹn.  
 
 
Hình 1:Bức thông thư của chúa Thụy quốc công Nguyễn Phúc Nguyên
                                  (ngày 05 tháng 05 năm Hoằng Định thứ 2-1601)
 
Căn cứ vào văn bản gốc này, chúng ta thấy mở đầu bức thư là cụm từ: 安南國天下都統兵都元帥瑞國公 An Nam quốc thiên hạ Thống binh Đô Nguyên soái Thụy Quốc công… Đây cũng là cụm từ thường xuyên được giới nghiên cứu Nhật Bản và Việt Nam bàn luận. 
         Thụy quốc công 瑞國公 là tước hiệu của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Từ trước đến nay, các học giả đoán định và khẳng định rằng: chữ Thụy 瑞 là sự giả trá, nhầm lẫn của chữ Đoan 端. Theo đó, họ luận rằng: bởi thời gian này (1601), Đoan Quốc công là Tổng trấn Thuận Quảng, nên việc giao thiệp mọi mặt (kể cả văn thư trao đổi qua lại) ắt hẳn phải chính do Tổng trấn Thuận Quảng trực tiếp quyết định. Đấy có thể là những suy đoán ở chừng mực nào đó “hợp logic”. Song, dấu ấn triện trên bức thư đầu tiên này là: Trấn thủ tướng quân chi ấn 鎮守將軍之印 (hình 2). Điều đó chứng tỏ rằng văn bản này chẳng phải của Tổng Trấn tướng quân Nguyễn Hoàng.
Hình 2: Trấn thủ tướng quân chi ấn
 
Hình 2: Trấn thủ tướng quân chi ấn
 
          Sở dĩ chúng tôi khẳng định điều này là bởi các lý do sau: 
          Thứ nhất, Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ tục biên, quyển XVI, Kỷ nhà Lê  thì “Canh Ngọ [Chính Trị] năm thứ 13 [1570], (Mạc-Sùng Khang năm thứ 5, Minh – Long Khánh năm thứ 4), Tháng giêng, Thượng tướng [Trịnh Kiểm] dâng biểu tâu vua cho Nguyễn Hoàng đi các xứ Thuận Hóa và Quảng Nam, thống suất binh tượng, thuyền bè, và trấn phủ dân địa phương để cõi phiên trấn được vững mạnh…Hoàng cảm tạ vâng mệnh về Trấn15 ; Sách Đại Nam thực lục tiền biên thì chép rằng: “Canh Ngọ, năm thứ 13 [1570], mùa xuân, tháng giêng, chúa từ Tây Đô về, dời dinh sang xã Trà Bát (thuộc huyện Đăng Xương). Vua Lê triệu tổng binh Quảng Nam là Nguyễn Bá Quýnh về trấn thủ Nghệ An. Chúa bèn kiêm lãnh hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam” 16 . Như vậy, từ năm Canh Ngọ niên hiệu Chính Trị thứ 13 đời nhà Lê, chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã được giao chức Tổng trấn trấn giữ 2 xứ Thuận - Quảng, và “đeo ấn Tổng trấn tướng quân, đặt quân hiệu là dinh Hùng Nghĩa17
         Thứ 2, căn cứ vào ấn triện: từ năm 1570, khi nhận lãnh chức Tổng trấn Thuận Quảng đến lúc qua đời (1613), chúa Tiên Nguyễn Hoàng vẫn dùng ấn triện Tổng trấn tướng quân chi ấn. Điều này có thể thấy rất rõ tại bức công văn của Chúa Nguyễn Hoàng sai Lương Văn Chánh mở rộng đất đai canh tác ở Phú Yên năm 1597 17. Bố cục của bức thư, ấn triện và dấu hoa áp rất phù hợp với các bức thông thư ở trên. Ở đây, chúng ta có thể nhìn thấy chữ trên ấn triện là: 總鎮將軍之印 Tổng trấn tướng quân chi ấn.
 

Hình 3: Công văn của Tổng trấn Thuận Quảng Nguyễn Hoàng gửi Lương Văn Chánh năm 1597 (ảnh: ThS. Trần Văn Quyến)*


* Nhân đây, tôi xin cám ơn ThS. Trần Văn Quyến (trường Đại học Phú Xuân – Huế) đã cung cấp bức công văn này.
Một bức thư trong An Nam quốc thư được Nhật Bản lưu giữ cũng thể hiện rõ ấn triện Tổng trấn tướng quân chi ấn này, đó là bức thư Hiểu thị Nhật Bản quốc khách thương viết năm Hoằng Định thứ 7 [1606] của Tổng trấn Nguyễn Hoàng (hình 4, 5)
Từ những lý do trên, chúng tôi đi đến khẳng định rằng: bức thông thư đầu tiên của chúa Nguyễn gửi Nhật Bản vào ngày 05 tháng 05 năm Hoằng Định thứ 2 [1601] là của Trấn thủ Quảng Nam – Thụy quốc công Nguyễn Phúc Nguyên.
        Trong số 16 bức Quốc thư gốc chúng tôi thu thập được, sau khi phân loại, chúng tôi chỉ thấy 2 bức thư viết ngày 15 tháng 4 năm Hoằng Định thứ 7 [1606] (đã dẫn ở trên) và bức thư viết ngày mồng 8 tháng 5 năm Hoằng Định thứ 7 [1606] là của Thái Úy Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng.
Hình 4: Toàn văn (2 tờ) bức thư “Thiên Nam quốc hiểu thị Nhật Bản quốc khách thương” của Đoan quốc công Nguyễn Hoàng ngày 15 tháng 4 năm Hoằng Định thứ 7 [1606] có 2 ấn triện: Tổng trấn tướng quân chi ấn gần nhau (tờ bên phải)!
Hình 5: Ấn triện Tổng trấn tướng quân chi ấn của bức thư trên
 
         Bởi cả hai bức thư đều có dòng chữ đề rất rõ ràng: “天南國欽差雄義營副都將行下順化廣南等處太尉端國公 Thiên Nam quốc khâm sai Hùng Nghĩa dinh Phó đô tướng, hành hạ Thuận Hóa – Quảng Nam đẳng xứ, Thái Úy Đoan quốc công…” (xin xem hình 4, hình 5, hình 6), kết hợp với ấn triện Tổng trấn tướng quân chi ấn (đã chú thích ở trên).
Như đã biết, Từ đó, chúng tôi thấy rằng Chúa Nguyễn Hoàng khi đề soạn văn thư luôn nói rõ chức - tước - hiệu của mình, không xưng hô một cách chung chung, mơ hồ về tước hiệu. Điều ấy chứng tỏ vị Tổng trấn Thuận Quảng rất có ý thức về vị trí, vai trò và trách nhiệm, quyền lực… của ngài.

Hình 6: Một trong hai bức thư của chúa Nguyễn Hoàng
 
            Như vậy, các bức thư còn lại (của chúa Nguyễn, với danh xưng “Đại Đô thống”) đều thuộc về chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Nguyên do: dấu ấn triện trên các thư còn lại (trước 1613) đều là 鎮守將軍之印Trấn thủ tướng quân chi ấn .
Từ các chứng minh trên, chúng tôi xin góp một vài ý kiến nhỏ nhằm đính chính lại một số nhận định của một số nhà nghiên cứu khi cho rằng “Các văn thư của Việt Nam ghi những chữ “Thụy quốc công”, “Đoan quốc công”, “Đại Đô thống” trong hai quyển An Nam quốc thư 1 và 2, chắc chắn đều là thư của Nguyễn Hoàng. Sau khi Nguyễn Hoàng qua đời năm 1613, văn thư của “An Nam quốc Đại Đô thống” (Hoằng Định năm 15-1614, q13, số 2) và văn thư khác (Hoằng Định năm 19 -1616, q13, số 6) trong An Nam quốc thư 3, nhất định là của Chúa Nguyễn đời thứ hai, Nguyễn Phúc Nguyên” 18
          Về danh xưng “Đại Đô thống”, chúng ta thấy rằng danh xưng này xuất hiện trong các bức Quốc thư trước 1635 (trước khi Chúa Sãi qua đời, cũng là trước khi Nhật Bản chấp dứt thời kỳ Châu Ấn thuyền). Căn cứ theo Đại Nam thực lục tiền biên, Thực lục về Hy Tông Hiếu Văn Hoàng đế thì vào tháng 10 năm Dương Hòa thứ nhất [1635], sau khi chúa băng, “thế tử nối ngôi, đem quần thần dâng thụy hiệu là Đại Đô thống trấn Nam phương, tổng quốc chính Dực Thiện Tuy Du Thụy Dương vương19, mặt khác, căn cứ vào các bức quốc thư gốc chúng tôi tìm hiểu được thì chúa Trịnh (Trịnh Tùng, Trịnh Tráng) xưng “Đại nguyên soái Tổng quốc chính”, “Nguyên soái Thống quốc chính”… các tùy tòng ở Đàng Ngoài và quan lại ở Đàng Trong khi xưng đều trình rõ tước hiệu như Phó Đô Đường, Văn Lý hầu, Phái quận công, Thư quận công… Tất cả các yếu tố đó, cộng với ấn triện “Trấn thủ tướng quân chi ấn” của Thụy quốc công Nguyễn Phúc Nguyên cho thấy rằng: Đại đô thống là chức tự xưng của Chúa Sãi khi viết thư giao thiệp với Nhật Bản.
           Các công trình nghiên cứu về Châu Ấn thuyền thời kỳ Edo triều Mạc Phủ (như Kondō seisai zenshū. 1 (Cận Đằng Chính Trai toàn tập, tập 1); Shiseki shūran. 21 (Sử tịch tập lãm, tập 21 (Ngoại phiên thông thư)), Koji ruien (Cổ sự loại uyển, Ngoại giao bộ tập 16), Tsūkō ichiran (Thông hàng nhất lãm), Shuinsen bōekishi (Châu ấn thuyền mậu dịch sử))…  cũng đã nghiên cứu khá rõ ràng về vấn đề này. Cụ thể, chức quan “Đô thống” bắt nguồn từ việc nhà Minh phong cho Mạc Đăng Dung làm “Đô thống sứ ty đô thống sứ” năm 1541, sử liệu này được chép ở Minh Thế tông thực lục, năm Gia Tĩnh thứ 20 (quyển 273) và Đại Việt sử ký toàn thư (bản kỷ tục biên, quyển XVI). 
           Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm Tân Sửu [Nguyên Hòa năm thứ 9, Mạc Quảng Hòa năm thứ 1, Minh – Gia Tĩnh thứ 20 -1541]  “vua Minh bèn phong cho Mạc Đăng Dung làm An nam Đô thống sứ ty đô thống sứ, ban ấn bạc và cho thế tập20.
Đến năm 1597, sau khi đã trung hưng, Nhà Lê cử Đoàn sứ giả do Chánh sứ Tả Thị lang bộ Công Phùng Khắc Khoan sang cống nạp và xin sắc phong. Vua Minh phong cho Lê Thế Tông làm An Nam đô thống sứ ty đô thống sứ  như đã từng phong cho nhà Mạc.
           Như thế, đến những năm đầu thế kỷ XVII, vua Lê của nước ta mới chỉ được nhà Minh của Trung Hoa phong làm Đô thống sứ ty Đô thống sứ. Vậy, chức quan “Đại Đô thống” chính là danh hiệu TỰ XƯNG của Phật chúa Nguyễn Phúc Nguyên nhằm thể hiện ý thức tự chủ, độc lập của Đàng Trong so với Vua Lê và chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.
Sở dĩ chúng tôi bàn luận về việc này bởi vì trong hầu hết các bức thư trao đổi qua lại với triều Mạc Phủ ở Nhật Bản, chức quan “Đại Đô Thống” hầu như xuất hiện liên tục, chiếm phần lớn các văn thư so với những bức thư có các chức tước khác đương thời.
         3.  Một số nhận định:
         Mặc dù từ trước đến nay, các học giả trong và ngoài nước (nhất là các nhà nghiên cứu Nhật Bản) luôn quan tâm tìm hiểu về An Nam quốc thư, về mối quan hệ ngoại giao, thông thương của Việt Nam – Nhật Bản thời kỳ Châu Ấn thuyền, song vẫn có một số nhận định nhầm lẫn về tác giả của các bức thư ấy. Như chúng tôi phân tích ở trên, trong các bức An Nam quốc thư trước năm 1613 hiện có, Đoan quốc công Nguyễn Hoàng là tác giả của 2 bức thư “Hiểu thị” năm Hoằng Định thứ 7 [1606], các bức còn lại là của Thụy Quốc công Nguyễn Phúc Nguyên.
          Điều này chứng tỏ sau khi nhận lãnh chức Tổng trấn Thuận Quảng năm 1570, nhất là từ sau sự kiện chúa sai hoàng tử thứ 6 [Nguyễn Phúc Nguyên] đánh tan 2 chiến thuyền giặc ở Cửa Việt vào năm Ất Dậu 1585, thấy được sự tài năng của chúa Sãi “Con ta thật là anh kiệt”21, chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã có những quyết định phân cấp quản lý rất sáng suốt: cho Nguyễn Phúc Nguyên làm chức Trấn thủ Quảng Nam [trong đó có Thương cảng sầm uất Hội An] thể hiện niềm tin tưởng tuyệt đối đối với người sẽ kế vị - Phật chúa Nguyễn Phúc Nguyên.
         Với việc chứng minh tác giả bức thư trao đổi đầu tiên giữa chúa Nguyễn và triều đình Mạc Phủ Tokugawa vào ngày 05 tháng 05 năm Hoằng Định thứ 2 [1601] chính là của Thụy Quốc công Nguyễn Phúc Nguyên ở trên, chúng tôi cho rằng Chúa Sãi đã đảm nhiệm chức quan Trấn thủ Quảng Nam vào trước tháng 5 năm Hoằng Định thứ 2 [1601] đó (theo ấn triệntước hiệu có trên bức quốc thư). Như thế, phải chăng Sử thần triều Nguyễn khi biên tập Đại Nam thực lục tiền biên, mục Thái tổ Gia Dụ Hoàng Đế đã soạn chưa chính xác về thời gian trấn nhậm Quảng Nam của Thụy Quốc công khi viết “Nhâm Dần tứ thập ngũ niên…mệnh Hoàng lục tử vi Quảng nam dinh Trấn thủ 壬寅四十五年…命皇六子為廣南營鎮守”22 (Nhâm Dần năm thứ 45 [1602], sai Hoàng tử thứ sáu làm trấn thủ dinh Quảng Nam)…. Cũng có thể suy đoán rằng Tổng trấn Đoan quốc công Nguyễn Hoàng đã giao trọng trách Trấn thủ cho Thụy quốc công Nguyễn Phúc Nguyên từ trước đó, nhưng đến năm 1602 mới hợp thức hóa bằng văn bản, và sau này sử thần triều Nguyễn căn cứ vào văn bản đó để ghi chép!
         Dù như thế nào chăng nữa, bức thư đầu tiên của các chúa Nguyễn gửi Mạc Phủ Đức Xuyên năm 1601 trên chính là bức thư do Thụy quốc công trực tiếp biên soạn, chữ nghĩa trên thư, dấu ấn triện và họa áp đã chứng tỏ tính trung thực của nó.
Tất cả các bức thư trong An Nam quốc thư có cụm từ “Đại đô thống Thụy quốc công” hoặc “Đại đô thống” đều là thư của Sãi vương Nguyễn Phúc Chu. Điều này chứng tỏ rằng phần lớn các bức thư của An Nam quốc thư đều là văn thư trao đổi qua lại giữa triều đình Mạc Phủ Tokugawa với chúa Nguyễn Đàng Trong.
          Học giả Lê Dư khi phân chia thành 3 mục: Văn thư qua lại giữa chúa Nguyễn với Nhật Bản; văn thư qua lại giữa vua Lê với Nhật Bản; văn thư qua lại giữa chúa Trịnh với Nhật Bản có lẽ theo cách cảm nhận chủ quan của ông, bởi tác giả Cận Đằng Trọng Tàng của sách Ngoại phiên thông thư chỉ phân thành 4 tập: từ tập 11 đến tập 14 (phần An Nam quốc thư). Sự phân loại và chú thích của Sở Cuồng tiên sinh có nhiều điểm bất hợp lý, đã từng được TS. Phan Thanh Hải phản ánh trong các bài viết đăng trên tạp chí Nghiên cứu và Phát triển Số 4, 5+6 . 2006 và Tạp chí Nghiên cứu Lịch Sử số 7.2007.
          Như trên đã phân tích, Danh xưng “đại đô thống” chính của Nguyễn Phúc Nguyên. Bởi vậy, hai văn thư đầu tiên ở mục “Lê triều dữ Nhật Bản giao thông văn thư” 黎朝與日本交通之文書(văn thư giao thiệp, thông hiếu giữa triều Lê với Nhật Bản) gồm: “An Nam quốc đại đô thống túc thư đạt vu 安南國大都統肃書達于…” và “An Nam đại đô thống quan thư đạt vu 安南大都統官書達于” và các bức 16, 17, 18, 19 ở phần Trịnh thị dữ Nhật Bản giao thông chi văn thư 鄭氏與日本交通之文書(Văn thư giao thiệp giữa họ Trịnh với Nhật Bản) đều là văn thư của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên.

Hình 7:       Châu ấn trạng Thuyền từ Nhật Bản đến nước Giao Chỉ.
(Khánh Trường,  ngày 11 tháng giêng năm 19-1614)

         4. Kết luận
        Các bức thông thư vào thế kỷ XVII giữa Việt Nam và Nhật Bản là những cứ liệu lịch sử đáng quí thể hiện mối quan hệ bang giao, ngoại thương của cả hai miền đất nước. Từ lâu, tư liệu này đã được đất nước Nhật Bản chú trọng tìm hiểu để nghiên cứu trên nhiều mình diện như ngoại giao, thương mại, lịch sử, xã hội… Tuy nhiên, Hệ thống tư liệu đó ít được người Việt biết đến trong nhiều thế kỷ qua. Đến đầu thế kỷ XX, nhờ có điều kiện tiếp xúc với đất nước Nhật, Sở Cuồng Lê Dư đã “khơi nguồn” cho quá trình tìm hiểu hệ thống văn thư quan trọng này. Mặc dù có một số thiếu sót trong việc đăng tải lại các bức thư, nhưng điều đó không thể phủ nhận tầm quan trọng của học giả Lê Dư đối với lịch sử xã hội của đất nước.
         Với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay, chúng ta có điều kiện để tiếp xúc và hiểu biết thêm nhiều cứ liệu quan trọng, phục vụ cho công cuộc nghiên cứu lịch sử xã hội Việt Nam qua các thời kỳ.
         Bằng những phát hiện và tiếp cận ban đầu về một số văn bản gốc được lưu trữ tại Nhật Bản cũng như các tư liệu liên quan khác về An Nam quốc thư đã kể trên, chúng tôi nghĩ rằng thực sự cần có hơn nữa nhiều công trình nghiên cứu, thu thập tư liệu quan trọng này của ông cha ta để từ đó giải mã và trả lại nguyên vẹn sự thật của lịch sử, cũng như góp phần nghiên cứu sâu hơn về mối quan hệ bang giao, thương mại và lịch sử xã hội những thế kỷ trước./.
ThS. NCS. Võ Vinh Quang*
* Giảng viên Khoa KHXH&NV, Đại học Phan Châu Trinh, Hội An, Quảng Nam

CHÚ THÍCH:
1) Seiichi Iwao (1958), Shuinsen bōekishi no kenkyū (朱印船貿易史の研究- Nghiên cứu về lịch sử mậu dịch thời Châu Ấn thuyền), 弘文堂, Tōkyō : Kōbundō, 昭和 (Shōwa) 33
2) Tác giả của bài viết “Nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn ở Quảng Nam, căn cứ theo Ngoại phiên thông thư”, Đô Thị cổ Hội An (Kỷ yếu hội thảo Quốc tế về Đô thị cổ Hội An 1990), Nxb KHXH, H, 1991
3) Tác giả của cuốn sách Xứ Đàng Trong – Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, Nxb Trẻ, Tp HCM 1999 (bản dịch của Nguyễn Nghị)
4) Gaiban Stusho (Ngoại phiên thông thư): văn thư trao đổi giữa Nhật Bản với 11 nước và hai khu vực, gồm 27 quyển : từ quyển 11 đến 14 nhan đề "An Nam quốc thư" gồm 56 bức thư trao đổi giữa chính quyền Mạc Phủ Tokugawa  徳川幕府 (Tokugawa bakufu) với vua Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn (Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Trăn, Nguyễn Phúc Chu, Trịnh Tùng, Trịnh Tráng...) và các tòng thuộc liên quan đến hoạt động các tàu Châu Ấn (Shuinsen) của Nhật Bản và quan hệ buôn bán Việt-Nhật ở Đàng Trong, Đàng Ngoài
5) Văn thư ngoại giao qua các đời của xứ Lưu Cầu (Ryukyu)
6) An Nam quốc thư được trích dẫn trong sách Cổ sự loại uyển, phần Ngoại giao bộ, tập 16, từ trang 224 đến 249
7) Phần Hán văn, tập 54: trang 200-213 và tập 56: trang 54-59.
8) Ông Lê Dư có một số nhầm lẫn khi “chua” thêm các dòng trước những bức thư, hoặc đọc “Thụy 瑞” thành “Đoan 端” (bức thư thứ nhất)….
9) Phan Khoang (1969), Việt sử xứ Đàng Trong 1558-1777, cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, Nxb Khai Trí, Sài Gòn, Mục 10)Ngoại giao – c) Giao thiệp với Nhật Bản, tr. 525-527
10) Phạm Hoàng Quân, “Học giả Lê Dư và mảng tư liệu lịch sử quan hệ Việt Nam – Nhật Bản thế kỷ XVI-XVII” , Tạp chí NC& PT (sở KH &CN TT Huế), số 3 (56), 2006.
11) Kawamoto Kuniye (1991), “Nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn ở Quảng Nam căn cứ theo Gaiban Stusho (Ngoại phiên thông thư)”, Đô thị cổ Hội An (kỷ yếu Hội thảo Quốc tế về Đô thị cổ Hội An), Nxb KHXH, H, tr.171.
12) Xin xem: Morishige Kondō (1905), Kondō seisai zenshū. 1 (Cận Đằng Chính Trai toàn tập, tập 1), Kokusho Kankōkai, Tokyo, tr.69;  và  Heijō Kondō (Cận Đằng Bình Thành) (1968), Shiseki shūran (Sử tịch tập lãm) tập 21, Rinsen shoten, tr.93. Các tác phẩm khác như Koji ruien (Cổ sự loại uyển) Ngoại giao bộ, tập 16; Tsūkō ichiran (Thông hàng nhất lãm), Shuinsen bōekishi (Châu ấn thuyền mậu dịch sử) cũng đều dẫn liệu y như nhận xét của Cận Đằng Thủ Trọng.
13) Chẳng hạn như các bài nghiên cứu của GS. Kawamoto Kuniye, Sđd ; TS. Li Tana trong công trình Xứ Đàng Trong – Lịch sử Kinh tế Xã Hội Việt Nam thế kỷ 17-18 (bản dịch của Nguyễn Nghị), Phần 3-Các thương gia nước ngoài. Người Nhật Bản, Nxb Trẻ, 1999, tr.87, cùng các nhận định của nhiều nhà nghiên cứu sau này….
14) Li Tana, Xứ Đàng Trong… Sđd, tr.89
15) Viện KHXH Việt Nam (1998), Đại Việt sử ký toàn thư (dịch theo bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 [1697], Nxb KHXH, H, Tập 3,  tr.139
16) Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 1 (Tiền biên, Thực lục về Thái tổ Gia Dụ hoàng đế), Nxb Giáo Dục, H, tr.29
17) Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 1, Sđd, tr.29
18) Bức thư chỉ thị này được Trần Viết Ngạc giới thiệu tại bài viết “Về Một công văn của Tổng trấn Thuận Quảng Nguyễn Hoàng năm 1597” đăng trong Nghiên Cứu Huế , tập 1 năm 1999, tr.306-308
19) GS. Kawamoto Kuniye, “Nhận thức Quốc tế của Chúa Nguyễn ở Quảng Nam…”, Sđd, tr.175-176
20) Đại Nam thực lục tập 1, Sđd, tr.51
21) Đại Việt sử ký toàn thư, tập 3, Sđd, tr.139
22) Đại Nam thực lục, tiền biên, tập 1, Sđd, tr.32
23) Đại Nam thực lục tiền biên 大南寔錄前編, tập 1-2, nguyên tác Thư viện quốc gia Việt Nam, ký hiệu: R.765, tr.56; Bản dịch: Đại Nam thực lục, Sđd, tr.35
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Fukusai Hayashi (1912-1913), Tsūkō ichiran (Thông hàng nhất lãm), Tōkyō, Kokusho Kankōkai
2. Phan Thanh Hải (2006), “Về những văn thư trao đổi giữa chúa Nguyễn và Nhật Bản thế kỷ XVI-XVII”, Tạp chí NC& PT (sở KH &CN TT Huế), số 4(57), tr.92-101
3. Phan Thanh Hải (2006), “Về những văn thư trao đổi giữa triều Lê - chúa Trịnh và Nhật Bản thế kỷ XVI-XVII”, Tạp chí NC& PT (sở KH &CN TT Huế), số 5-6(58-59), tr.164-178
4.  Phan Thanh Hải (2007), “Về những văn thư trao đổi giữa chúa Nguyễn và Nhật Bản (thế kỷ XVI-XVI)”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 7 (375), tr.59-68
5.  Heijō Kondō (1967-68), Shiseki shūran (sử tịch tập lãm), Kyōto-shi, Rinsen Shoten
6.  GS. Kawamoto Kuniye (1991), “Nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn ở Quảng Nam, căn cứ theo Ngoại phiên thông thư”, Đô Thị cổ Hội An (Kỷ yếu hội thảo Quốc tế về Đô thị cổ Hội An 1990), Nxb KHXH, H , tr.169-178
7.  Phan Khoang (1969), Việt sử xứ Đàng Trong 1558-1777, cuộc nam tiến của dân tộc Việt Nam, Nxb Khai Trí, SG
8.  Li Tana (1999),  Xứ Đàng Trong – Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18, Nxb Trẻ, Tp HCM
9.  Morishige Kondō (1905-06), Kondō Seisai zenshū .1 (Cận Đằng Chính Trai toàn tập, tập 1), Tōkyō, Kokusho Kankōkai
10. Motojirō Kawashima (1940), Shuinsen bōekishi (Châu ấn thuyền mậu dịch sử), Ōsaka, Kōjinsha
11. Naoshi Motoda (1914), Nanpo bunshū (Nam Phố văn tập), Tōkyō, Kōdōkan, Taishō 2
12. Trần Viết Ngạc (1999), “Về Một công văn của Tổng trấn Thuận Quảng Nguyễn Hoàng năm 1597” , Nghiên Cứu Huế tập 1, tr.306-308
13.            Jingū Shichō (1931-1933), Koji ruien (Cổ sự loại uyển), Tōkyō,  Koji Ruien Kankōkai,
14. Phạm Hoàng Quân (2006), “Học giả Lê Dư và mảng tư liệu lịch sử quan hệ Việt Nam – Nhật Bản thế kỷ XVI-XVII” , Tạp chí NC& PT (sở KH &CN TT Huế), số 3 (56). Tr.116-123
15. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb Giáo Dục, H
16. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tiền biên 大南寔錄前編, tập 1-2, nguyên tác chữ Hán tại Thư viện quốc gia Việt Nam, ký hiệu: R.765

17. Shinji Kojima (2000), Rekidai hoan (Lịch đại bảo án), Naha Okinawakenkyōikuiinkai.

18. Shigemitsu Iwamura (1941), Annantsūshi (An Nam thông sử), Tōkyō : Fuzanbō.

19. Seiichi Iwao (1958), Shuinsen bōekishi no kenkyū (Nghiên cứu về lịch sử mậu dịch thời Châu Ấn thuyền), Tōkyō : Kōbundō

20. Nguyễn Bá Trác, Nam Phong tạp chí, Phần Hán văn, tập 54: trang 200-213 và tập 56: trang 54-59.
21. Viện KHXH Việt Nam (1998), Đại Việt sử ký toàn thư (bộ 3 tập) (Ngô Đức Thọ dịch theo bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 [1697], Nxb KHXH, H 

Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2013

NGUYỄN HOÀNG VỚI VÙNG ĐẤT QUẢNG TRỊ: MẤY VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY

Người thành cổ Quảng trị

Trước đây sử sách triều Nguyễn rất mực đề cao vai trò chúa Nguyễn Hoàng, nhưng từ sau năm 1945, việc đánh giá về nhân vật lịch sử này chưa thống nhất trong giới Sử học: giữa công và tội, giữa chia cắt và phát triển đất nước, giữa hận thù và ơn nghĩa với chúa Trịnh- vua Lê… Ngay cả việc Nguyễn Hoàng chọn Quảng Trị làm đất dựng nghiệp và ông đã gắn bó, thuỷ chung với vùng đất này hơn 55 năm cho đến lúc ông qua đời tại đây, trong khi điều kiện có thể làm cho ông di chuyển thủ phủ theo hướng “Nam tiến” cũng là vấn đề đáng bàn. Đó là một loạt câu hỏi không những làm cho lãnh đạo và nhân dân Quảng Trị băn khoăn cần sớm tìm lời giải đáp mà còn là vấn đề quan tâm của xã hội.
Với mong muốn nhân vật Nguyễn Hoàng được sớm nhìn nhận đúng đắn, đánh giá khách quan để Tỉnh có kế hoạch tôn tạo và phát huy di sản thời Nguyễn Hoàng nên UBND tỉnh Quảng Trị đã phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học Quảng Trị - đất dựng nghiệp của chúa Nguyễn Hoàng (1558-1613).
          Nhận thức được tầm quan trọng về vấn đề này cả ý nghĩa khoa học lẫn thực tiễn, nên tham dự hội thảo có nhiều đồng chí lãnh đạo của tỉnh Quảng Trị, huyện Triệu Phong, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Sử học, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch cùng nhiều đại biểu cơ quan Trung ương, nhiều tỉnh có gắn với thời kỳ Nguyễn Hoàng trấn nhậm vùng đất Thuận Quảng. Đặc biệt là sự có mặt của nhiều nhà nghiên cứu về Nguyễn Hoàng, đại diện cho giới Sử học trên cả nước: Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Sử học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Huế, Hội Khoa học Lịch sử Thừa Thiên Huế; cùng các nhà nghiên cứu ở Quảng Trị, Thanh Hoá, Đà Nẵng, Quảng Nam, Bà Rịa- Vũng Tàu… Nước ngoài có một tác giả Nhật Bản.
          Xin nhiệt liệt chào mừng quý vị đại biểu, các nhà khoa học bấy lâu đã quan tâm và hôm nay đến tham dự hội thảo với chúng ta.
          Kính thưa quý vị đại biểu!
          Kính thưa toàn thể hội nghị!
          Năm 2008, Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá và Hội Khoa học Việt Nam phối hợp tổ chức hội thảo khoa học về Chúa Nguyễn và vương triếu Nguyễn trong lịch sử Việt Nam có 94 báo cáo của các nhà khoa học trong nước và quốc tế và vào tháng 5 vừa qua, Trung tâm Nghiên cứu Châu Á thuộc Đại học Harvard (Hoa Kỳ) cũng tổ chức hội thảo quốc tế với chủ đề trên, có 20 nhà khoa học của nhiều nước đến tham dự. Riêng chủ đề về Nguyễn Hoàng thì đây là hội thảo đầu tiên được tổ chức tại Quảng Trị.
          Do chủ đề và yêu cầu hội thảo đã được xác định, nên trong số 43 báo cáo khoa học gửi đến tham gia hội thảo, chúng tôi tuyển chọn được 33 bài là những kết quả nghiên cứu mới, công bố đầu tiên để in vào tập Kỷ yếu. Các báo cáo này, chúng tôi sắp xếp theo 3 nội dung:
  1. Quê hương, gia thế và sự nghiệp của chúa Nguyễn Hoàng
  2. Nguyễn Hoàng với vùng đất Quảng Trị
  3. Tư liệu, di tích và di sản về thời Nguyễn Hoàng 
  1. Về quê hương, gia thế và sự nghiệp của chúa Nguyễn Hoàng
Tham gia nội dung này có 12 tác giả, với kết quả nghiên cứu như sau:
          Về tên gọi Gia Miêu Ngoại trang tuy sử sách không ghi xuất hiện từ lúc nào, nhưng khi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Công Duẩn, viễn tổ của chúa Nguyễn Hoàng là hào trưởng lớn ở Gia Miêu Ngoại trang, huyện Tống Giang, lộ Thanh Hoá. Do vậy, tác giả Phạm Tấn cho rằng cái tên "Gia Miêu Ngoại trang" chắc chắn là có từ thời cuối Trần và tên đó vẫn không hề thay đổi cho đến tận bây giờ.
          TS. Lê Ngọc Tạo, cho rằng: Dòng họ Nguyễn Gia Miêu ngoại trang huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, Thanh Hóa là một danh gia vọng tộc được bắt đầu từ Định Quốc công Nguyễn Bặc có công phò nhà Đinh, có Nguyễn Công Duẩn là công thần khai quốc trong khởi nghĩa Lam Sơn; có Nguyễn Kim người khởi xướng công cuộc trung hưng nhà Lê.
          Về miếu Triệu Tường, năm 1803, vua Gia Long đổi thành Quý hương, Quý huyện và vua cho xây Nguyên Miếu tức miếu Triệu Tường ở Gia Miêu Ngoại trang tại vùng núi Thiên Tôn, thuộc trấn Thanh Hóa để thờ Nguyễn Kim và Nguyễn Hoàng. Minh Mạng thứ 2 (1821), núi Thiên Tôn được phong tên là núi Triệu Tường. Năm 2007, Bộ trưởng Văn hoá - Thông tin đã ra Quyết định công nhận Khu Lăng miếu Triệu Tường là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia.
          Về tên gọi chúa Tiên, tác giả Lê Quang Thái mất công tra cứu nhiều nguồn tài liệu và có lưu ý đến bài viết Phổ hệ nhà Nguyễn trước thời Gia Long của Tôn Thất Hân đăng trên Tập san B.A.V.H năm 1920, cho rằng: Nguyễn Hoàng tự xưng là Tiên Chúa, vì “Chúa giống như tiên”. Ý kiến này có chính xác không, theo tôi cũng cần nghiên cứu thêm, nhưng tác giả cho rằng, trong sách Nam Triều công nghiệp diễn chí in năm 1719. Thuật ngữ “Chúa Tiên” được tìm thấy và đã được nhắc đến 5 lần. Ngoài ra sách còn dùng các thuật ngữ khác như Đoan Vương, Nam Chúa để gọi Nguyễn Hoàng.
          Đánh giá về sự nghiệp của chúa Nguyễn Hoàng có các ý kiến sau:
          PGS.TS Nguyễn Minh Tường có nhận xét rằng: “ Mặc dù, xuất thân con nhà võ tướng, nhưng ông thuộc hàng Nho tướng, tức vị tướng có tài chính trị và có đạo đức lớn”,  và tác gỉa đánh giá: “Xét theo quy phạm tài năng và đạo đức của Nho giáo thì Nguyễn Hoàng có đủ cả 3 phẩm chất: Nhân 仁, Trí 智, Dũng 勇 của một nhà chính trị lớn. Chính vì thế, theo tôi, ông đã hoàn thành rất xuất sắc nhiệm vụ mà lịch sử giao phó: Vị Chúa Tiên – vị Chúa mở đầu tạo lập nên vùng đất xứ Đàng Trong, vùng đất phía Nam của quốc gia Đại Việt thời bấy giờ ”.
GS.TS Nguyễn Quang Ngọc cũng đề cao vi trò Nguyễn Hoàng: “Đóng góp lớn nhất của Chúa Tiên, theo quan niệm của chúng tôi, là trong bối cảnh khốn khó và bế tắc của chính quyền Lê - Trịnh, đã thực thi một chính sách tương đối độc lập, khai phóng và thân dân, huy động mọi nguồn lực biến Thuận Quảng từ vùng đất đói nghèo và hỗn loạn trở nên trù phú, năng động và an cư lạc nghiệp, làm cơ sở cho việc triển khai chặng đường nước rút của công cuộc mở cõi và định cõi của dân tộc Việt Nam ”. Và rất xác đáng khi tác giả so sánh:  “Chúa Sãi thực sự là một vị chúa Nguyễn kiệt xuất nhất, một anh hùng mở cõi Việt Nam, nhưng sự nghiệp kỳ vĩ của ông dường như tất cả đều đã được chuẩn bị và sắp đặt bởi Chúa Tiên và bắt đầu từ thời Chúa Tiên”.
           PGS.TS Đỗ Bang cho rằng: “Nguyễn Hoàng người có tầm nhìn vượt thời đại của ông và không gian ông đang sống để đặt nền móng cho Đàng Trong và tạo mối quan hệ thông thương với Nhật Bản”.
 PGS.TS Trần Thị Mai cũng có nhận xét tương tự: “Từ tầm nhìn phi thường của chúa Tiên Nguyễn Hoàng, người Việt đã tiến những bước dài, vững chắc trên dải đất Đàng Trong, tạo ra thế và lực mới cho công cuộc mở đất của các chúa Nguyễn về phương Nam tiếp sau đó”.
           Làm chính trị sắc bén là phải biết nhạy cảm trước thời cuộc và vượt lên những người khác bằng tầm nhìn của mình, PGS.TS Ngô Minh Oanh cũng thừa nhận: “Có được những thành quả đó không thể không nhắc đến một tầm nhìn sáng suốt, sự kiên định với mục đích đã chọn và phương sách tự cường khôn khéo của Nguyễn Hoàng cũng như những đóng góp có tính khai mở của vùng đất Quảng Trị”.
 Nhà báo Nguyễn Hoàn của quê hương Quảng Trị đã chú ý đến đặc điểm nhân văn của chúa Nguyễn Hoàng, cũng là một lợi thế của nhà chính trị: “Nhờ biết giữ mình, lánh họa, vượt qua hiểm họa, chuyển họa thành phúc, Nguyễn Hoàng đã đặt nền móng quan trọng cho công cuộc phát triển Đàng Trong, mở cõi của các chúa Nguyễn, bắt đầu bằng việc đặt phủ Phú Yên năm 1611. Từ năm 1611 dưới thời chúa Nguyễn Hoàng đến năm 1757 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, trong vòng 146 năm, đất nước đã được mở rộng từ Phú Yên đến Cà Mau.
Sau sự kiện Phú Yên năm 1611, TS. Đỗ Quỳnh Nga cũng có nhận định: “ Từ sự kiện này, chúa Nguyễn Hoàng không chỉ là một quan chức của vua Lê giao trấn nhậm vùng Thuận Quảng mà là một động thái tự thân “ bùng nổ” sau 53 năm (1558-1611) nung nấu về một hoài bảo tự cường, nhất là sau khi được vua Lê trao thêm quyền cai quản vùng đất Quảng (1570). Phú Yên được xem là một khởi động táo bạo, hợp lý đầy tiềm năng trong bước khởi đầu thành lập Đàng Trong”.
Nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh nhìn Nguyễn Hoàng như soi vào một tấm gương sáng: “ 400 năm trôi qua kể từ ngày Tiên chúa từ trần. Người đời sau soi lại gương ngài vẫn không thấy có tỳ vết, vẫn sáng ngời phẩm chất vị chân chúa khai sáng cả một vương triều, người đặt nền tảng vững chắc cho cơ nghiệp họ Nguyễn ở Đàng Trong, là một danh nhân tầm khu vực Đông Nam Á, xứng đáng vào hàng ngũ minh vương mở mang đất nước, chăm lo cho quân dân, mãi mãi là vì sao tỏa sáng trên vòm trời nước Việt”.
  1. Nguyễn Hoàng với vùng đất Quảng Trị
Đây là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
           Trong nhiều lý do để Nguyễn Hoàng chọn Ái Tử làm thủ phủ, nhà nghiên cứu Phan Thuận An cho rằng : “Trong giai đoạn chân ướt chân ráo ấy, chắc hẳn ông cho rằng đây là chỗ cắm chốt an toàn nhất, vì nó không va chạm quyền lợi với bất cứ thế lực nào kể cả thế lực “chính phủ” và “phi chính phủ”. Theo tác giả,  nếu gọi Ái Tử bấy giờ là Thủ phủ thì có lẽ không chính xác, vì quy mô xây dựng ở đây chỉ là một quân dinh hoặc dinh trại”.
 Tác giả Mai Khắc Ững cũng có nhận xét tương tự: “Bởi chung quanh Trấn phủ mới khai sinh đang ở dạng doanh trại, tay chân anh rể đã bài binh bố trận đâu ra đó rồi”.
Bí quyết của việc chọn Ái Tử làm đất đứng chân, theo tác giả Nguyễn Xuân Hoa: “ thực chất việc chọn Ái Tử để lập dinh trấn là Nguyễn Hoàng đã chọn một vùng đất mới để làm đất khởi nghiệp, âm thầm xây dựng thực lực, thu phục nhân tâm để chuẩn bị cho một chiến lược lâu dài khi có thời cơ”.
           GS.TS. Nguyễn Quang Ngọc đã phân tích rất xác đáng về sự lựa chọn của Nguyễn Hoàng qua sự kiện năm 1558: “Thuận Hóa thực sự là đất “dụng võ” của Nguyễn Hoàng. Việc Nguyễn Hoàng chọn Thuận Hóa hoàn toàn không phải là sự lựa chọn cho riêng cá nhân, hay một mưu đồ cá nhân, mà có sự tham vấn của bậc trí thức hàng đầu đất nước Nguyễn Bỉnh Khiêm, được sự chấp thuận và ủy thác của cả chúa Trịnh và vua Lê, trong sự ủng hộ của nhiều quan chức cao cấp ở cả Nam triều và Bắc triều và nhất là được sự hưởng ứng của đông đảo dân chúng hai vùng Thuận Hóa và Thanh Nghệ. Đây rõ ràng là một sự lựa chọn công khai, chuẩn xác vì sự phát triển của vương triều Lê - Trịnh và của đất nước, trong bối cảnh vô cùng rối ren và bế tắc ở giữa thế kỷ XVI”.
          Điều băn khoăn của nhiều người trong đó có TS. Phan Thanh Hải cho rằng: “Trên vùng đất mới, Nguyễn Hoàng không đóng lỵ sở tại các trung tâm cũ của Hóa châu như thành Thuận châu hay thành Hóa châu mà ông lại xây dựng trấn dinh ngay trên bãi cát trắng ở ngã ba sông Thạch Hãn-Ái Tử. Từ đó cho đến khi ông qua đời, trung tâm quyền lực của đất Thuận Hóa, rồi cả Đàng Trong chỉ di chuyển loanh quanh tại khu vực này.
          Qua nghiên cứu, tác giả Phan Thanh Hải đã tìm được cho mình lời giải của bài toán khó. Đó là vị trí chiến lược của vùng đất Quảng Trị vào giữa thế kỷ XVI: “Chỉ đóng lỵ sở tại đây, Nguyễn Hoàng mới khống chế được cả tuyến đường thủy bộ Bắc-Nam cả hành lang giao thông và giao lưu kinh tế Đông-Tây (từ cửa khẩu Lao Bảo và các “nguồn” ở phía tây về Cửa Việt). Đây là trung tâm cung cấp hồ tiêu và nhiều loại hương liệu quý cho thị trường nhiều nước trên thế giới”.
Tuy nhiên, khi thế lực của Nguyễn Hoàng đã lớn mạnh vấn đề mâu thuẫn Trịnh - Nguyễn lại càng tăng và cả hai phía đều thấy nguy cơ tranh chấp là không tránh khỏi. Về vấn đề này, tác giả Nguyễn Xuân Hoa phân tích rằng: “Sự có mặt của Nguyễn Hoàng lúc nầy trở thành một trở ngại cho quyền lực của cha con họ Trịnh. Có lẽ vì thế, đầu năm Canh Ngọ (1570) chính Trịnh Kiểm đã dâng biểu xin vua Lê cho gọi Tổng binh Quảng Nam là Nguyên quận công Nguyễn Bá Quýnh về (trấn thủ Nghệ An) và giao Nguyễn Hoàng kiêm quản cả hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam, tạo cớ để Nguyễn Hoàng phải rời khỏi Thanh Hoa,  nhằm củng cố quyền lực độc tôn của dòng họ Trịnh bên cạnh vua Lê”.
 Trong vòng xoáy của quyền lực và mâu thuẫn dòng họ,  TS. Phan Thanh Hải cho rằng: “Thực chất, cuộc ra đi của ông là sự đào thoát khỏi triều đình, nơi đang xãy ra cuộc cạnh tranh khốc liệt về quyền lực giữa hai dòng họ có công trung hưng lại triều Lê: họ Nguyễn và họ Trịnh. Nguyễn Hoàng, người kế thừa của dòng họ Nguyễn phải tìm một phương trời mới để dung thân và tạo lập cơ nghiệp. Trong bối cảnh đó, Thuận Hóa là cơ hội và cũng là nơi thử thách ý chí và tài năng của Nguyễn Hoàng”.
Tác giả Nguyễn Phước Tương cũng tán thành tư tưởng cát cứ của Nguyễn Hoàng nhưng ở vào thời điểm muộn hơn: “Đến lúc này, Hữu Tướng Nguyễn Hoàng nhận thấy rõ âm mưu thâm độc của họ Trịnh và mình khó tiếp tục trở thành một bậc trung thần của vua Lê nên thấy không còn lý do gì nữa để lưu lại ở Thăng Long. Nhưng để rời khỏi Kinh đô đối với ông không phải là một điều đơn giản bởi vì Trịnh Tùng luôn luôn tìm mọi cách ngăn cản ông quay về Thuận Quảng vì sợ “thả hồ về rừng”.
            Các tác giả Lê Ngọc Tạo, Vũ Thị Xuyến cũng đều nhận định: “ Nếu như sự kiện Nguyễn Hoàng được kiêm trấn thủ Quảng Nam là mốc mở đầu cho ý đồ xây dựng một thể chế cát cứ trên vùng đất phương Nam, thì lần ra Bắc cuối cùng 1593 – 1600 càng khẳng định quyết tâm xây dựng một vương quốc riêng biệt của Nguyễn Hoàng”.             
          PGS.TS. Đỗ Bang cho rằng, Quảng Trị vừa là đất thách thức nhưng cũng là vùng đất tạo thời cơ cho những bậc anh hùng trong đó có Nguyễn Hoàng, người đã dựng nên nghiệp lớn: “Thuận Hoá trong buổi đầu quả là một thử thách sống còn về năng lực cải đổi “ thiên thời, địa lợi, nhân hoà” mà Nguyễn Hoàng bằng mọi giá phải vượt qua”.
           “Hơn 55 năm dựng nghiệp chúa, Nguyễn Hoàng nhiều lần ra bắc hầu vua Lê, gặp chúa Trịnh chung lo việc trị nước an dân. Nguyễn Hoàng cũng đi vào miền núi Ngự sông Hương, qua đèo Hải Vân vào miền đất Quảng khảo sát hình thế núi sông, xếp đặt lại địa giới hành chính, nhưng ông vẫn chọn Quảng Trị để đóng đô và đã cân nhắc qua 3 lần dịch chuyển”.
            TS. Thái Quang Trung cũng nhận xét: “Từ Thuận Hóa, bản đồ nước ta dần dần hình thành như ngày hôm nay. Có thể nói, đến giữa thế kỉ XVIII, công cuộc mở đất phía Nam của dân tộc đã hoàn thành. Trong sự nghiệp to lớn đó không thể không kể đến vai trò của vùng đất dựng nghiệp Ái Tử”.     
          PGS.TS Nguyễn Minh Tường rất đề cao phẩm chất chính trị của Nguyễn Hoàng: “Có thể nói với tài năng chính trị lớn, với tính năng động và mềm dẻo của mình, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã được lịch sử lựa chọn làm người đặt cơ sở vững chắc cho sự hình thành và phát triển của xứ Đàng Trong”.
          Về động cơ Nguyễn Hoàng vào Thuận Hoá là do trốn chạy, mưu đồ cát cứ hay là một sứ mệnh cao cả, vấn đề này lại có nhiều ý kiến khác nhau.  PGS.TS Ngô Minh Oanh cho rằng: “Cũng không phải không có ý kiến cho rằng, sức ép từ “ nguy cơ họ Trịnh ” không phải là nguyên nhân chủ yếu của quyết định “nam tiến” của Nguyễn Hoàng, mà hành động đó là một sự thể hiện “mưu đồ vương bá” trước hết là của cá nhân và sau đó là của một dòng họ”. Trong khi đó, GS.TS Nguyễn Quang Ngọc đã có một  phân tích khá mới mẽ: “ Chúng tôi đã kiểm tra lại các nguồn tư liệu và nhận thấy sự kiện năm 1558, Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa, không phải là một cuộc trốn chạy, cũng không phải là một âm mưu xây dựng cơ sở cát cứ chống lại triều đình Lê Trịnh, mà là thực hiện một sứ mệnh cao cả của triều đình giao phó và trong thực tế Nguyễn Hoàng đã hoàn thành một cách trọn vẹn trọng trách với triều đình. Đây cũng là giai đoạn Nguyễn Hoàng mở rộng thêm tầm nhìn, cách nghĩ, không loại trừ có những toan tính cá nhân, nhưng những toan tính cá nhân đó không phương hại đến sự phát triển chung của đất nước. Hơn thế, việc ông trở lại triều đình và có đến gần chục năm tận tâm, tận lực phục vụ bên cạnh vua Lê, chúa Trịnh, không chỉ thể hiện lòng trung thành, mà còn là sự kỳ vọng vào khả năng thay đổi của chính quyền Lê - Trịnh trong điều kiện đất nước đang đứng trước muôn vàn thách thức và vận hội. Chỉ đến khi nhận thấy chính quyền Lê - Trịnh hoàn toàn không thể đại diện cho sự tiến bộ, mà trái lại đang kìm hãm gay gắt sự phát triển của xã hội, Chúa Tiên mới quyết định trở về Thuận Hóa xây dựng chính quyền riêng, tự mình gánh vác trọng trách xây dựng và phát triển đất nước”.
Công lao tạo lập và phát triển vùng đất Thuận Hoá của chúa Nguyễn Hoàng được nhân dân ở đây suy tôn làm Thần hoàng đã được Hoà thượng Thích Trí Hải xác nhận: “chúa Nguyễn Hoàng được xem là vị tổng khai canh, đại khai khẩn của hầu hết các làng quê ở đất Thuận Hoá, mà cho đến nay một số lớn các làng quê ở Quảng Trị và Thừa Thiên Huế đều tôn thờ chúa Nguyễn Hoàng cùng các tuỳ tướng của ngài như những vị Thần hoàng, khai canh hoặc khai khẩn”
Phật giáo Thuận Hoá dưới thời chúa Nguyễn Hoàng cũng được nhiều tác giả đề cập. Hoà thượng Thích Trí Hải đã phân tích: “ Ở đây tuyệt nhiên vắng bóng những lý thuyết về vương đạo của Nho gia, những quy chuẩn khắt khe của cung đình. Với một cơ cấu xã hội như vậy, dĩ nhiên đời sống văn hoá, tín ngưỡng của cư dân Thuận Hoá chắc chắn không phải là đạo tu tề trị bình của Nho giáo hay thuật trường sinh của Lão Trang, mà chính Phật giáo với đạo lý từ bi, cứu khổ, vô ngã, vị tha mới là tín ngưỡng căn bản của họ”.    
 TS. Nguyễn Văn Đăng cũng phân tích cơ sở xã hội để Phật giáo Thuận Hoá vào thời Nguyễn Hoàng thịnh hành: “thiếu vắng một ý thức hệ làm nền tảng. Vì vậy, trong buổi đầu, Nguyễn Hoàng và Nguyễn Phúc Nguyên cần phải đưa ra các chính sách an dân hợp lý để củng cố và ổn định lòng dân, tạo cơ sở cho việc xây dựng một chính thể mới.
Do vậy, Phật giáo thời điểm này trở thành chỗ dựa tinh thần nhằm để ổn định xã hội. Chúa Tiên và cả những vị chúa sau này tỏ ra là rất sùng đạo Phật là vì thế. Chúa Tiên cho dựng chùa Thiên Mụ năm 1601, sửa lại chùa cổ Sùng Hóa (Lại Ân - Phú Vang), dựng lại chùa Long Hưng năm 1602, cho tiếp tục dựng chùa Bảo Châu ở Trà Kiệu (Quảng Nam) năm 1607, xây dựng chùa Kính Thiên ở Lệ Thủy (Quảng Bình) năm 1609 Phật giáo được xiển dương, đi vào chốn cung đình, được tô đắp dần và trở thành chất men gắn kết các yếu tố tư tưởng khác trong phương sách an dân của chúa”.
 PGS.TS Trần Thị Mai cũng đã phân tích: “ trong chính sách quản lý của Nguyễn Hoàng và các đời chúa Nguyễn kế nhiệm trên vùng đất mới đó là “cư Nho, mộ Thích” là phương cách hiệu quả để củng cố quyền lực lâu dài trên vùng đất mới. Đây là tư tưởng cai trị phù hợp và cởi mở hơn hẳn so với tư tưởng cai trị dựa hẳn vào Nho giáo của chính quyền Lê – Trịnh đương thời”.
 Đồng tình với quan điểm là các chúa Nguyễn không độc tôn về tôn giáo, Nhà nghiên cứu các tôn giáo phương Đông ONISHI của Nhật Bản sau khi khảo sát chùa Thiên Tôn ở làng Đâu Kênh, huyện Triệu Phong đã có một nhận xét khá thú vị, là các chúa Nguyễn ngoài sùng mộ Phật giáo còn chủ trương phát huy Đạo giáo. Tác giả cho rằng: “Đồng thời chúng tôi có thể khẳng định được là ngôi chùa này thờ Ngọc Hoàng thượng đế là một vị thần cao quý nhất của Đạo giáo Việt Nam cững lâu dài”.
Thông qua kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả có thể cho chúng ta thấy rõ chính sách tôn giáo của chúa Nguyễn là đề cao Phật giáo, nhưng bên cạnh đó Đạo giáo và Nho giáo vẫn được khuyến khích nên vẫn tồn tại trong đời sống tâm linh và các quan hệ xã hội đối với người dân Thuận Quảng.
  1. Tư liệu, di tích và di sản về thời Nguyễn Hoàng    
          Về chủ đề tư liệu, di tích và di sản về thời Nguyễn Hoàng cũng được          nhiều tác giả quan tâm tìm hiểu và đề xuất xác đáng.
          Có thể nói rằng qua hội thảo này, các tài liệu về Nguyễn Hoàng ở trong và ngoài nước, các di tích, di vật có liên quan đã được các tác giả khảo sát, sưu tầm, nghiên cứu, giám định công phu trong đó có đủ các văn bản của chúa Nguyễn Hoàng gửi cho Mạc phủ Nhật Bản, được xem là văn kiện ngoại giao mở đầu cho quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản đã được tác giả Võ Vinh Quang sưu tầm, nghiên cứu và đưa ra nhiều kiến giải mới. Tác giả viết: “Chúng tôi đã may mắn phát hiện ra được một số văn bản gốc của các bức quốc thư với hoa văn, chất liệu giấy đặc trưng và dấu triện son rõ nét. Đây chính là những tư liệu chính xác nhất làm căn cứ để bổ khuyết, hiệu chỉnh lại một số nhầm lẫn về tác giả của các bức thư được nói đến”[1].
Thông qua nghiên cứu các văn bản này, tác giả Võ Vinh Quang cho rằng: “từ năm 1570, khi nhận lãnh chức Tổng trấn Thuận Quảng đến lúc qua đời (1613), chúa Tiên Nguyễn Hoàng vẫn dùng ấn triện Tổng trấn tướng quân chi ấn”.  Và Chúa Sãi - Nguyễn Phúc Nguyên đã đảm nhiệm chức quan Trấn thủ Quảng Nam vào trước tháng 5 năm Hoằng Định thứ 2 [1601], nhưng đến năm 1602 mới hợp thức hóa bằng văn bản, và sau này sử thần triều Nguyễn căn cứ vào văn bản đó để ghi chép…
Sau  nhiều lần khảo sát, chiêm nghiệm pho tượng Thái phó Nguyễn Ư Dĩ, tác giả Hồ Vĩnh cho rằng: Tượng ngài Nguyễn Ư Dĩ là một pho tượng tạo hình có nét điêu khắc đặc biệt liền khối nên không có tiêu chí đối sánh. Nhìn vào thực tế, đây là pho tượng đẹp, quý về chất liệu, có giá trị cao về mặt nghệ thuật và lịch sử.
TS. Nguyễn Bình cũng đánh giá cao về pho tượng đồng có một không hai này và đề xuất giải pháp bảo quản: “Đối với bức tượng đồng của ngài Thái phó Nguyễn Ư Dĩ, đây là di sản có giá trị tiêu biểu về mặt lịch sử, mỹ thuật, văn hoá còn lại đến hôm nay, (đã được đưa vào danh mục trình Bộ VH,TT & DL công nhận Bảo vật Quốc gia) nên cần có giải pháp bảo quản, bảo vệ và phát huy giá trị di sản chu đáo. Trước mắt cần thiết xây dựng lại ngôi miếu thờ (nơi đặt bức tượng đồng) cho khang trang, tương xứng”.
Nhà cổ tiền học Nguyễn Anh Huy sau khi trưng dẫn các đồng tiền thời chúa Nguyễn đã hết sức lưu ý đến hiệu tiền “Thái Bình”, ý tưởng này có thể xuất phát từ thời Nguyễn Hoàng với bình luận như sau: Sự nghiệp vào Nam “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” của Thái tổ Nguyễn Hoàng là để thoát khỏi sự bức hại của họ Trịnh, tạo tự do (“thái bình”) cho mình.Vì thế, hai chữ “太平 (Thái Bình)” trên hệ thống tiền mà các chúa theo lệ phải đúc…
Một công trình nghiên cứu công phu về các dấu tích thời chúa Nguyễn ở lưu vực sông Thạch Hãn của Yến Thọ cho chúng ta nhiều niềm tin nhưng cũng nhiều tín hiệu đáng buồn. Tác giả cho rằng, phần lớn các di tích có liên quan đến thời chúa Nguyễn Hoàng nếu không bị chôn vùi dưới lòng sông thì cũng đã biến mất như: địa danh Ghềnh phủ - vốn là một bến thuyền, cảng thị mà các thuyền buôn tấp nập lui tới buôn bán với Dinh Chúa, làm cho Dinh chúa “trở thành nơi đô hội” chỉ còn thấy dấu vết bãi gốm sứ vỡ ken dày do sự xói lỡ của bờ sông mang lại. Phủ thờ 7 vị tiên vương (gồm: Tiên Vương, Công Thượng Vương, Hiền Vương, Nghĩa Vương, Minh Vương, Ninh Vương, Võ Vương) vốn là công trình dinh thự thuộc Dinh Cát được sử dụng lại sau khi thủ phủ nhà chúa chuyển từ Quảng Trị vào Thừa Thiên (1626) mà đến thời kỳ đầu Gia Long “dấu tích hãy còn” thì sau đó một thời gian đã bị xâm thực.
Bãi Cồn Cờ, một địa danh nổi tiếng thời chúa Nguyễn Hoàng nay đã biến mất. Cồn Cờ hiện tại theo dân địa phương thì là khu vực trũng thấp sát mép sông. Ngôi miếu Trảo Trảo thờ vị thần sông Trảo Trảo có công giúp cho chúa Nguyễn Hoàng dùng “mỹ nhân kế” để chiến thắng quân Mạc Lập Bạo vào năm 1572 nằm cạnh sông nay cũng đã xoá hết dấu tích.
Để bảo tồn, tôn tạo và phát huy khu di sản lịch sử thời chúa Nguyễn Hoàng, TS. Nguyễn Bình, Chủ tịch UBND huyện Triệu Phong  Hồ Viết Hy và PGS.TS Đỗ Bang đều thống nhất phương pháp và quan điểm về nghiên cứu và tôn tạo khu di tích chúa Nguyễn tại Triệu Phong là cần có chương trình nghiên cứu lịch sử, điều tra khai quật khảo cổ học toàn diện, công phu để tiến hành khoanh vùng bảo vệ. Các ý kiến này đều cho rằng cần xây dựng Nhà lưu niệm và tượng đài chúa Nguyễn Hoàng trên đất Triệu Phong mà Quảng Trị là nơi khởi đầu cho tiến trình lịch sử “ Người mang gươm đi mở cõi” là xác đáng.  Cần quy hoạch các làng Tả Kiên, Hữu Kiên, Trung Kiên, Tiền Kiên, Hậu Kiên nằm trong quần thể di tích của chúa Nguyễn vì các làng này đều đã thống nhất lấy chúa Tiên Nguyễn Hoàng làm vị tiền khai canh của làng mình.
Các tác giả Nguyễn Bình, Lê Tân mong muốn huyện Triệu Phong sẽ có kế hoạch đầu tư để hình thành lễ hội về chủ đề chúa Nguyễn Hoàng tầm cỡ quốc gia và mang đặc trưng của vùng đất Thuận Hoá trong thời kỳ khai mở. Từ đó, địa danh Ái Tử- 1558 sẽ được khôi phục thông qua các hoạt động văn hoá sẽ trở thành điểm đến du lịch trên tuyến về vùng đất di sản ở miền Trung.
  TS. Phan Tiến Dũng, Giám đốc Sở văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế cho rằng: “Kết nối việc nghiên cứu bảo tồn và phát huy hệ thống di tích thời chúa Nguyễn ở Quảng Trị với hệ thống di tích thời chúa Nguyễn và vua Nguyễn ở Thừa Thiên Huế để thu hút du khách và các nhà nghiên cứu quan tâm đến với một địa bàn có nhiều sự kiện và nhiều giá trị văn hóa”.
  1. Một số vấn đề đã được sáng tỏ
- Về tên gọi Thái phó là cậu của chúa Nguyễn Hoàng, lâu nay sử sách do phiên âm chữ Hán có dạng chữ gần nhau, nên không phân biệt là Ư Dĩ, Ư Kỷ, Ư Tỵ,  nay PGS. TS Nguyễn Minh Tường đã nghiên cứu công phu và đề nghị từ nay nên thống nhất gọi là Ư Dĩ.
- Nguyễn Hoàng là người nắm được thời cơ để phát triển kinh tế hàng hoá vùng Thuận Quảng và việc Nguyễn Hoàng gửi nhiều thư cho chính quyền Nhật Bản và đã được đáp ứng, chứng tỏ Nguyễn Hoàng là người đầu tiên thực hiện chính sách mở cửa và cánh cửa được mở đầu tiên để đất nước phát triển là tại Quảng Trị.
- Nhiều ý kiến cho rằng sự hình thành tư tưởng cát cứ của Nguyễn Hoàng chỉ bắt đầu từ năm 1570 và bộc lộ rỏ nhất là sau năm 1600.
5. Một số vấn đề còn tồn nghi
- Việc Nguyễn Hoàng vào Thuận Hoá vào năm 1558 là do có lời khuyên của Nguyễn Bỉnh Khiêm “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” được nhiều tác giả thống nhất, nhưng người được giao nhiệm vụ gặp Nguyễn Bỉnh Khiêm thì chưa rõ: Nguyễn Ư Dĩ, mẹ của Nguyễn Hoàng hay một sứ giả khác ?
-  Hầu hết các ý kiến cho rằng việc Nguyễn Hoàng vào Thuận Hoá vào năm 1558 là do tình thế bức bách qua lời khuyên của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhưng cũng có ý kiến cho là việc Nguyễn Hoàng được cử vào làm trấn thủ Thuận Hóa không phải vì lý do như sử thần nhà Nguyễn nêu ra mà chính bởi vị trí cực kỳ trọng yếu của miền đất này đối với sự nghiệp trung hưng của nhà Lê và do vậy là không có mâu thẫu giữa hai hị Trịnh- Nguyễn (Nguyễn Đức Nhuệ).
- Nhiều ý kiến cho là Nguyễn Uông bị chết “mờ ám” là do bàn tay của Trịnh Kiểm là xác đáng vì lúc đó quyền lực nằm trong tay họ Trịnh nên không thể làm sáng tỏ được vụ án này,  nhưng cũng có ý kiến còn nghi ngờ về cái chết của Nguyễn Uông: “Nguyễn Uông bị hãm hại cụ thể thế nào, hiện chưa thấy nguồn tư liệu nào nói đến”. Do vây, việc Trịnh Kiểm có âm mưu hãm hại Nguyễn Hoàng nên buộc ông phải xin vào trấn thủ Thuận Hóa để tránh họa sát thân, việc này cũng chưa có chứng cứ xác thực (Nguyễn Đức Nhuệ).
- Về pho tượng đồng mà nhiều người cho đó là của Thái phó Nguyễn Ư Dĩ, là báu vật duy nhất còn lại cũng còn nhiều ẩn số: Nguyễn Ư Dĩ chết năm nào,  tượng đúc vào năm nào, nghệ nhân là ai và lò đúc ở đâu ? Trong khi tài liệu không đề cập đến một lò đúc đồng nào xuất hiện ở vùng Thuận Quảng vào thế kỷ XVI ? Pho tượng quý giá như vậy, trải qua hơn 4 thế kỷ biến động, chiến tranh và cướp bóc nhưng pho tượng vẫn còn trong tình trạng hầu như không có người bảo quản đó cũng là điều khó hiểu.
6 . Về những vấn đề cần thảo luận
Ngoài những vấn đề còn tồn nghi như tôi đã trình bày, tại hội thảo chúng ta còn có nhiều nội dung cần được hội nghị quan tâm thảo luận như:
  • Về các nguyên nhân Nguyễn Hoàng vào Quảng Trị và những nguyên nhân đưa đến thay đổi về chủ trương của Nguyễn Hoàng trong quá trình trấn nhậm vùng đất Thuận Quảng.
  • Đánh giá về công lao cũng như hạn chế của Nguyễn Hoàng trong lịch sử dân tộc và mối quan hệ với vùng đất Quảng Trị trong tiến trình lịch sử.
  • Vấn đề nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích chúa Nguyễn ở huyện Triệu Phong trong định hướng phát triển du lịch hiện nay.
Trên đây là những gợi ý về các nội dung cần thảo luận tại hội trường, mong muốn được hội nghị quan tâm.
Kính thưa toàn thể hội nghị.
Do khuôn khổ thời gian có hạn nên không thể trình bày tất cả 33 bản báo cáo khoa học trong các phiên trình bày tham luận và thảo luận, nên chúng tôi chỉ mời một số tác giả đại diện cho 3 nhóm chủ đề: Thân thế và sự nghiệp chúa Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hoàng với vùng đất Quảng Trị và Tư liệu, di tích Nguyễn Hoàng và vấn đề bảo tồn, phát huy giá trị lên phát biểu, nhưng không quá 15 phút. Còn các tác giả khác cùng chủ đề sẽ tham gia thêm những phát kiến mới, nhưng không quá 5 phát. Cuối mỗi buổi, sau khi kết thúc các chủ đề hội thảo sẽ dành thời gian thảo luận. Có như vậy, hội thảo chúng ta mới được nghe và thảo luận nhiều ý kiến mới và bổ ích.
     Với sự chuẩn bị công phu của các tác giả và với tinh thần khoa học của tất cả quý vị, tôi tin chắc rằng Hội thảo khoa học Quảng Trị - Đất dựng nghiệp của chúa Nguyễn Hoàng sẽ thành công tốt đẹp.
  Xin trân trọng cảm ơn.
 

[1] Văn bản này hiện lưu trữ tại Nhật Bản Quốc lập công văn thư quán (National Archives of Japan) ở Nhật Bản và Cửu Châu quốc lập bác vật quán (Kyushu national Museum), .
Tác giả bài viết: PGS.TS. ĐỖ BANG