TRẦN KIÊM ĐOÀN -
Canh Dần 2010
Nếu chọn một số tròn để ghi lên cột mốc thời gian của những mùa Xuân lạc xứ, xa nhà thì tôi sẽ đề số 35/30 trên cột mốc năm nay.
Đây không phải là số tuổi chín muồi của một cặp vợ chồng lý tưởng; cũng chẳng phải là hai con số cặp kè của sự phân chia bí ẩn nào đó. Nó chỉ đơn giản như những mùa xuân qua đếm bằng cuốn lịch trên tường và tóc bạc trên đầu. Con số đó là dấu chỉ của dòng thời gian nhớ nhớ, quên quên: 35 năm sống trên quê mẹ và 30 năm sống ở quê người. Ở tuổi về hưu, một người sống gần trọn đời giữa hai thế giới. Người ấy sẽ là ai ở giữa mùa Xuân?
Tôi tự vẽ chân dung mình. Rướn người, cố nhìn mình thật kỹ trong gương. Người xưa nói “tâm viên, ý mã”, nghĩa là tâm thay đổi chuyền cành nhanh như vượn; ý lao vun vút như ngựa chạy đường xa. Thế nhưng tâm lý con người vẫn không chạy đuổi kịp với thời gian…
Người trong gương, ông là ai thế?! Dưới mái tóc muối tiêu – muối nhiều tiêu ít – đó là khuôn mặt góc cạnh pha nếp nhăn của một ông già châu Á. Ba mươi năm ở Mỹ, ông đã đổi thức ăn, thức uống, thức dùng. Những bữa ăn ít dần mắm muối tương cà. Những bữa uống nhạt dần hơi men rượu gạo làng Chuồn, nếp than Đồng Tháp. Những đồ dùng từ tứ xứ tinh tươm. Nhưng nhìn kỹ ông hôm nay, ông cũng vẫn là một ông già của xóm Bàu, xóm Kên, xóm Cụt làng Liễu Hạ. Đã mấy chục năm rồi, ông không còn mặc áo tơi đi trong mưa lạnh rát mặt của mùa Đông xứ Huế. Ông ngỡ như đã quên những bếp củi than, lồng ấp mùa Đông; quên cái quạt mo phành phạch mùa Hè; quên tiếng ve đất và tiếng chim cu gáy buồn buồn gọi nhớ cuối Thu. Nhưng sao ông vẫn nhớ nhà, nhớ luống cải vàng của mẹ trồng, nhớ nhà thờ họ, nhớ cổng chùa làng, nhớ mái đình xưa đầy hương khói. Nhớ quặn mình muốn khóc như trẻ thơ khi mỗi năm Tết về: Nhớ mẹ! Bà Mẹ Quê Việt Nam không phải chỉ là người mẹ sinh con ra và nuôi con khôn lớn. Nếu đem lửa thử vàng thì bà là vàng ròng trong ngọn lửa. Chiến tranh, đói nghèo, gian nan là thế mà bà vẫn gánh một đầu thúng này là con thơ và đầu kia là sự sống còn của đàn con trong cơn nguy biến.
Thì ra, người ta chỉ già theo nhân dáng, nhưng không già trong tình tự quê hương. Tự xét hoàn cảnh riêng mình và các bạn cùng trang lứa và hoàn cảnh, tôi khó mà không đồng tình với nhà tâm lý học cừ khôi hàng đầu của Mỹ là Erik Erickson khi ông ta nói về sự hình thành bản sắc của mỗi con người (establishment of personal identity) đã hoàn thiện và chấm dứt hoàn toàn trong 30 năm đầu của một đời người: 10 năm đầu cho bản sắc tuổi thanh xuân, 10 năm tiếp theo cho bản sắc tình cảm, tư tưởng và 10 năm sau cho bản sắc văn hóa. Một người sinh ra và trưởng thành trên một vùng đất nào đó tới 30 tuổi thì dẫu muốn hay không họ đã hoàn toàn thuộc về nơi đó. Một “Erickson thi sĩ” Việt Nam là Chế Lan Viên đã viết về tâm lý:”Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn.” Tâm hồn là cách gọi khác của một gốc rễ vô hình đã nằm trong góc khuất của mỗi con người. Người ta hy sinh thân mạng để đấu tranh với ngoại xâm và nội thù cũng chỉ vì dính mắc với quê hương.
Sự phát triển tâm lý ngỡ như nghịch chiều nhưng lại là một hiện thực của tuổi già nơi xứ lạ. Tuổi về hưu như một bãi sa bồi đã qua nhiều cơn sóng gió. Những bụi cát phù sa lắng xuống. Đá sỏi hiện nguyên hình và nhận ra nhau. Đó là lúc tuổi già lắng lòng nhớ quê xưa và những khuôn mặt thân yêu ngày cũ. Nơi xứ người, nếu nguồn tình cảm nầy vắng bóng thì làm sao có được những phố Tàu, phố Nhật, phố Việt, phố Đại Hàn tại nhiều thành phố lớn trên các xứ Âu Mỹ đã tự phát từ buổi di dân ban đầu cho đến ngày nay. Người Việt xa xứ mê một “Little Saigon” như tha thiết với một bản sắc tình cảm quê hương đang bị han vùi tên tuổi.
Có một sinh viên Việt Nam trên 30 tuổi, qua Mỹ du học, kết hôn, ở lại. Sau 5 năm ở Mỹ, anh được vào quốc tịch Mỹ và cũng là năm anh tốt nghiệp cao học xã hội tại đại học Sac State. Một lần, sau giờ học về quan niệm bản sắc cá nhân của Erickson, anh hỏi: “Em vừa được vào quốc tịch Mỹ và muốn làm đơn xin từ bỏ quốc tịch Việt Nam. Xin thầy giúp ý kiến.” Tôi góp ý: “Em và tôi đều rời đất nước ở lứa tuổi khi bản sắc nòi giống của cá nhân mình đã được xác lập. Bản sắc nòi giống đã biến thành tâm hồn. Người ta có thể chuyển hóa, nhưng không thể từ bỏ được tâm hồn. Thủ tục và tên gọi chỉ là nhãn hiệu bên ngoài chai nước mắm, chẳng có gì quan trọng.”
Mấy lần về thăm quê, bạn bè han tình hỏi tới: “Ở Tây, ở Mỹ lâu vậy mà bạn có bị lai căng, mất gốc gì không?” Tôi đùa mà rất thật: “Lai rai thì có nhưng lai căng, lai giống thì không!” Lai rai… thì có vô số chuyện để bàn. Cái lai đầu tiên là tiếng “Dạ” và “Không”. Trước một câu hỏi: “Ông không thích mắm ruốc à?” Mỹ trả lời: “Không, tôi không thích”. Việt trả lời: “Dạ (vâng), tôi không thích.” Hay ngắn hơn: “Dạ không!” Dịch ra tiếng Mỹ là “Yes/no!” Người Mỹ la làng, cho tiếng Việt là không rõ ràng giữa có và không. Thật ra, vì họ chưa hiểu rõ ràng về cái suối nguồn văn hóa bao la trong một câu trả lời ngắn gọn: “Dạ” trước là để bày tỏ mối quan hệ với đối tượng đang hỏi; rồi mới tới phần sau là ý kiến của riêng mình. Đó là một sự biểu hiện giao tình giữa người với ta; giữa cá nhân mình với bà con làng trên xóm dưới. Trong lúc người Mỹ với văn hóa đậm tính cá nhân, họ xác định ngay ý kiến riêng của mình từ tiếng “không” phủ nhận đầu tiên. Bởi vậy mà dân Âu Mỹ đặt Tên trước Họ; người Việt đặt Họ trước Tên.
Khi tiếp cận với một nền văn hóa mới, người ta mới thấy được những viên sỏi thường ngày trên đất nước của mình, có khi lại là những hạt quý trên xứ người: Đó là tiếng cười. Cười là một thứ ngôn ngữ không lời cao cấp nhất của văn hóa mà mình vô tình coi nhẹ nó như nắm xôi thằng Bờm. Xa xứ rồi, nếp cười hiện lên như một tiếng vọng nhắc nhở cội nguồn.
Người Việt đã trưởng thành trên quê hương khi tới xứ người có thể nói lưu loát và hùng biện những chuyện triết lý, văn chương, kỹ thuật bằng tiếng Tây, tiếng Mỹ nhưng lại rất ít người có khả năng chuyển tải qua, lại những “thông điệp cười” thống khoái trong tương quan sinh hoạt với người nước ngoài. Khó mà chia sẻ, hiểu hết được cái tinh túy trong Ngôn Ngữ Cười của một dân tộc. Đã gần ba mươi năm, thường xuyên làm việc và sinh hoạt trong thế giới người Mỹ, nhưng tôi cũng như hầu hết bạn bè cùng lứa hay một người bạn tuổi đã 70, du học Mỹ từ năm 1958 ở tuổi hai mươi, vẫn bị lạc xa tít mù khơi trong những câu chuyện khôi hài (joke) của người Mỹ và có lẽ cũng là trường hợp ngược lại, khi chúng tôi cố chia sẻ với người Mỹ chuyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Ba Giai Tú Xuất, rút từ trong kho tiếu lâm xứ mình. Tiếng cười khó thật. Chỉ là đôi tiếng “hì, hì”, không văn phạm, không câu kéo, không nội dung bí hiểm mà học một đời chắc gì thuộc nổi. Khó nhất đời là chuyện… sắc không!
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình và tẩn mẩn làm thơ – thơ 35/30 – trong cái lãng mạn xuôi dòng thời quá khứ có chút khật khừ lý tính phương Tây:
Chiều cuối năm ta ngồi nhìn nẻo ý
Trôi hoang vu như mấy trắng trên trời
Đêm vắng vẻ thân tâm về rỗng lặng
Thoảng hương Xuân mùa Tết đến nơi rồi
Ta thấy được mình khi đếm từng hơi thở
Gió đêm len vào cửa trống ơ hờ
Chút mỏi nản lắng nghe hồn suy tưởng
Không buộc ràng buông xả cõi vu vơ
Tiếng vĩnh cửu thay dòng đời du tử
Hiện bóng trong ta em còn đứng đó
Tiếng dỗi hờn ký ức thuở xa xưa
New Year Eve I sit and watch my thoughts
Come and go wildly like clouds in the sky
But tonight it is clear and all empty
I smell fragrance of the Spring and the Tet
Always in my mind when counting breaths
A night breeze enters through the open window
Tired of listening to my thoughts
Give the mind a rest
Listen to the eternity instead
Oh dear there it is
The whine of returning memoryLâu ngày đón những Noel thay cho ngày Tết, nhưng quê người vẫn váng vất hương Xuân. Bởi thế, ngày đầu năm dương lịch mà dân mình hay gọi là “Tết Tây” nơi xứ người chỉ còn lưu lại nỗi nhớ. Tuổi càng cao, nỗi nhớ càng thấm thía mà rất tự nhiên như cảm xúc tự mình nhìn nhìn sâu hút vào chính mình. Nhớ nỗi buồn và nhớ tiếng cười ngoài sân, đầu ngõ của người thân, bạn bè. Vì cười nó vừa đơn giản mà cũng vừa khó kiếm đến như thế nên xin được ghi thêm một chữ quan trọng lên Cột Mốc Mùa Xuân 35/30: Cười!
Sacramento, Cali. Trước ngõ mùa Xuân 2010.
© 2010 Trần Kiêm Đoàn
© 2010 Trần Kiêm Đoàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét