Chiến thắng Chi Lăng-Xương Giang lịch sử đã xóa bỏ 20 năm đô hộ tàn bạo của nhà Minh, mở ra những trang mới trong lịch sử dựng nước và giữ nước quang vinh của dân tộc.
CHƯƠNG IV: CHIẾN THẮNG CHI LĂNG-XƯƠNG GIANG
NGÀY 8 THÁNG 10 ĐẾN NGÀY 3 THÁNG 11 NĂM 1427
Tượng đài chiến thắng Chi Lăng (Ngọc Viên)
|
Đánh trận đầu, sạch sanh kình ngạc,
Đánh trận nữa, tan tác chim muôn.
Lỗ kiến xoi, đê vỡ phá tung,
Gió thổi mạnh, lá khô trút sạch.
NGUYỄN TRÃI - Bình Ngô đại cáo
Đó là khí thế xung trận vang dậy của quân dân ta và
thắng lợi oanh liệt, triệt để của trận Chi Lăng-Xương Giang mà Nguyễn
Trãi đã ghi lại trong Bình Ngô đại cáo. Đó cũng là chiến thắng có ý
nghĩa quyết định, kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh giải phóng do Lê
Lợi-Nguyễn Trãi lãnh đạo hồi đầu thế kỷ XV.
*****
Sau chiến thắng Tốt Động-Chúc Động, quân địch phải
chuyển hẳn sang thế phòng ngự bị động còn quân dân ta thì hoàn toàn
giành quyền chủ động thế tiến công trên các chiến trường toàn quốc.
Trước tình hình đó, Vương Thông một mặt âm mưu giảng
hòa lập kế hoãn binh; mặt khác vội vã phái người về nước cầu cứu. Ngày
31 tháng 1 năm 1427 (tức ngày 26 tháng chạp năm Bính Ngọ), nhà Minh lại
lần nữa quyết định điều quân tiếp viện cho Vương Thông.
Lúc lượng viễn chinh này chia làm hai đạo quân cùng kéo sang nước ta:
Đạo thứ nhất do thái tử thái bảo An Viễn hầu Liễu
Thăng làm tổng binh, Bảo Định bá Vương Minh làm tá phó tổng binh, đô đốc
Thôi Tụ làm hữu tham tướng, tiến theo đường Quảng Tây.
Đạo thứ hai do thái phó Kiềm Quốc công Mộc Thạnh làm
tổng binh, Hưng An bá Từ Hanh làm tả phó tổng binh, Tân Ninh bá Đàm
Trung làm hữu phó tổng binh, tiến theo đường Vân Nam.
Đạo viện binh của Liễu Thăng điều động quân các vệ
Bắc Kinh, Nam Kinh, ty lưu thủ Trung Đô, hộ vệ Vũ Xương, các đô ty Hồ
Quảng, Phúc Kiến, Triết Giang và các vệ nam Trực Lệ. Cùng đi theo với
đạo quân này, nhà Minh còn phái những quan lại cao cấp rất am hiểu tình
hình nước ta như công bộ thượng thư Hoàng Phúc, thái tứ thái bảo binh bộ
thượng thư Lý Khánh làm tham tán quân vụ. Chúng còn điều thêm tên Việt
gian hữu bố chính sứ Nguyễn Đức Huân giúp việc.
Đạo viện binh do Mộc Thạnh chỉ huy điều động quân từ các vệ Thành Đô, các đô ty Tứ Xuyên, Vân Nam.
Cả hai đạo viện binh đó lúc đầu gồm 7 vạn quân. Tháng
4 năm 1427, nhà Minh điều động thêm 1.000 quân ở các hộ vệ Vũ Xương,
1.200 quân ở hộ vệ Thành Đô, 1 vạn quân tinh nhuệ ở vệ Nam Kinh, 33.000
quân từ ty lưu thủ Trung Đô, các đô ty Phúc Kiến, Quảng Đông, Hồ Quảng,
Triết Giang, Hà Nam, Sơn Đông. Tất cả trên 45.200 quân tăng cường thêm
cho hai đạo viện binh Liễu Thăng, Mộc Thạnh (Những con số trên đây lấy
trong Hoàng Minh thực lục được trích dẫn trong An Nam sử nghiên cứu của
Yamamoto Tatsuro Tokyo 1950, q.l, tr.721-722).
Như vậy, tổng số quân chính quy bao gồm bộ binh và kỵ
binh tinh nhuệ điều động hầu khắp các tỉnh từ Sơn Đông xuống Quảng Tây,
từ Quảng Đông sang Tứ Xuyên của nhà Minh tăng viện cho cuộc chiến tranh
xâm lược nước ta lần này tối thiểu cũng đến 115.000 tên. Đó là quân chủ
lực được chọn lọc, chưa kể số dân phu chuyển vận lương thực, vũ khí và
số thổ binh ở Quảng Đông, Quảng Tây. Nhà Minh sai hình bộ thượng thư
Phàn Kính đến Quảng Tây và phó đô ngự sử Hồ Dị đến Quảng Đông đôn đốc
việc vận chuyển quân lương.
Theo sử cũ nước ta, đạo quân của Liễu Thăng gồm 10
vạn quân và 2 vạn ngựa; đạo quân của Mộc Thạnh gồm 5 vạn quân và 1 vạn
ngựa (Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch đã dẫn, t. III, tr.43). Tổng số
hai đạo quân lên đến 15 vạn. Có lẽ đó là số quân chiến đấu bao gồm quân
chính quy và thổ binh mà chưa tính hết số dân phu. Theo Lam Sơn thực lục
thì tồng số quân địch là 20 vạn quân. Con số này có lẽ bao gồm cả quân
chiến đấu và dân phu.
Những tướng cầm đầu hai đạo quân địch đều đã tham gia
cuộc chiến tranh xâm lược nước ta trước đây, hoặc là quan chức lâu năm
trong chính quyền đô hộ.
Liễu Thăng vốn là tùy tướng của Trương Phụ - kẻ cầm
đầu đạo quân xâm lược nước ta năm 1406. Bấy giờ, Liễu Thăng đã đóng quân
ở cửa Hàm Tử (Khoái Châu, Hưng Yên) và đem quân đuổi theo Hồ Quý Ly đến
cửa biển Kỳ La (Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh).
Mộc Thạnh, từ năm 1406 đã giữ chức tả phó tổng binh
trong đạo quân Trương Phụ. Mộc Thạnh đã chỉ huy trận đánh chiếm thành Đa
Bang (Ba Vì, Hà Tây) và đã từng bị nghĩa quân Trần Ngỗi đánh bại ở trận
Bô Cô (trên bờ sông Đáy, Ý Yên, Nam Hà) năm 1408.
Hoàng Phúc, năm 1406 cũng theo Trương Phụ làm đốc
biện quân lương. Khi nhà Minh đặt ách thống trị lên nước ta, Hoàng Phúc
kiêm giữ hai chức bố chánh và án sát, tổ chức trấn áp phong trào yêu
nước của nhân dân ta, thực hiện chính sách bóc lột vơ vét của cải và
đồng hóa ráo riết. Hắn nắm vững địa hình, hiểu biết tường tận tình hình
nước ta. Hai mươi năm nhà Minh thống trị đất nước ta thì Hoàng Phúc đã ở
đây đến 18 năm (Minh sử, liệt truyện, truyện Hoàng Phúc).
Việc điều động viện binh lần này với số quân chiến
đấu 15 vạn và những tướng dày kinh nghiệm, am hiểu tình hình và quen
thuộc chiến trường nước ta, chứng tỏ nhà Minh vẫn giữ quyết tâm xâm
lược, dùng bạo lực hòng tiêu diệt phong trào yêu nước của nhân dân ta,
lập lại nền thống trị của chúng. Để thực hiện âm mưu đó, chúng phải vượt
qua nhiều khó khăn.
Minh Tuyên Tông (1426-1436) khi lên ngôi đã phải gánh
những hậu quả tàn hại sau cuộc chiến tranh to lớn với phong kiến Mông
Cổ mấy năm trước. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thiểu số với triều đình vẫn
còn gay gắt. Biên thùy phía Bắc và phía Tây của nhà Minh vẫn thường bị
uy hiếp. Phong trào đấu tranh của các dân tộc thiểu số, nhất là nghĩa
quân “áo đỏ” ở vùng Vân Nam đã bùng lên khá mạnh. Nông dân khởi nghĩa do
Đường Trại Nhi lãnh đạo khởi phát từ năm 1420 cũng gây nhiều khó khăn
cho triều đình. Tình hình trên được Nguyễn Trãi vạch rõ trong thư gửi
Vương Thông: “Huống chi ở nước các ngươi, quốc chúa liền năm tử táng,
cốt nhục tàn hại lẫn nhau, Bắc khấu xâm lăng, đại thần lấn át; gia dĩ
lúa má mất luôn, thổ mộc làm mãi, chính lệnh hà khắc, giặc cướp như ong.
Từ niên hiệu Hồng Vũ đến nay, cùng binh độc rũ, trong nước tổn hao,
nhân dân mệt nhọc. Trời làm táng vọng, chính ở lúc này” (Nguyễn Trãi,
Toàn tập, sách đã dẫn, tr.123). Do đó, đầu năm 1427 nhà Minh ra lệnh
điều động viện binh mà đến 9 tháng sau, quân tiếp viện mới đến biên
giới. Những khó khăn về đối nội, đối ngoại, nhất là phong trào đấu tranh
của nhân dân Trung Quốc đã có tác dụng cản trở việc diều quân, bắt phu,
cung cấp lương thực để tiếp tục chiến tranh của nhà Minh và về khách
quan, có lợi cho cuộc đấu tranh cứu nước của dân tộc ta.
Tuy nhiên nhìn chung, đầu thế kỷ XV vẫn là thời thịnh
đạt của triều Minh. Đó là một đế chế lớn mạnh nhất phương Đông hồi ấy.
Vì vậy, dù có một số khó khăn, nhà Minh vẫn quyết tâm điều động viện
binh, tiếp tục những cố gắng chiến tranh lớn nhất. Khi các đạo quân viễn
chinh của Liễu Thăng-Mộc Thạnh chưa sang, nhà Minh đã sai tổng binh
Quảng Tây là Trấn Viễn hầu Cố Hưng Tổ đem quân sang ứng viện cho Vương
Thông trước.
Đại quân Liễu Thăng-Mộc Thạnh sang tiếp viện lần này
có thể làm cho so sánh lực lượng ta, địch thay đổi. Trên 15 vạn quân hợp
với số quân hơn 10 vạn ở Đông Quan và các thành khác khiến cho số lượng
quân địch tăng lên gấp bội. Nhiệm vụ của viện binh là trước hết giải
vây cho thành Đông Quan, rồi sau đó phối hợp với Vương Thông tổ chức
phản công mong xoay chuyền lại cục diện chiến tranh.
Về lực lượng nghĩa quân, không có tài liệu nào ghi
chép số quân cụ thề. Trong các bức thư của Nguyễn Trãi gửi Vương Thông,
số nghĩa binh tổng cộng đến 45 vạn (Nguyễn Trãi, Toàn tập, phần Quân
trung từ mệnh tập, thư số 37, tr.122). Đó là con số mà Nguyễn Trãi tuyên
bố trong bức thư dụ hàng nhằm uy hiếp tinh thần địch. Thực tế, lực
lượng nghĩa quân không nhiều đến thế. Việt sử thông giám cương mục ghi
chép số nghĩa quân có khoảng 35 vạn. Con số đó có lẽ bao gồm cả nghĩa
quân và những đội dân binh, lực lượng vũ trang của nhân dân các làng xã.
Điều chắc chắn là lực lượng nghĩa quân bấy giờ đã
trưởng thành đến mức độ giành được quyền chủ động trên toàn bộ chiến
trường, ghìm chặt quân Vương Thông, giam chân chúng trong các thành,
nhưng sức ta vẫn chưa đủ đề tiêu diệt nhanh chóng bọn bại quân này được.
Giữa lúc đó viện binh giặc lại sang. Cùng một lúc, nghĩa quân Lam Sơn
phải đối phó với ba khối quân địch:
- Đạo quân Vương Thông ở Đông Quan.
- Đạo viện binh chủ lực lớn nhất từ Quảng Tây tiến xuống.
- Đạo viện binh chủ lực từ Vân Nam tiến vào.
Một cục diện mới sẽ diễn ra trong phạm vi rộng lớn từ
rừng núi biên giới phía Bắc đến đồng bằng sông Hồng. Mỗi khối quân địch
là một mục tiêu tác chiến to lớn có tính chất chiến lược. Tình thế đó
đòi hỏi bộ chỉ huy nghĩa quân phải có kế hoạch đối phó chính xác, chủ
động, phối hợp chặt chẽ với nhau trên toàn bộ chiến trường.
*****
Lực lượng địch còn đông, âm mưu rất ngoan cố, thâm
độc những chúng vấp phải một đối thủ kiên cường đang ở thế mạnh, thế
thắng. Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã dự đoán đầy đủ trước tình hình và đã có kế
hoạch đối phó chính xác. Bộ chỉ huy tối cao của nghĩa quân Lam Sơn chủ
trương nắm vững quyền chủ động trên chiến trường, quyết vươn lên đập tan
mọi cố gắng chiến tranh của quân Minh, giành thắng lợi quyết định.
Một điểm nổi bật của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là luôn
luôn phải đối phó với viện binh giặc. Sau mỗi lần bị thất bại nặng nề,
chúng lại điều động thêm viện binh. Từ cuối năm 1426 đến cuối năm 1427 -
trong khoảng một năm nhà Minh đã 4 lần gửi viện binh sang nước ta, đạo
này rồi tiếp dạo khác. Sau chiến thắng Tốt Động-Chúc Động diệt hơn 6 vạn
sinh lực địch, Lê Lợi và Nguyễn Trãi lại bắt được thư mật xin viện binh
của Vương Thông gửi về nước. Biết rõ âm mưu địch, bộ chỉ huy tối cao đã
chuẩn bị sẵn sàng mọi điều kiện để giáng cho chúng những đòn thiệt hại
nặng nề, đập tan hoàn toàn âm mưu xâm lược của nhà Minh.
Bấy giờ trong các tướng có một số người bàn với Lê
Lợi, Nguyễn Trãi nên nhanh chóng hạ thành Đông Quan rồi sau dó dốc toàn
lực phá tan viện binh của giặc. Ý kiến này biểu thị quyết tâm diệt địch,
nhưng chưa đánh giá đầy đủ so sánh lực lượng hai bên. Thực tế, lúc bấy
giờ số nghĩa quân đóng ở miền Bắc không phải là nhiều lắm. Một bộ phận
quan trọng vẫn phải tiếp tục bao vây các thành Tây Đô (Vĩnh Lộc, Thanh
Hóa), Cổ Lộng (Bình Cách, Ý Yên, Nam Định), Chí Linh (Chí Linh, Hải
Dương) và các thành khác. Mặt khác, nghĩa quân còn phải dành một phần
lực lượng ở hậu phương từ Thanh Hóa trở vào, nhất là Hóa Châu (Thừa
Thiên-Huế), để bảo vệ cương giới phương Nam. Số quân cơ động chiến đấu
của nghĩa quân trên các chiến trường ước chừng trên 6 vạn, kể cả lực
lượng dự bị.
Trước tình hình đó, tập trung lực lượng hạ thành Đông
Quan, thành lũy kiên cố nhất, có khoảng 4 vạn quân địch với đầy đủ vũ
khí, lương thực, và hệ thống phòng thủ chắc chắn tất không phải là việc
dễ dàng. Đánh thành Đông Quan đòi hỏi phải tập trung một lực lượng lớn,
có ưu thế tuyệt đối về số lượng, không những có tinh thần chiến đấu cao,
mưu trí và linh hoạt, mà còn phải có trang bị vũ khí và phương tiện đầy
đủ. Như vậy, nghĩa quân sẽ bị tiêu hao, đồng thời dễ sơ hở ở nhiều
chiến trường khác, nhất là các vùng trên đường hành quân của viện binh
giặc. Lê Lợi-Nguyễn Trãi và bộ chỉ huy đã xét so sánh lực lượng giữa ta
và địch, nhận xét đúng tình hình cụ thể, đề ra chủ trương “vây thành
diệt viện”, không dốc sức đánh thành Đông Quan mà tập trung lực lượng
tiêu diệt các đạo viện binh.
Qua nhiều năm chiến đấu, nhất là từ khi dời căn cứ từ
thượng du Thanh Hóa vào Nghệ An, kinh nghiệm vây thành diệt viện của
nghĩa quân đã tích lũy được nhiều. Cho đến cuối năm 1426, đầu năm 1427,
nghĩa quân đã giải phóng hầu hết đất nước, địch phải co rút vào trong
một số thành cố thủ. Lê Lợi-Nguyễn Trãi chủ trương vây thành, kết hợp
bao vây và tiến công bằng quân sự với vận động thuyết phục kẻ thù. Kết
quả là quân địch ở một số thành đã phải đầu hàng.
Đồng thời với việc vây thành, nghĩa quân còn tập
trung chuẩn bị diệt viện. Trong năm 1426-1427, trước khi đối phó với
viện binh Vương Thông-Mộc Thạnh, nghĩa quân Lam Sơn cũng đã có nhiều
kinh nghiệm diệt viện. Tháng 10 năm 1426, viện binh của Vương An Lão mới
đến Tam Giang đã bị đòn đánh ở cầu Xa Lộc (Lâm Thao, Phú Thọ). Tháng 11
năm dó, viện binh của Vương Thông phối hợp với quân lính ở Đông Quan
vừa mới mở cuộc hành quân ra khỏi thành đã bị đánh tan tác ở Tốt
Động-Chúc Động. Tháng 7 năm 1427, viện binh của Cố Hưng Tổ mới đến biên
giới đã bị giáng một đòn quyết liệt ở ải Pha Lũy, phải tháo chạy về
nước. Nghĩa quân đã từng đánh viện binh của địch khi chúng đang hành
quân kéo sang nước ta (Vương An Lão, Cố Hưng Tổ), hay khi chúng vừa đem
quân càn quét (Vương Thông), nghĩa là đều đánh địch trên đường vận động.
Đánh vận động ngoài thành lũy là lối đánh sở trường của nghĩa quân Lam
Sơn nhằm thực hiện “lấy yếu trị mạnh”, “tránh chỗ thực, đánh chỗ hư”,
“lấy thế nhàn rỗi đánh quân mệt mỏi” (dĩ dật đãi lao). Việc tiêu diệt
các đạo viện binh của Vương An Lão, Vương Thông, Cố Hưng Tổ đã chứng tỏ
điều đó và chiến thắng Tốt Động-Chúc Động là thành công rực rỡ của tư
tưởng chỉ đạo tác chiến này.
Với kinh nghiệm dày dạn qua nhiều năm chiến đấu và
tài năng quân sự lỗi lạc, Lê Lợi-Nguyễn Trãi đã đề ra chủ trương tác
chiến chủ động và tích cực: “Đánh thành là hạ sách, ta đánh vào thành
vững hàng tháng hàng năm không hạ nổi. Quân ta sức mòn khí nhụt, nếu
viện binh của giặc tới thì trước mặt sau lưng ta đều bị địch đánh. Đó là
thế nguy. Sao bằng nuôi oai chứa sức, đợi quân cứu viện, viện binh dứt
thì thành tất phải hàng. Làm một việc mà được cả hai. Đó mới là kế vạn
toàn” (Đại việt sử ký toàn thư, bản dịch đã dẫn, t.III, tr.42-43).
Như thế là Lê Lợi-Nguyễn Trãi chủ trương tiếp tục vây
hãm thành Đông Quan và tập trung lực lượng tiêu diệt viện binh khi
chúng mới kéo vào nước ta. Rõ ràng các nhà lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn
rất tin tưởng vào khả năng thắng lợi của kế hoạch đề ra và thấy rõ ý
nghĩa đầy đủ của nó trong mối quan hệ giữa diệt viện và đánh thành. Như
Lê Lợi đã nhận định, nếu tập trung đánh thành thì chưa chắc đã hạ được
nhanh chóng mà viện binh địch tới lại dồn ta vào thế “trước mặt sau lưng
đều bị đánh”. Như vậy, ta đang chủ động tiến công lại chuyển thành bị
động chống đỡ. Sau trận đại bại ở Tốt Động-Chúc Động, mấy vạn tàn quân
của Vương Thông bị giam chân ở Đông Quan đã ngót một năm trời. Quân địch
ở trong tình trạng “sức hết kế cùng, quân sĩ nhọc mệt, trong thiếu
lương thực, ngoài không viện binh, bám hờ khu nhỏ mọn, nghỉ tạm thành
chơ vơ, há chưa phải là như thịt trên thớt, cá trong nồi sao?” (Nguyễn
Trãi, Toàn tập, sách đã dẫn, tr.118). Vương Thông ra sức cố thủ là vì
còn chờ mong vào viện binh của nhà Minh. Tập trung lực lượng tiêu diệt
viện binh là làm mất chỗ dựa, đập tan nguồn hy vọng cuối cùng của địch.
Lúc đó, quân địch Ở Đông Quan cũng như các thành khác nếu không đầu hàng
thì sẽ bị tiêu diệt. Nguyễn Trãi đã chỉ rõ điều đó cho Vương Thông:
“nếu viện binh đến, thế tất phải thua, viện binh đã thua, bọn các ông
tất bị bắt” . Cho nên, “làm một mà được cả hai” là như vậy (Nguyễn Trãi,
Toàn tập, sách đã dẫn, tr.119).
Tuy nhiên không phải đối với thành nào quân ta cũng
chủ trương vây hãm như nhau. Những thành lẻ loi, cô lập, cách xa đường
tiến quân của viện binh giặc như Chí Linh, Cổ Lộng, Tây Đô thì nghĩa
quân chỉ tiếp tục bao vây dụ hàng mà không nhất thiết mở các trận công
thành đánh chiếm. Còn những thành như Khâu Ôn, Chi Lăng (Lạng Sơn),
Xương Giang (Bắc Giang), Tam Giang (Việt Trì, Phú Thọ) nằm trên đường
tiến quân của viện binh giặc thì Lê Lợi-Nguyễn Trãi chủ trương kiên
quyết đánh chiếm kỳ được bằng bất cứ giá nào trước khi viện binh kéo
sang.
Những thành nói trên là những cứ điểm trên đường giao
thông từ Quảng Tây và Vân Nam tiến vào thành Đông Quan. Trên đường tiếp
viện của giặc, những thành này là những nhịp cầu tiếp ứng quan trọng.
Kiên quyết tiêu diệt bằng được các cứ điểm đó trước khi viện binh kéo
sang là nhằm tích cực chuẩn bị chiến trường cho những trận quyết chiến
chiến lược sắp tới. Hạ các thành đó là trực tiếp tiêu diệt các lực lượng
tiếp ứng, phá thế dựa vào nhau của địch.
Để thực hiện chủ trương trên, Lê Lợi-Nguyễn Trãi đề ra kế hoạch cụ thể sau đây:
- Các tướng Trần Lựu, Lê Bôi tiến quân lên vùng Lạng
Sơn sau khi hạ các thành Trấn Di (tức thành Chi Lăng), Khâu Ôn (phía nam
thị xã Lạng Sơn), tiếp tục bố trí phòng ngự vùng biên giới Lưỡng Quảng,
giữ cửa ải Pha Lũy (Hữu Nghị Quan).
- Phòng ngữ sứ Trần Ban lên tu sửa cửa ải Lê Hoa
(vùng sông Lô chảy qua Hà Giang, Tuyên Quang) đề phòng viện binh địch từ
Vân Nam tiến sang.
- Ở những vùng nằm trên đường tiến quân của viện binh
giặc từ Quảng Tây và Vân Nam sang như Lạng Sơn, Lạng Giang, Tuyên
Quang, Tam Đái, Quy Hóa, nhân dân được lệnh dời nhà cửa, đưa vợ con và
chuyển của cải đi nơi khác làm kế “thanh dã”, thực hiện vườn không nhà
trống, để khi quân giặc kéo vào không còn nơi trú ngụ, không cướp bóc
được lương thực, đẩy chúng vào tình trạng bị cô lập.
- Hạ gấp thành Xương Giang, tiêu diệt toàn bộ sinh
lực địch ở đấy. Đồng thời biến Xương Giang thành căn cứ vững chắc và
điểm cuối cùng chặn đứng bước tiến của viện binh địch về Đông Quan rồi
bao vây tiêu diệt chúng.
Song song với việc bao vây tiến công bằng quân sự, Lê
Lợi-Nguyễn Trãi đẩy mạnh công tác vận động, dụ hàng, thực hiện phương
châm “mưu phạt nhi tâm công”; đánh vào lòng địch.
Trong cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng của
nghĩa quân Lam Sơn, công tác địch vận được coi là nhiệm vụ chiến lược,
gắn liền với mọi hoạt động quân sự. Dựa vào ưu thế tuyệt đối về chính
trị của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, Nguyễn Trãi luôn luôn nêu
cao tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến, tinh thần nhân đạo của
nhân dân ta, chỉ cho quân thù thấy rõ tính chất phi nghĩa, phản nhân đạo
và nguyên nhân thất bại tất yếu của chúng.
Từ năm 1425 về sau, trong mọi cuộc vây thành hay đánh
chiếm các cứ điểm quân sự của địch từ Diễn Châu, Nghệ An vào Tân Bình,
Thuận Hóa, hay Tây Đô, Chí Linh, Đông Quan..., trên cơ sở tiến công về
quân sự, Nguyễn Trãi đều kết hợp với công tác địch vận. Nguyễn Trãi đã
viết nhiều bức thư gửi cho bọn quan lại, tướng tá nhà Minh như Lý An,
Phương Chính, Đả Trung, Vương Thông, Sơn Thọ,... Công tác địch vận kết
hợp chặt chẽ với tiến công quân sự đã đem lại những thành công tốt đẹp.
Nhiều thành đầu hàng, nghĩa quân không tốn một mũi tên, ngọn giáo.
Lần này nữa, trên danh nghĩa Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã
thảo ra nhiều bức thư dụ hàng, nói rõ điều nhân nghĩa, phân biệt lẽ phải
trái, chỉ rõ lối thoát chính đáng cho kẻ thù. Những bức thư và hoạt
động địch vận đó đã góp phần làm lung lay, tan rã tinh thần quân địch
làm suy sụp sức chiến đấu của chúng.
Thành công bước đầu của việc thực hiện kế hoạch chuẩn
bị tiêu diệt viện binh địch là nhân dân các nơi đều hưởng ứng làm kế
hoạch “thanh dã”, và nghĩa quân Lam Sơn đã hạ được các thành nằm trên
hai đường tiến quân của địch.
Tháng 2 năm 1427. toàn bộ quân địch trong thành Điêu
Diêu (Gia Lâm, Hà Nội ) bị bao vây đã ra hàng các chiến sĩ nghĩa quân
Lam Sơn do Bùi Quốc Hưng và Nguyễn Chích chỉ huy.
Tháng 3 năm 1427, đơn vị nghĩa quân do hai tướng nói
trên chỉ huy lại vây thành Thị Cầu (thị xã Bắc Ninh, Bắc Ninh) và buộc
quân địch phải đầu hàng. Với chiến thắng Thị Cầu, quân ta đã giải phóng
một vùng đất đai rộng lớn, tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch,
đồng thời cắt hẳn sự ứng viện lẫn nhau giữa Đông Quan và Xương Giang.
Quân địch ở thành Xương Giang càng bị cô lập, hệ thống thành lũy của
địch từ Lạng Sơn về Đông Quan căn bản bị suy sụp.
Trong khi đó thì đơn vị nghĩa quân do Trịnh Khả và Lê
Khuyển chỉ huy cũng bao vây thành Tam Giang, án ngữ trên đường thủy bộ
từ Vân Nam sang Đông Quan. Đầu tháng 4 năm 1427, toàn bộ quân địch ở
thành này phải ra hàng quân ta.
Ở Đông Bắc, đơn vị nghĩa quân do Trần Lựu và Lê Bôi
chỉ huy đã bao vây thành Khâu Ôn, một trong các thành lũy quan trọng nằm
trên động từ Quảng Tây sang Đông Quan. Giữa tháng 2 năm 1427, sau một
thời gian vây hãm, quân địch trong thành bị cạn lương, hoang mang đến
cao độ. Một bộ phận trốn chạy về Quảng Tây, một bộ phận ở lại cố thủ bị
quân ta tiêu diệt. Cũng vào lúc đó, đơn vị của Trần Lựu và Lê Bôi lại
giải phóng luôn cả thành Trấn Di (tức Chi Lăng).
Trận đánh thành Xương Giang là trận gay go, quyết
liệt nhất trong các trận bao vây chiếm thành. Thắng lợi của trận này đã
trực tiếp dọn đường cho các thắng lợi diệt viện sau đó.
Dưới thời Minh thống trị, thành Xương Giang là trị sở
của phủ Lạng Giang bao gồm các huyện Lạng Giang, Yên Dũng, Yên Thế, Lục
Nam, Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang và huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn) là thành
lũy kiên cố nhất của giặc nằm trên đường Quảng Tây sang Đông Quan, cách
bờ sông THương 3 km về phía Bắc (cách thị xã Bắc Giang 2 km).
Thành Xương Giang thuộc vùng đất làng Thành còn gọi
là làng Đông Nham), xã Thọ Xương, thị xã Bắc Giang ngày nay. Đây là một
thành khá lớn được xây dựng trên một vùng đất cao, phía Đông Bắc có ngọn
đồi thấp, phía nam có sông Hương chảy qua. Lòng thành rộng hơn 69 mẫu
Bắc Bộ (tương đương với 25 héc-ta), có nhiều doanh trại, nhà giam và kho
lương thực. Tường thành đắp bằng đất cao và dày, bốn góc có bốn vọng
gác đắp cao hơn mặt thành. Phía ngoài thành có hào sâu bao bọc. Hiện nay
thành đã bị hủy hoại mà chân thành phía Đông Bắc vẫn còn rộng đến 25 m.
Vòng hào bao bọc quanh thành hiện nay bị lấp khá nhiều, tuy nhiên di
tích còn lại vẫn có đoạn rộng đến 15 m.
Thành Xương Giang cách Đông Quan hơn 50 km (tính theo
đường dịch trạm trước kia gần như trùng với đường quốc lộ 1A bây giờ).
Đây là một vị trí quân sự trọng yếu của địch, vừa có thể ứng cứu nhanh
chóng cho Đông Quan, vừa có thể làm chỗ dựa cho viện binh tiến sang.
Quân Minh đóng giữ thành này có khoảng trên 2.000 tên do đô chỉ huy Lý
Nhậm, tri phủ Lưu Tử Phụ và các tướng Kim Dận, Cố Phúc, Phùng Trí, Lưu
Thuận chỉ huy. Sở chỉ huy của chúng đặt trên một khu đất cao ở khoảng
giữa hơi chếch về phía Đông Bắc thành, ngày nay nhân dân vẫn gọi là “đồi
quân Ngô”.
Từ cuối năm 1426, Lê Lợi-Nguyễn Trãi đã phái các
tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Linh, Lê Thụ đem quân phối hợp với quân
vùng Lạng Giang, Khoái Châu bao vây thành Xương Giang (Phan Huy Chú Lịch
triều hiến chương loại chí (Nhân vật chí), bản dịch của Nhà xuất bàn Sử
học, Hà Nội, t.I, tr.25). Một viên tướng Minh ở thành Nghệ An đã đầu
hàng nghĩa quân, tên là Thái Phúc, đã tự nguyện đến tận Xương Giang dụ
hàng. Nguyễn Trãi cũng nhiều lần gửi thư cho bọn địch ở đây hết lời
khuyên nhủ: “Thành Xương Giang nhỏ mọn kia dám chống lại mệnh trời, nổi
giận đi đánh, nghĩa nên phải thế, sự không được đừng. Nhưng đem núi Thái
Sơn đè bẹp quả trứng, sức không chịu được bao lâu, lấy lứa đó rực đốt
cháy lông gà, thế khó đương được chốc lát. Lấy thuận mà đánh kẻ nghịch,
lo gì không phải theo; lấy sức mạnh mà đánh kẻ yếu lo gì không đánh
được. Mà còn lấy lời nói chăm chăm hiểu dụ, thật vì nhân mạng trong một
thành là hệ trọng, mà không nỡ làm cho thương tổn” (Nguyễn Trãi, Toàn
tập, Quân trung từ mệnh tập, bản dịch đã dẫn, tr.167). Nguyễn Trãi nêu
cao tinh thần nhân nghĩa và sức mạnh của nghĩa quân: “Đối với đạo quân
nhân nghĩa, kẻ nào thuận theo thì sống, kẻ nào chống lại thì chết”. Và
lấy thực tế để chỉ rõ con đường họa phúc cho chúng: “nay hãy tạm lấy một
việc trước mắt bày tỏ từng việc cho các ông nghe: các thành Tân Bình,
Thuận Hóa, Nghệ An, Diên Châu, Tam Đái, Thị Kiều, Tiền Vệ, đều may biết
thời thế, hiểu quyền biến, chuyển họa làm phúc, để cho người trong các
thành ấy có đến hơn 56.000 người đều được an toàn. Duy có một thành Khâu
Ôn, không hiểu sự biến, bo bo giữ kiến thức nhỏ, để cho người trong một
thành ngọc đá đều bị thiêu cháy, há chẳng đáng xót thương! Các ông nên
nghĩ, chớ để hối hận về sau!” (Nguyễn Trãi, Toàn tập, Quân trung từ mệnh
tập, bản dịch đã dẫn, tr.175).
Nhưng quân địch ngoan cố, liều chết cố thủ để chờ
viện binh. Quân ta khép chặt vòng vây và kiên quyết hạ thành. Khi được
tin viện binh địch sắp sang, tình hình càng trở nên khẩn trương. Lê
Lợi-Nguyễn Trãi quyết định đánh gấp chiếm kỳ được thành Xương Giang
trước khi quân địch vào biên giới nước ta. Bộ chỉ huy phái thêm thái úy
Trần Nguyên Hãn đem quân lên tiếp ứng, phối hợp với quân Lê Sát đánh
thành.
Chiến sự xảy ra ở đây vô cùng ác liệt. Quân ta đào
đường ngầm tiến vào, địch lại đào hào chặn lại. Quân ta đắp những ụ đất
làm điểm cao để đặt súng lớn (hỏa pháo) bắn vào thành (Trang bị vũ khí
ta và địch bấy giờ không khác nhau lắm. Vũ khí tối tân nhất bấy giờ là
loại súng thần cơ do Hồ Nguyên Trừng sáng chế. Hồ Nguyên Trừng bị bắt,
bày cho nhà Minh chế tạo loại vũ khí này. Vĩnh Lạc năm 12 (1412), Minh
Thành Tổ hạ lệnh cho một số nơi chế súng thần cơ. Súng có nhiều loại to,
nhỏ khác nhau, dùng đồng hoặc đồng đỏ trộn lẫn với gang đúc thành. Loại
to dùng xe lớn chở. Loại nhỏ dùng giá kéo. Minh Thành Tổ rất coi trọng
loại vũ khí này và đặc biệt tổ chức riêng đơn vị sử dụng, gọi là thần cơ
doanh - một trong ba doanh lớn của quân đội kinh sư (Minh sử, binh chí;
Dạ hoạch biên của Thẩm Đức Phù; Đại học diễn nghĩa bổ, Hỏa công luận
của Khâu Tuấn). Địch lại tung quân ra phá. Nhưng quân địch dù ngoan cố,
liều lĩnh đến đâu cũng không sao đương nổi sức công phá của nghĩa quân.
Được nhân dân địa phương hết lòng giúp đỡ, quân ta càng ngày càng thắt
chặt vòng vây và tiến công liên tục, càng đánh càng mạnh.
Theo chuyện kể dân gian thì bấy giờ nhân dân các làng
Hòa Yên, Hà Vị, Nam Xương (làng Vẽ), Đông Nham (làng Thành), Châu Xuyên
(phố Châu Xuyên, thị xã Bắc Giang) đã giúp đỡ nghĩa quân vây thành. Các
làng này ở sát thành Xương Giang nằm dưới sự khủng bố trấn áp của quân
địch ngót 20 năm trời. Căm thù quân giặc tàn bạo, nhân dân đã giúp quân
đội đào hào xuyên thành, đắp những ụ đất cao, cung cấp lương thực, sửa
chữa vũ khí, làm thang trèo thành, chuẩn bị các phương tiện đánh thành.
Nghĩa quân dùng nỏ cứng, các loại hỏa pháo, hỏa tiễn ngày đêm bắn vào
thành. Quân địch trong thành càng ngày càng hoang mang, khốn quẫn. Quân
lính bị chết quá nửa. Lương thực cạn. Số còn lại mệt mỏi, rã rời, không
còn sức chiến đấu. Nửa đêm 28 tháng 9 năm 1427 (ngày 8 tháng 9 năm Đinh
Mùi), quân ta bắc thang ào ạt đột nhập vào chiếm thành. Thành bị hạ. Bọn
tướng giặc ngoan cố phải tự tử. Toàn bộ quân giặc bị tiêu diệt.
Trải qua hơn 9 tháng bao vây bền bỉ và tiến công dữ
dội, trước sau đánh hơn 30 trận (Tiêu Hoành, Quốc triều hiến trưng lục,
t.45, q.110), nghĩa quân đã giành được thắng lợi giòn giã. Thành Xương
Giang bị hạ 10 ngày trước khi viện binh Liễu Thăng kéo tới biên giới
nước ta.
Chiến thắng Xương Giang đánh dấu một bước trưởng
thành về chiến thuật và kỹ thuật của nghĩa quân Lam Sơn. Đến đây nghĩa
quân không những giỏi đánh vận động tiêu diệt địch ngoài thành lũy, mà
còn có khả năng đánh công kiên tiêu diệt địch ngay trong các cứ điểm có
thành cao, hào sâu. phòng vệ kiên cố.
Thắng lợi của trận công phá thành Xương Giang và các
thành khác đã góp phần rất lớn củng cố hậu phương của ta, đồng thời tiêu
diệt nguồn tiếp ứng bên trong của viện binh địch, tạo điều kiện để quân
dân ta tiến lên tiêu diệt hoàn toàn lực lượng viện binh mới của nhà
Minh. Khi hai đạo viện binh của Liễu Thăng, Mộc Thạnh tiến vào thì toàn
bộ hệ thống thành lũy của địch trên đường đến Đông Quan đều bị quét
sạch.
Chiếm được thành Xương Giang, nghĩa quân đã mở rộng
thêm phạm vi kiểm soát của mình, khống chế cả phủ Lạng Giang và cô lập
quân địch trong các thành Đông Quan và Chí Linh. Từ đó thành Xương Giang
trở thành cứ điểm quan trọng của ta chặn ngang đường tiến quân của viện
binh địch. Tại đây, quân ta sẽ bao vây và mở những đợt tiến công quyết
định cuối cùng tiêu diệt đạo viện binh Liễu Thăng ngay dưới chân thành
này.
Xuất phát từ chủ trương “vây thành diệt viện”, nghĩa
quân Lam Sơn đã chuẩn bị sẵn sàng mọi điều kiện để tiêu diệt viện binh
của nhà Minh. Cuối tháng 9 năm 1427, sau chiến thắng Xương Giang, quân
địch chỉ còn chiếm giữ được bốn thành Đông Quan, Chí Linh, Cổ Lộng, Tây
Đô. Cả đất nước được giải phóng trở thành hậu phương hùng hậu đưa cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc đến toàn thắng. Bốn thành quân địch còn
cố thủ như những hòn đảo chơ vơ giữa biển cả mênh mông, sóng gió. Quân
địch bị vây hãm lâu ngày, bị tiến công dồn dập về quân sự và tinh thần
nên thế và lực ngày càng suy sụp nghiêm trọng.
“Vây thành diệt viện” là một chủ chương chiến lược
đúng đắn, sáng suốt được đề ra khá sớm và được Lê Lợi-Nguyễn Trãi kiên
trì thực hiện. Khi được tin viện binh của địch sắp sang, các nhà lãnh
đạo nghĩa quân Lam Sơn ra lệnh siết chặt hơn nữa vòng vây quanh thành
Đông Quan, cô lập triệt để khối quân của Vương Thông, ngăn chặn mọi âm
mưu liên lạc với hai khối viện binh. Từ cuối năm 1426, quân ta đã đánh
chiếm và triệt hạ dần các doanh trại và cứ điểm bảo vệ vùng ngoại vi
Đông Quan. Quân địch phải rút vào trong thành, lo đào thêm hào đắp thêm
lũy để cố thủ. Tuy nhiên, chúng văn còn giữ được vài cứ điểm bên ngoài
như ở bãi Cơ Xá về phía đông và ở gần đê Vạn Xuân về phía nam. Khoảng
giữa năm 1427, quân ta tiến công tiêu diệt cứ điểm ở bãi Cơ Xá rồi xây
một thành nhỏ để khống chế quân địch trong thành. Sau trận Xương Giang,
quân ta bất ngờ chiếm lấy đê Vạn Xuân rồi trong một đêm đắp thành chiến
lũy và từ đó, tiến công tiêu diệt cứ điểm phía nam thành Đông Quan. Toàn
bộ vùng ngoại vi Đông Quan thuộc quyền kiểm soát của nghĩa quân. Lê Lợi
ra lệnh vây chặt bốn mặt thành và “canh giữ cho nghiêm, ngày đêm tuần
xét”.
Kế hoạch chuẩn bị tiêu diệt viện binh giặc đã hoàn
thành tốt đẹp. Cả nước khẩn trương bước vào một trận quyết chiến chiến
lược với quyết tâm giành thắng lợi cuối cùng.
*****
Nghĩa quân Lam Sơn đã chuẩn bị sẵn chiến trường tiêu
diệt viện binh của địch theo hai hướng từ Quảng Tây và Vân Nam sang. Nay
15 vạn viện binh địch chia làm hai đạo, tiến sang theo cả hai hướng,
một vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng được đặt ra trước bộ tham
mưu nghĩa quân là: cùng một lúc chia quân đánh cả hai đạo viện binh hay
tập trung lực lượng tiêu diệt từng đạo một và tiêu diệt đạo nào trước?
Đây là vấn đề chọn hướng chiến lược, xác định đối tượng tác chiến chủ
yếu.
Không phải khi viện binh địch kéo sang, Lê Lợi-Nguyễn
Trãi mới suy nghĩ vấn đề trên. Trước đó, trên cơ sở phán đoán âm mưu
địch và những nguồn tin tức do thám thu thập được, bộ chỉ huy nghĩa quân
đã nghiên cứu và đề ra kế hoạch đối phó chủ động.
Hai đạo viện binh của địch gồm 15 vạn quân và 3 vạn
ngựa. Lực lượng nghĩa quân lúc đó có khoảng 35 vạn, nhưng còn phải làm
nhiệm vụ vây hãm khoảng 10 vạn quân địch trong bốn thành và bảo vệ cả
một hậu phương rộng lớn. Số quân cơ động có thể tập trung vào nhiệm vụ
diệt viện không nhiều lắm. Trong tình hình như vậy, nếu cùng một lúc
tiến đánh cả hai đạo viện binh địch thì rõ ràng binh lực của ta bị phân
tán, khó lòng giành được thắng lợi giòn giã. Ngay từ đầu, bộ chỉ huy
nghĩa quân đã chủ trương trước hết tập trung lực lượng tiêu diệt một đạo
viện binh, đồng thời sử dụng một lực lượng nhỏ kiềm chế đạo viện binh
kia. Và sau khi đánh thắng đạo thứ nhất sẽ thừa thắng tiến lên đánh bại
đạo thứ hai. Vấn đề phải giải quyết là chọn hướng nào làm hướng tiến
công chủ yếu.
Đạo quân Mộc Thạnh có 5 vạn quân và 1 vạn ngựa. Đạo
quân Liễu Thăng đông gấp đôi với 10 vạn quân và 2 vạn ngựa. Nếu tập
trung lực lượng tiêu diệt đạo quân Mộc Thạnh thì quân ta dễ giành được
thắng lợi ở hướng này. Nhưng như thế ở hướng kiềm chế, quân ta không còn
đủ lực lượng ngăn chặn đạo quân Liễu Thăng. Đây là đạo quân đông nhất,
mạnh nhất, giữ vai trò chủ yếu trong đội hình chiến lược của địch. Dù
cho quân Mộc Thạnh bị tiêu diệt, Liễu Thăng vẫn còn đủ lực lượng để có
thể tiến nhanh từ Pha Lũy vào Đông Quan. Trong trường hợp đó, ta không
thực hiện được chủ trương “vây thành diệt viện” và cuộc chiến tranh yêu
nước sẽ gặp nhiều khó khăn, bất lợi cho ta.
Do đó, Bộ chỉ huy nghĩa quân quyết định chọn đạo quân
Liễu Thăng làm đối tượng quyết chiến chủ yếu, tập trung lực lượng tiêu
diệt đạo quân này trước và kiềm chế đạo quân Mộc Thạnh ở ải Lê Hoa. Dĩ
nhiên đánh vào đạo quân Liễu Thăng, cuộc chiến đấu sẽ ác liệt, đòi hỏi
quân ta phải có quyết tâm cao, phải mưu trí và dũng cảm. Nhưng đạo quân
này bị tiêu diệt thì sẽ gây chấn động mãnh liệt, làm rung chuyển và sụp
đổ toàn bộ thế trận của địch. Đạo quân Mộc Thạnh sẽ mất chỗ dựa và tan
vỡ, tháo chạy. Viện binh bị diệt thì Vương Thông và quân địch trong các
thành, như Nguyễn Trãi đã nhận định: “Đến như bọn các ngươi, không đánh
mà bị bắt thì chẳng phải nói nữa”(Nguyễn Trãi. Toàn tập, sách đã dẫn.
tr.126). Và thắng lợi đó cũng sẽ là đòn quyết định giáng vào ý chí xâm
lược của triều đình nhà Minh.
Để thực hiện ý đồ chiến lược trên đây, bộ chỉ huy
nghĩa quân đã đề ra kế hoạch tác chiến cụ thể và chuẩn bị sẵn chiến
trường cho hướng tiến công chủ yếu cũng như hướng kiềm chế.
Kiềm chế đạo quân của Mộc Thạnh không khó khăn lắm.
Mộc Thạnh là một tướng soái cao cấp của triều Minh với tước thái phó
Kiềm Quốc công. Về chức tước, Mộc Thạnh còn cao hơn Liễu Thăng. Nhưng
trong lần cứu viện này, Mộc Thạnh chỉ cầm 5 vạn quân tiến sang để phối
hợp với đạo quân chủ lực của Liễu Thăng. Mộc Thạnh là một tướng già đã
từng trải chiến trường nước ta và đã bị đại bại, suýt bỏ mạng trong trận
Bô Cô năm 1408. Biết rõ sức mạnh quật khởi của nhân dân ta, lại chỉ huy
một đạo quân phối hợp, nên Mộc Thạnh giữ thái độ thận trọng, dè dặt.
Hắn tiến quân chậm để chờ đợi, nghe ngóng tin tức đạo
quân Liễu Thăng. Nếu Liễu Thăng tiến vào Đông Quan trót lọt thì hắn mới
từ biên giới tiến xuống phối hợp. Nhưng nếu Liễu Thăng thất bại thì hắn
sẽ kịp thời rút lui. Lê Lợi đã xét đoán: “Mộc Thạnh tuổi già, trải việc
đã nhiều, vốn đã nghe tiếng ta, tất ngồi xem Liễu Thăng thành bại chứ
không dám khinh động” (Nguyễn Trãi, Toàn tập, sách đã dẫn, tr.55).
Nắm vững vị trí, đặc điểm của đạo quân Mộc Thạnh và
nhìn nhận đúng thái độ, tư tưởng của viên tướng chỉ huy này, bộ chỉ huy
nghĩa quân chỉ sử dụng một binh lực cần thiết kiềm chế chúng ở vùng biên
giới. Tháng 5 năm 1427, tướng Trần Ban đã được lệnh lên tu sửa ải Lê
Hoa. Sau đó, Lê Lợi phái các tướng Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Nguyễn
Chích, Lê Khuyển, Lê Trung đem quân lên ải Lê Hoa, lợi dụng địa hình
hiểm trở vùng này làm nhiệm vụ kiềm chế đạo quân Mộc Thạnh.
Thắng lợi của kế hoạch “vây thành diệt viện” và toàn
bộ sự nghiệp giải phóng dân tộc sẽ được định đoạt ở hướng tiến công chủ
yếu tiêu diệt đạo quân Liễu Thăng. Nhận định về đạo quân này, Lê Lợi
nói: “Giặc vốn khinh ta, cho người nước ta nhút nhát, từ lâu vẫn sợ oai
giặc, nay nghe có đại quân đến, tất sợ hãi. Huống chi lấy mạnh đánh yếu,
lấy nhiều thắng ít, đó là lẽ thường. Giặc không thế biết hình thế được
thua của người, của mình, không biết then mây qua lại của thời vận. Vả
quân cấp cứu cần phải mau chóng, giặc tất hết sức đi gấp đường. Binh
pháp nói: đi 50 dặm để tranh lợi thì thượng tướng phải què. Nay Liễu
Thăng đến, đường sá xa xôi, người ngựa mệt mỏi. Ta đem quân nhàn rỗi
đánh quân mệt mỏi, lẽ nào không thắng” (Lam Sơn thực lục, sách đã dẫn).
Ở hướng tiến công chủ yếu này, yêu cầu đặt ra là phải
thực hiện quyết chiến, đánh mạnh thắng lớn, tiêu diệt toàn bộ đại quân
Liễu Thăng. Nhưng nếu chỉ bằng một trận duy nhất thì khó bao vây diệt
gọn một khối quân địch đông đến 10 vạn. Vì vậy, bộ chỉ huy nghĩa quân đã
bố trí một loạt trận đánh liên tiếp trên đường tiến quân của địch từ ải
Pha Lũy ở vùng biên giới cho đến Xương Giang nhằm tiêu diệt từng bộ
phận rồi tiến lên bao vây tiêu diệt toàn bộ quân địch còn lại.
Đạo quân Liễu Thăng từ Quảng Tây tiến sang qua Pha
Lũy (Hữu Nghị Quan hiện nay) tất phải theo con đường độc đạo Khâu Ôn,
Chi Lăng, Xương Giang rồi về Đông Quan dài trên 400 dặm (theo đường xe
lửa Hà Nội-Đồng Đăng hiện nay, dài 163 km). Quãng đường dài đó xuyên
rừng núi trùng điệp Lạng Sơn, qua trung du Lạng Giang và đồng bằng Bắc
Giang (nay là vùng Bắc Ninh) với nhiều sông ngòi dày đặc. Trên con đường
đó đã từng diễn ra nhiều chiến công oanh liệt trong lịch sử chống ngoại
xâm của dân tộc ta. Lê Hoàn đã phá quân Tống và Trần Quốc Tuấn đã diệt
quân Nguyên ở chốn này. Giờ đây Lê Lợi-Nguyễn Trãi lại chọn vùng Lạng
Sơn, Lạng Giang làm chiến trường quyết chiến.
Đặc điểm lớn nhất về địa thế vùng biên giới Lạng Sơn
là rừng núi chen khít nhau. Từ Pha Lũy đến Cần Trạm, đường đi men núi,
dọc theo các thung lũng nhỏ hẹp. Đây là địa bàn hiểm trở, tiện cho việc
giấu quân; mai phục và đánh úp đều tiện lợi. Ngay quân Minh cũng phải
nói: “Pha Lũy, Khâu Ôn, ải Lưu là nơi cổ họng của Giao Chỉ” (Lý Văn
Phượng, Việt kiệu thư, sách chữ Hán, chép tay. q.2).
Tận dụng địa hình núi rừng hiểm yếu, bộ chỉ huy nghĩa quân bố trí thế trận và lực lượng đánh địch như sau:
Tướng Trần Lựu, Lê Bôi đã đem quân lên đóng giữ ải
Pha Lũy từ trước. Hai tướng được lệnh khi giặc đến thì “ra đánh nhưng
giả cách không thắng” (Lam Sơn thực lục sự tích, bản của dòng họ Lê Sát ở
Yên Định, Thanh Hóa, do Ban lịch sử tỉnh Thanh Hóa mới phát hiện). Đó
là những trận đánh nhử địch nhằm kích động thêm tính chủ quan, khinh
địch của Liễu Thăng, đồng thời từng bước dẫn dắt chúng tiến về phía Chi
Lăng.
Tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Linh, Đinh Liệt, Lê
Thụ, Lê Lỗng, Phạm Văn Liêu (Gia phả họ Phạm ở xã Xuân Hương, huyện Lạng
Giang. Bắc Giang) đem 1 vạn quân tinh nhuệ, 100 ngựa và 5 voi chiến
tiến lên bố trí mai phục sẵn ở ải Chi Lăng.
Tiếp theo đó, tướng Lê Lý, Lê Văn An đem 3 vạn quân
lên tiếp ứng và chuẩn bị sẵn một trận mai phục ở Cần Trạm phía dưới Chi
Lăng.
Tại Xương Giang, tướng Trần Nguyên Hãn được lệnh gấp
rút biến thành này thành một pháo đài án ngữ đường tiến quân của địch về
Đông Quan và sẵn sàng phối hợp với các lực lượng nghĩa quân bao vây
tiêu diệt số quân địch còn lại. Tướng Trần Lựu sau khi thực hiện kế
hoạch diệt địch ở Chi Lăng sẽ rút quân đóng tại Thị Cầu (thị xã Bắc
Ninh) kết hợp với quân Trần Nguyên Hãn chặn địch ở vòng ngoài mặt nam.
Tại sở chỉ huy, Lê Lợi-Nguyễn Trãi trực tiếp theo
dõi, chỉ đạo kế hoạch diệt viện và duy trì một lực lượng dự bị cần thiết
để tiếp ứng cho các mặt trận. Công tác hậu cần bảo đảm việc tiếp tế
binh lương, chiến khí cho quân đội cũng được chuẩn bị chu đáo và giao
cho tướng Nguyễn Công Chuẩn phụ trách (Gia phả họ Nguyễn ở Bồng Trung,
huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Một khối lượng lương thực khá lớn được
chuyển đến tích trữ sẵn trong thành Xương Giang. Phối hợp với kế hoạch
đánh địch bằng quân sự, Nguyễn Trãi còn chuẩn bị kế hoạch đánh địch về
tinh thần phát huy vũ khí “đánh vào lòng địch”. Nguyễn Trãi nghiên cứu
kỹ đặc điểm và tâm lý của bọn tướng giặc để tác động mạnh vào tinh thần
của bọn chúng: khi thì kích động làm cho chúng thêm kiêu căng, liều
lĩnh, khi thì vận động, thuyết phục làm cho không thêm hoang mang, rã
rời.
Như vậy là bộ chỉ huy nghĩa quân đã huy động khoảng 5
vạn quân vào hướng tiến công chủ yếu. Quân số của ta chỉ bằng nửa quân
địch, nhưng đó là một quân đội dân tộc tinh nhuệ đã trải qua gần 10 năm
chiến đấu.
Đại đa số nghĩa quân là những nông dân nghèo khổ từ
khắp nơi của đất nước, do yêu nước và căm thù giặc, tập hợp lại. Có
những người đã có mặt trong đội quân thiết đột từ những ngày đầu khởi
nghĩa và tháng ngày chiến đấu gian khổ ở Lam Sơn, Chí Linh. Họ đã đi
khắp các chiến trường, đánh phục kích, tập kích, đánh công thành. Họ từ
căn cứ Thanh, Nghệ, từ chiến trường Tân Bình, Thuận Hóa và đồng bằng
sông Hồng, nay vượt núi băng sông kéo lên vùng Lạng Sơn, Lạng Giang với
quyết tâm giành thắng lợi oanh liệt nhất cho dân tộc. Đó là một quân đội
kiên cường, bất khuất, có bản lĩnh chiến đấu cao và sức chiến đấu bền
bỉ, dẻo dai.
Chỉ huy các đạo quân diệt viện lần này dầu là những tướng lĩnh xuất sắc, mưu trí, dũng cảm của nghĩa quân Lam Sơn.
Trần Lựu, Lê Sát, Lê Linh , Đinh Liệt, Lê Văn An, Lê
Lỗng, Phạm Văn Liêu là những người ở vùng Lam Sơn tham gia khởi nghĩa từ
ngày đầu.
Lê Sát đã đánh trận Khả Lưu (1424), một trong những
người chỉ huy nghĩa quân bao vây và hạ thành Xương Giang trước khi tiến
quân lên Chi Lăng.
Trịnh Khả, Trần Lựu là những người đã có mặt ở lễ thề
Lũng Nhai năm 1416: Trịnh Khả đã chỉ huy nghĩa quân giải phóng các vùng
Thiên Quan, Quảng Oai, Gia Hưng, Tam Đái, Tuyên Quang và đã góp phần
lập nên chiến thắng Tốt Động-Chúc Động.
Nguyễn Chích là người đã chỉ huy một “làng chiến đấu”
đánh địch ở vùng Đông Sơn (Thanh Hóa), rồi tiến lên lập căn cứ Hoàng
Sơn- Nghiêu Sơn (Nông Cống và Đông Sơn-Thanh Hóa) hoạt động ở vùng nam
Thanh Hóa, bắc Nghệ An trước khi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Ông là vị
tướng xuất sắc nổi tiếng với kế hoạch chiến lược tiến quân vào Nghệ An
xây dựng căn cứ mới cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và dã góp phần tích cực
vào việc giải phóng Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa (Văn bia Quốc Triều tả
mệnh công thần Nguyễn Chích do Trình Thuấn Du soạn năm 1450. Theo văn
bia, ông cùng Trịnh Khả chặn viện binh Mộc Thạnh ở Lê Hoa). Đầu năm
1427, ông chỉ huy nghĩa quân giải phóng thành Điêu Diêu, Thị Cầu.
Trần Nguyên Hãn, người Lập Thạch (Vĩnh Phúc), dòng
dõi quý tộc nhà Trần, đã dựng cờ đấu tranh tại trang Sơn Đông, quê hương
ông, trước khi theo Lê Lợi, ông đã đứng đầu các đạo quân giải phóng Tân
Bình, Thuận Hóa. Năm 1427, ông là tổng chỉ huy cuộc bao vây hạ thành
Xương Giang.
Phạm Văn Xảo người Kinh Lộ (vùng Thăng Long) đã tham
gia nhiều chiến trận: bao vây Tây Đô (1425); giải phóng Thiên Trường,
Trường Yên, Tân Hưng, Kiến Xương (1426).
Nguyễn Công Chuẩn là tướng hậu cần tham gia khởi
nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu. Suốt trong 10 năm kháng chiến, ông đã
lo liệu bảo đảm việc cung cấp hàng vạn thạch gạo, mưuối và chiến khí cho
nghĩa quân. Trải qua những ngày tháng hiểm nghèo ở núi Chí Linh hoặc
trong thời kỳ tiến quân vào Nghệ An lập căn cứ hay ra Bắc diệt địch trên
các chiến trường Ninh Kiều, Tốt Động, Nguyễn Công Chuẩn đều hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ tiếp tế lương thực, vũ khí.
Nghĩa quân Lam Sơn lại luôn luôn chiến đấu trong sự
tham gia, ủng hộ về mọi mặt của nhân dân. Cùng sát cánh chiến đấu với
nghĩa quân, có những đội dân binh địa phương giữ vai trò quan trọng.
Đạo quân của Liễu Thăng tuy đông và hung hăng nhưng
phải tiến quân vào một địa bàn hết sức bất lợi do quân ta làm chủ và đã
bố trí sẵn một thế trận lợi hại.
Quân địch rất đông, hậu cần nặng nề, lại phải hành
quân trên một con đường độc đạo hẹp, hai bên là núi rừng trùng điệp. Đội
hình hành quân của địch do đó phải kéo dài hàng mấy chục dặm, lực lượng
bị dàn mỏng và khó lòng tập trung lại thành một khối khi bị tiến công.
Nắm vững nhược điểm đó của quân địch, bộ chỉ huy nghĩa quân bố trí những
trận đánh nhử địch ở vùng biên giới để kích động thêm tính chủ quan
khinh địch của Liễu Thăng, tăng thêm nhân tố bất ngờ cho những trận đánh
tiếp theo và dẫn dắt quân địch vào những trận địa mai phục đã chuẩn bị
sẵn ở Chi Lăng, Cần Trạm. Nhiệm vụ của những trận phục kích đó là giáng
những đòn sấm sét vào đội hình hành quân của địch, tiêu diệt từng bộ
phận quan trọng sinh lực dịch, nhất là bộ phận tiên phong, bộ phận chỉ
huy đầu não và bộ phận hậu cần. Cuối cùng quân dân ta sẽ chặn đứng số
quân địch còn lại ở trước thành Xương Giang rồi tập trung binh lực bao
vây chặt và tiêu diệt gọn.
Tiêu diệt toàn bộ đạo quân tiếp viện chủ yếu của Liễu
Thăng nhằm đập tan những cố gắng chiến tranh cao nhất của kẻ thù, đè
bẹp ý chí xâm lược của nhà Minh, đó là mục đích và quyết tâm sắt đá của
quân và dân ta trong trận quyết chiến chiến lược có ý ngnĩa quyết định
thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến tranh giải phóng lúc bấy giờ. Công
việc chuẩn bị chiến trường về mọi mặt được nghiên cứu tính toán một cách
khoa học và thực hiện với tinh thần rất chủ động, tích cực.
*****
Mười ngày sau chiến thắng hạ thành Xương Giang của
nghĩa quân Lam Sơn, tức ngày 8 tháng 10 năm 1427 (18 tháng 9 năm Đinh
Mùi), đạo quân của Liễu Thăng đột nhập vào biên cảnh nước ta. Quân ta do
tướng Trần Lựu chỉ huy, giữ cửa ải Pha Lũy, thực hiện đúng kế hoạch vừa
đánh vừa rút lui nhử địch vào trận địa quyết chiến.
Liễu Thăng tiến vào cửa Pha Lũy, Trần Lựu đem quân
đánh rất mạnh rồi nhanh chóng lui về giữ Khâu Ôn. Quân giặc lại ào ạt
đuổi theo chiếm lấy thành Khâu Ôn. Quân địch vừa chiếm thành này thì
Liễu Thăng nhận được thư Lê Lợi xin rút quân về biên giới để xem xét
tình hình. Bức thư nêu rõ: 20 năm nhà Minh gây chiến tranh là 20 năm đau
khổ cho cả người Trung Quốc mà “cái được không bù nổi cái mất”, “mưu
mẹo lo lắng không hàn gắn nổi vết thương nặng”, còn phía nghĩa quân luôn
luôn chiến đấu vì nghĩa lớn, thực hiện điều nhân, bọn quan lại và quân
đội nhà Minh bị bắt có trên một vạn người đều được thu nuôi đầy đủ đối
đãi tử tế. Bức thư có đoạn viết: “Các ông ví xét rõ sự tình thời thế,
đóng đại quân lại, rồi đem việc hòa giải của tất cả các quan lại, quân
dân nói trên kia làm tờ sớ tâu rõ công việc về triều đình, tôi cũng liền
lập tức cho đúc người vàng, mang tờ biểu, tiến cống thổ sản địa phương.
Còn các bầy tôi trong triều may ra biết đem đường lối thẳng thắn can
ngăn vua: lại làm việc dấy kẻ bị diệt, nối lại dòng kẻ mất gốc mà tránh
được việc phi lý dùng binh đến cùng, khoe khoang vũ lực như thời Hán,
Đường... Làm như thế thì các ông có thể ngồi yên đó mà hưởng thành công.
Mà nước lớn sẽ trọn được đạo “lạc thiên”, nước nhỏ cũng tỏ được lòng
thành thực “úy thiên”“ (Nguyễn Trãi, Toàn tập (phần Quân trung từ mệnh
tập), sách đã dẫn, tr.178. Theo thư gửi Kiềm Quốc công Mộc Thạnh thì Lê
Lợi gửi thư cho Liễu Thăng khi hắn đến Khâu Ôn (xem sách trên, tr.150).
Nhận được thư, Liễu Thăng không thèm để ý, cứ một mực
tiến quân. Trần Lựu rút về giữ ải Lưu. Liễu Thăng lại đuổi theo chiếm
lấy ải Lưu (Sử cũ không cho biết cụ thể về địa điểm này. Theo Hoàng Phúc
ghi chép trong tập Phụng sứ An Nam thủy trình nhật ký thì từ Khâu Ôn
đến ải Lưu phải đi mất một ngày. Từ ải Lưu đến Chi Lăng chỉ đi nửa ngày
(tính theo hành trình của Hoàng Phúc). Theo ghi chép của Lý Văn Phượng
(Việt kiệu thư) thì đường hành quân của Trương Phụ vào nước ta năm 1406
cũng gần như trên. “Tháng 10 ngày Đinh Mùi, Trương Phụ đến Bằng Tường.
Ngày hôm ấy vào Pha Lũy. Ngày mậu thân (hôm sau), đại quân đến Khâu Ôn.
Ngày Kỷ Dậu (hôm sau nữa), đi tuần thám đến ải Lưu. Ngày hôm ấy, bọn
phiêu kỵ tướng quân tiến phá được cửa quan Kê Linh (Chi Lăng)”. Vậy ải
Lưu nằm phía gần Chi Lăng hơn gần Khâu Ôn. Theo hành trình của Hoàng
Phúc thì từ Khâu Ôn đến ải Lưu phải đi 1 ngày trên 40 dặm. Vậy ải Lưu
phải ở khoảng giữa hai xã Nhân Lý và Mai Sao (thuộc Chi Lăng ngày nay).
Điều này cũng phù hợp với truyền thuyết nhân dân vùng Quang Lang: quân
ta nhử giặc Liễu Thăng từ phía bắc sông Kỳ Cùng (quãng thị xã Lạng Sơn)
đến vùng Lạng Nắc, rồi nhử giặc từ Lạng Nắc đến ải Chi Lăng. Chúng tôi
kết hợp các tài liệu trên cho rằng ải Lưu nằm khoảng Lạng Nắc, hoặc trên
đó không xa lắm, vùng giáp giới hai xã Nhân Lý và Mai Sao huyện Chi
Lăng ngày nay).
Trần Lựu rút về Chi Lăng mai phục. Khi Liễu Thăng
chiếm ải Lưu, Lê Lợi lại tiếp tục gửi cho Liễu Thăng một bức thư khuyên
nên lui binh, không nên đi sâu vào đất người sẽ hối không kịp. Bức thư
có đoạn viết: “Các ông là tướng lão luyện của thiên triều, vâng mệnh
(đem quân) ra ngoài cõi; công việc ngoài (đô) thành, mình tự chuyên là
được rồi. Sao không xét rõ thời nghi, tùy tiện sắp việc, lui quân ra
ngoài cõi, sai một viên sứ giả mang thư đến xem hư thực... Nay các ông
không nghĩ đến việc ấy, đem quân cô độc đi sâu vào đất người cầu may nên
được công việc. Tôi không cho việc làm ấy của các ông là phải. Vả lại
con ong cái bọ còn có nọc độc, huống chi trong nước tôi không có người
nào là người có mưu kế dũng lược hay sao? Các ông chớ cho nước tôi là ít
người mà coi thường. Đến lúc ấy thì lòng thành của nước tôi thờ nước
lớn thực có phần thiếu, mà các ông hối lại sẽ không kịp” (Nguyễn Trãi,
Toàn tập (phần Quân trung từ mệnh tập), bản dịch đã dẫn, tr.169).
Nhận được thư lần này, Liễu Thăng càng tỏ ra chủ quan, khinh thường quân ta và vẫn cứ một mực tiến quân.
Khu di tích lịch sử Ải Chi Lăng (Ngọc Viên)
|
Bấy giờ nhiều tướng giặc rất lo ngại vì thấy ải Chi
Lăng hiểm yếu, sợ có phục binh. Lang trung bộ lại Sử An và chủ sự Trần
Dung yêu cầu tham tán quân vụ là thượng thư Lý Khánh phải hết sức can
ngăn Liễu Thăng không nên kiêu căng khinh địch, cần đề phòng phục binh.
Lý Khánh đang ốm cũng gượng dậy khuyên Liễu Thăng. Đô sự Phan Nhân cũng
nhắc lại các trận thất bại ở Cần Trạm, Ninh Kiều trước kia, khuyên Liễu
Thăng nên cẩn thận và phái quân đi do thám tình hình. Nhưng Liễu Thăng
càng ngạo mạn không nghe những lời khuyên bảo đó.
Liễu Thăng là viên tướng đã tham gia nhiều cuộc chiến
tranh trong thời Minh Thành Tổ (1403-1425). Y lập nhiều chiến công nên
được thăng quan tiến chức rất nhanh. Từ một viên bách hộ chỉ huy vài
trăm quân, Liễu Thăng được phong làm đô chỉ huy thiêm sự tham gia đạo
quân xâm lược nước ta của Trương Phụ (1406-1407). Sau khi đánh bại nhà
Hồ, Liễu Thăng được phong đến An Viễn bá, ăn lộc 1.000 thạch thóc. Rồi
sau ba lần tham gia Bắc chinh đánh Mông Cổ, Liễu Thăng lại được phong
đến tước hầu, ăn lộc 1.500 thạch thóc, hàm thái tử thái bảo, và trở
thành một quan chức cao cấp của triều đình nhà Minh. Chức cao, tước lớn,
lại nắm trong tay quyền chỉ huy 10 vạn quân tiến vào nước ta không gặp
sự kháng cự nào đáng kể, Liễu Thăng càng hết sức kiêu căng khinh thường
quân ta. Nắm được nhược điểm này, Lê Lợi-Nguyễn Trãi lại gửi thư xin
Liễu Thăng rút quân, càng làm cho y thêm chủ quan. Thăng ra lệnh tiếp
tục tiến quân. Theo lệnh Liễu Thăng, quân Minh cứ ào ạt tiến thẳng về
phía ải Chi Lăng trong tư thế “đắc thắng”.
Về những trận đánh nhử địch nói trên, sử cũ ghi chép
rất sơ lược. Nhưng rõ ràng Trần Lựu đã thực hiện kế hoạch rất tài tình.
Liễu Thăng thực sự “đã thua kế” (Bình Ngô đại cáo). Trần Lựu, người
Thanh Hóa, tham gia khởi nghĩa từ buổi Lũng Nhai (năm 1416), đã trải qua
nhiều trận mạc. Trước đó, tháng 7 năm 1427 (tháng 6 năm Đinh Mùi, Trần
Lựu và Lê Bôi lên trấn giữ vùng biên giới Lạng Sơn giải phóng Khâu Ôn,
đã phá tan đạo viện binh của Trấn Viễn hầu Cố Hưng Tổ từ Quảng Tây tiến
sang. Nghĩa quân đã chém 3.000 tên giặc, bắt 500 ngựa (Theo gia phả họ
Trần, thì Trần Lựu đã từng chỉ huy trận tiêu diệt cứ điểm địch ở Yên Lộ
(nay thuộc huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa), bảo vệ căn cứ Lam Sơn trong thời
gian đầu (1418-1423)). Trần Lựu và Lê Bôi đã lập chiến công xuất sắc.
Lần này với số quân rất ít. Trần Lựu có nhiệm vụ vừa đánh vừa rút lui
thế nào để vừa bảo vệ được mình lại đánh lừa được địch. Các trận đánh
nhử địch của Trần Lựu diễn ra từ Pha Lũy đến Chi Lăng trên quãng đường
độc đạo hiểm trở dài trên 60 km, hai bên là núi đá dựng đứng.
Thực hiện thành công việc nhử địch trên một quãng
đường dài hiểm trở, dẫn chúng tiến nhanh và rất chủ quan vào trận địa
quyết chiến bố trí sẵn là một thắng lợi to lớn của quân ta. Thắng lợi đó
đã góp phần quan trọng tạo ra nhân tố bất ngờ cho trận phục kích Chi
Lăng. Những trận rút lui tài tình của Trần Lựu thực sự đã mở đường dẫn
đến đại thắng trên chiến trường này.
*****
Đường vào ải Chi Lăng (Ngọc Viên)
|
Chi Lăng là ải hiểm trở nhất trên đường từ Pha Lũy sang Đông Quan; cách Pha Lũy khoảng hơn 60 km; cách Đông Quan khoảng 100 km (tính theo chiếu dài đường sắt Hà Nội - Hữu Nghị Quan, đường hành quân ngày xưa căn bản cũng gần trùng với đường này). Ải Chi Lăng ngày nay thuộc xã Chi Lăng, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn, bắc giáp xã Quang Lang, đông giáp xã Sơn Hậu (Lục Ngạn, Hà Bắc), tây giáp xã Y Tịch, nam giáp xã Hòa Lạc (Hữu Lũng, Lạng Sơn).
Ải Chi Lăng là một thung lũng nhỏ, hình bầu dục, hai
đầu nam bắc thu hẹp, gần như khép kín. Chiều dài ải Chi Lăng khoảng 4
km, chỗ rộng nhất hơn 1 km. Phía tây là dãy núi đá lởm chởm, vách núi
dựng đứng (ngày nay gọi là dãy núi Cai Kinh, tên một lãnh tụ phong trào
chống Pháp cuối thế kỷ XIX hoạt động ở vùng này). Phía đông là núi đá
Quỷ Môn, núi đá Phượng Hoàng liền với dãy núi đất thuộc hệ núi Thái Hòa
và Chi Lăng. Dòng sông Thương bắt nguồn từ núi Kháo (dốc Sài Hồ) men
theo sườn núi Cai Kinh, chảy qua các huyện Chi Lăng, Hữu Lũng (thuộc
Lạng Sơn), Lạng Giang (thuộc Bắc Giang), rồi xuôi về ngã ba Nhãn xuống
sông Lục Đầu...
Núi Quỷ Môn quan (Ngọc Viên)
|
Dãy núi Chi Lăng dốc đứng và dãy núi Thái Hòa trùng
điệp là những bức thành cao chắn hai ngả đông tây, khép lấy thung lũng
Chi Lăng cùng với các ngọn núi đá nhỏ bên trong làm cho cửa ải này thêm
hiểm trở. Ải Chi Lăng lại nằm trên đường độc đạo, nên càng chiếm giữ một
vị trí quân sự vô cùng quan trọng ngày xưa.
Núi rừng Chi Lăng đã chứng kiến nhiều chiến công oanh
liệt của dân tộc ta. Tháng 4 năm 981, quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ
huy, kéo sang xâm lược, bị Lê Hoàn phá tan ở đây (Theo Khâm định Việt sử
thông giám cương mục. Tuy nhiên, cũng có học giả cho rằng Hầu Nhân Bảo
bị đánh tan ở Bạch Đằng. Xin ghi lại để bạn đọc tham khảo). Cuối năm
1076, đạo quân người Tày do phò mã Thân Cảnh Phúc chỉ huy, trấn giữ cửa
ải này đã buộc quân Tống phải vòng về phía tây tiến xuống. Cuối thế kỷ
thứ XIII, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên, vua tôi nhà Trần cũng đã
lấy Chi Lăng làm vị trí đóng quân ngăn chặn địch. Nhưng Chi Lăng lừng
danh nhất trong lịch sử chính vì nơi đây, trong thế kỷ thứ XV, đã ghi
thêm chiến công rực rỡ giết chết tổng binh thái tử thái bảo An Viễn hầu
Liễu Thăng, viên chủ soái cầm đầu cả hai đạo quân viện binh giặc và tiêu
diệt hàng vạn quân Minh.
Với vị trí quân sự quan trọng, quân Minh đã coi Chi
Lăng là “cổ họng của Giao Chỉ”; là “nơi hiểm yếu đại quân ra vào”. Từ
ngày đầu mới đặt chân lên nước ta, chúng đã đổi Chi Lăng thành Trấn Di.
Chúng xây thành lũy, dựng doanh trại, đặt vệ sở và lấy làm trị sở của
huyện Trấn Di, phủ Lạng Sơn (Nhà Minh đặt Lạng Sơn thành một phủ (bao
gồm tỉnh Lạng Sơn và phần lớn tỉnh Cao Bằng), gồm 7 châu, 5 huyện. Bảy
châu là: Thượng Văn, Hạ Văn, Thất Nguyên, Vạn Nhai, Quảng Nguyên, Thượng
Tư, Hạ Tư. Năm huyện là: Khâu Ôn, Trấn Di, Uyên Huyện, Đan Ba và Thoát
Huyện. Khâu Ôn là vùng phía bắc huyện Chi Lăng, huyện Cao Lộc và thị xã
Lạng Sơn ngày nay. Trấn Di bao gồm huyện Chi Lăng và phần bắc huyện Hữu
Lũng ngày nay (xem Lý Vân Phượng, Việt kiệu thư, Cố Tổ Vũ, Độc sử phương
dư kỷ yếu, dư địa tổng đồ, q.4, An Nam đồ thuyết). Chúng dùng Chi Lăng
làm một căn cứ quân sự trọng yếu để trấn áp phong trào yêu nước của nhân
dân ta, trước hết là vùng nam Lạng Sơn và để khống chế con đường giao
thông quan trọng nối liền Đông Quan với Quảng Tây. Hiện nay, ở Chi Lăng
có hệ thống thành lũy tương truyền do quân Minh xây dựng. Phía bắc ải có
thành đất kéo dài từ chân núi Cai Kinh nối liền núi Hàm Quỉ, núi Nà
Nông và núi Nà Sản rồi lao qua các sườn núi Thái Hòa chạy về phía đông.
Ngoài thành có bãi cắm chông và hào sâu. Di tích còn lại hiện nay có chỗ
vẫn còn cao đến 6 m, chiều sâu của hào 4 m. Phía nam ải cũng còn có một
thành đất nối liền ngõ Thề với núi đá Cai Kinh là núi đất Thái Hòa. Vết
tích đoạn thành này có nơi cao trên 1 m, mặt thành rộng đến 5 m. Hai
đường thành bắc và nam là hai chiến lũy quan trọng khiến địa thế Chi
Lăng càng thêm hiểm yếu.
Khu di tích lịch sử Ải Chi Lăng (Ngọc Viên)
|
Núi cao thành lũy chắn cả bốn phía trên một diện tích
không rộng lắm khiến cho địch khi lọt vào trận địa Chi Lăng tự nhiên
như bị bao vây ép chặt vào một túi sâu khó thoát, bị dồn vào “đất chết”.
Đối với nghĩa quân thì núi sông kết hợp với hành lũy
lại là nơi giấu quân bày trận thuận lợi. Các ngọn núi nhỏ trong ải,
những hang đá và thành lũy là bức tường che mắt quân địch, hạn chế tầm
quan sát và cơ động của chúng. Các tướng Lê Sát, Lê Nhân Chú, Lê Linh,
Đinh Liệt, Lê Thụ, Lê Lỗng chỉ huy hơn 1 vạn quân, 100 ngựa và 5 voi
chiến đã chia quân chiếm giữ các vị trí lợi hại, mai phục sẵn chờ giặc.
Nghĩa quân Lam Sơn chọn nơi đây làm trận địa tiến công thứ nhất. Quân
mai phục của ta đã ở trong tư thế sẵn sàng chiến thắng và đang chờ đợi
ngày giờ diệt giặc. Đó là thế trận “phục binh giữ hiểm đập gãy tiền
phong” (Bình Ngô đại cáo).
Đội quân của tướng Trần Lựu cũng rút về ải Chi Lăng, phối hợp với lực lượng mai phục chuẩn bị chiến đấu.
Phía trước ải Chi Lăng, trên đường tiến quân của
địch, quân dân ta dựa vào thế núi dựng rào lũy vừa đề nghi binh đánh lừa
Liễu Thăng, vừa để sẵn sàng đánh vào đội hình hành quân dài của địch
phối hợp với trận chặn đánh tiền quân ở ải Chi Lăng.
Ngày 10 tháng 10 (ngày 20 tháng 9 năm Đinh Mùi), Liễu
Thăng với tư tưởng chủ quan kiêu ngạo cao độ, đích thân dẫn hơn 100
quân kỵ hung hăng mở đường tiến vào cửa ải (Theo Đông Lý văn tập của
Dương Sĩ Kỳ (đầu đời Minh) và Thông giám tập lãm (1767 đời Thanh) thì
Liễu Thăng khinh suất, cầm đầu 100 quân kỵ đi trước). Tướng Trần Lựu lại
đem quân khiêu chiến rồi “giả vờ thua chạy” (Lam Sơn thực lục).
Từ Pha Lũy đến Chi Lăng, trên chặng đường dài đó, Liễu Thăng chỉ thấy đội quân Trần Lựu vừa đánh vừa chạy. Khinh địch và tức tối, Liễu Thăng thúc quân đuổi theo, bám sát Trần Lựu, tiến vào ải Chi Lăng. Tiền quân của địch tiến theo sau. Đội kỵ binh của Liễu Thăng vượt qua cửa ải phía bắc, tiến đến chân núi Mã Yên.
Từ Pha Lũy đến Chi Lăng, trên chặng đường dài đó, Liễu Thăng chỉ thấy đội quân Trần Lựu vừa đánh vừa chạy. Khinh địch và tức tối, Liễu Thăng thúc quân đuổi theo, bám sát Trần Lựu, tiến vào ải Chi Lăng. Tiền quân của địch tiến theo sau. Đội kỵ binh của Liễu Thăng vượt qua cửa ải phía bắc, tiến đến chân núi Mã Yên.
Núi Mã Yên
|
Ngay lúc đó, phục binh ta bốn mặt nhất tề xông ra
chiến đấu. Đội quân khiêu chiến của Trần Lựu lập tức quật trở lại, phối
hợp tác chiến. Cuộc chiến đấu diễn ra thật bất ngờ, mau lẹ. Mở đầu trận
đánh, đội tượng binh cửa ta thúc voi tiến vào trận địa (Lịch triều hiến
chương loại chí, Nhân vật chí, truyện Lê Sát, Lê Nhân Thụ đều chép quân
và voi ta mai phục ở Chi Lăng).
Lược đồ trận ải Chi Lăng
|
Liễu Thăng thạch tương truyền là hình Liễu Thăng chết trận
|
Khi đội kỵ binh của Liễu Thăng tiến đến chân núi Mã
Yên thì một bộ phận tiền quân địch cũng đã lọt vào ải Chi Lăng. Quân mai
phục của ta từ các hang đá, sườn núi trong lòng ải và các bờ thành tiếp
tục xông ra tiêu diệt giặc nhằm thực hiện đúng kế hoạch “đập gãy tiên
phong” (Bình Ngô đại cáo).
Cái chết của Liễu Thăng, tên chủ tướng đứng đầu cả
hai đội viện binh, là đòn phủ đầu choáng váng đánh mạnh vào tinh thần
quân địch. Đúng như Vương Thế Trinh ghi lại trong bài An Nam chí (được
chép trong Hiến trưng lục): “Đại quân (chỉ quân Minh - TG) phía sau nghe
tin ấy đều tự tan chạy”. Bị đánh bất ngờ, địch vô cùng hoang mang, lại
mất chủ tướng, quân lính càng rối loạn. Thừa thắng, quân ta chia cắt đội
hình của địch ra tiêu diệt. Quân chủ lực và dân binh địa phương từ khắp
ngả lao ra hiệp đồng tác chiến. Theo sử ta thì số địch bị tiêu diệt đến
10.000 tên (Đại Việt sử ký toàn thư, bản đã dẫn, tr.44). Quân ta thu
được và thiêu hủy nhiều chiến khí của địch.
Diễn biến trận đánh không chỉ bó hẹp trong lòng ải
Chi Lăng. Theo các cụ già ở Quang Lang kể lại, trận đánh Liễu Thăng đã
diễn ra từ Chi Lăng đến làng Đăng, làng Cóc (thuộc xã Quang Lang). Bấy
giờ ở xóm Lựu, làng Đồng Mỏ, xã Quang Lang có Đại Huề (còn gọi là Lý
Huề), một người yêu nước đã tập họp nhân dân trong thôn xóm lập ra đội
“tuần đinh, tuần tráng” phối hợp với nghĩa quân tiêu diệt địch (Tuần
đinh, tuần tráng là dân binh của làng xã, do nhân dân tự tồ chức. Họ bám
đất, bám quê để bảo vệ xóm làng và khi giặc ngoại xâm tràn đến thì phục
vụ chiến đấu và cùng phối hợp chiến đấu với quân đội tập trung). Như
thế chiến trường diệt địch đã diễn ra trong một thung lũng dài hơn 8 km,
rộng khoảng 1 km, có dòng sông Thương chạy dọc thung lũng.
Chiến thắng Chi Lăng đã giáng cho quân địch một đòn
sét đánh, giết chết chủ soái, tiêu diệt một phần sinh lực tinh nhuệ của
địch, làm đảo lộn cả kế hoạch tác chiến, gây rối loạn cao độ trong hàng
ngũ địch.
Chiến thắng giòn giã ở Chi Lăng đã cổ vũ mạnh mẽ tinh
thần chiến đấu của quân dân ta. Đó là chiến thắng quan trọng, mở màn và
thúc đẩy hàng loạt chiến thắng sau đó. Đúng như Lý Tử Tấn (1378-1457),
nhà thơ đương thời có tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, người bạn chiến đấu
của Nguyễn Trãi, đã nói:
Tiếng trống nổi vang, ba quân thật hùng cường bội sức,
Ngọn cờ thẳng tiến, các tướng đều hăng hái liều thân,
Pha Lũy, Chi Lăng oai hùng vang dội.
(Lý Tử Tấn - Phú Xương Giang)
Ngọn cờ thẳng tiến, các tướng đều hăng hái liều thân,
Pha Lũy, Chi Lăng oai hùng vang dội.
(Lý Tử Tấn - Phú Xương Giang)
*****
Sau khi bị quân ta “đập gãy tiên phong”, tiêu diệt 1
vạn quân, giết chết chủ tướng Liễu Thăng, tinh thần và thế tiến công của
địch bị giảm sút nhiều. Tuy nhiên, địch vẫn còn đến 9 vạn quân. Chúng
còn đủ sức vượt qua ải Chi Lăng để cố tiến về Đông Quan. Về phía mình,
quân ta cũng “mở đường” (Lê triều thông sử, truyện Lê Sát) cho quân địch
tiến xuống để chúng tự dẫn thân vào các trận địa mai phục ta đã bố trí
sẵn, tiếp tục giáng cho chúng những đòn quyết liệt khác.
Ngày 15 tháng 10 (25 tháng 9 năm Đinh Mùi), các tướng
Lê Lý và Lê Văn An chỉ huy 3 vạn quân kịp thời lên tiếp ứng cho Lê Sát,
Lưu Nhân Chú, ... Quân ta lại phối hợp bố trí một trận địa mai phục thứ
hai ở Cần Trạm.
Cần Trạm nằm dưới chân phía nam của núi Bảo Đài là
địa điểm tiếp giáp giữa miền thượng du và trung du, từ vùng rừng núi
trùng điệp của Lạng Sơn về vùng trung du của Lạng Giang (nay là vùng Kép
và một số xóm phía tây - nam xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang, Bắc
Giang). Khi mới đặt chân lên đất nước ta, quân Minh đã lập doanh trại án
ngữ nơi đây và giao cho một viên đô ty chỉ huy.
Núi rừng Chi Lăng (Ngọc Viên)
|
Cần Trạm có thành lũy bằng đất, được xây dựng trên
một vùng đất bầng phẳng, cạnh các đồi núi đất nhỏ của hệ núi Bảo Đài,
cách thị trấn Kép ngày nay chừng 1 km về phía đông. Thành hình vuông,
mỗi bề dài khoảng 100 m, xung quanh có hào sâu bao bọc (Nhân dân địa
phương gọi thành này là Đấu đong quân, hoặc gọi là Ngô binh đấu thành).
Hiện nay di tích của thành vẫn còn, chân thành có nơi rộng đến 11 m, cao
3 m, mặt thành rộng 6 m. Dấu vết hào sâu bao quanh còn rõ nét, ở phía
bắc có đoạn hào rộng đến 5 m.
Sau khi tổng binh Liễu Thăng bị chém, phó tổng binh
Bảo Định bá Lương Minh lên nắm quyền chỉ huy. Nguyễn Trãi lại viết thư
cho Lương Minh, vạch rõ thế thất bại không tránh khỏi của quân địch:
“nay các ông đem quân đi sâu vào, chính là bị hãm vào thế trong miệng
cọp, muốn tiến không được, muốn lui không xong. Còn ta thì nhân thế chẻ
tre, sau khi chẻ được mấy đốt, cứ lạng lưỡi dao mà chẻ đi, thực chẳng
khó gì”. Từ đó, Nguyễn Trãi khuyên Lương Minh: “Xin các ông lui ngay
quân ra ngoài bờ cõi, ta tự dẹp mở lối về, cho các ông được thung dung
đem quân về… Như thế, các ông có thể ngồi hưởng thành công mà Nam, Bắc
từ nay vô sự, há chăng hay ư?” (Nguyễn Trãi, Toàn tập, sách đã dẫn,
tr.170). Nhưng Lương Minh cùng với binh bộ thượng thư Lý Khánh, đô đốc
Thôi Tụ vẫn ngoan cố, ra lệnh chấn chỉnh lại đội ngũ, tiến về phía Cần
Trạm.
Ngày 15 tháng 10 (25 tháng 9 năm Đinh Mùi) quân địch
lọt vào trận địa mai phục của nghĩa quân Lam Sơn ở Cần Trạm. Một vạn
quân của Lê Sát, Lưu Nhân Chú (Lam sơn thực lục và Đại Việt sử ký toàn
thư chép: ngoài đạo quân của Lê Lý, Lê Văn An, có đạo quân của Lê Sát,
Lưu Nhân Chú phối hợp tác chiến trong trận này), sau chiến thắng Chi
Lăng, vẫn bám sát quân địch, sẵn sàng công kích vào phía sau lưng. Trong
lúc đó 3 vạn quân do Lê Lý, Lê Văn An chỉ huy, đã mai phục xong trên
các ngọn đồi trong thành lũy ở Cần Trạm. Chờ khi tiền quân giặc lọt vào
trận địa phục kích, quân ta từ các ngả liền xông ra đánh tạt ngang vào
đội hình hành quân của chúng.
Trận đánh đã diễn ra trên một chiến trường dài gần 5
km, suốt từ cánh đồng phía đông bắc thành Cần Trạm đến tận phía nam thị
trấn Kép ngày nay (cách đây không lâu, nhân dân địa phương thường gọi
cánh đồng phía Đông Bắc thành là bãi Chiến và gò đất phía nam Kép gần
quốc lộ số 1A là nghè Trận). Từng đội phục binh của ta do các tướng Lê
Lý, Lê Văn An chỉ huy, như những lưỡi dao nhằm thẳng quân thù xông tới,
chia cắt và tiêu diệt hết lớp này đến lớp khác. Tên chỉ huy cao nhất,
phó tổng binh Bảo Định bá Lương Minh vừa lên thay Liễu Thăng, lại bị phi
lao của ta đâm chết tại trận. Bấy giờ cánh quân ta do Lê Sát và Lưu
Nhân Chú chỉ huy, cũng đồng thời bất ngờ xông ra tiến công quyết liệt
vào một bộ phận quân địch. Sau khi tiêu diệt khoảng 2 vạn tên địch và
thu được nhiều lương thực, vũ khí (Những bức thư trong Quân trung từ
mệnh tập (những văn kiện mới tìm thấy) ghi chép về thời gian xảy ra trận
Cầu Trạm không thống nhất. Thư số 7 nói trận Cần Trạm xảy ra ngày 25 âm
lịch, thư số 17 lại nói xảy ra ngày 28 âm lịch. Chúng tôi theo thư số
7, vì thư này phù hợp với Bình Ngô đại cáo: “Ngày 25, Lương Minh trận
hãm bỏ thây”. Sách Lê triều thông sử, Lê Sát truyện chép địch bị tiêu
diệt 2 vạn tên)..., quân ta đã chủ động thu quân và nhanh chóng vận động
theo đường tắt về phía nam để tiếp tục tổ chức một trận đánh mai phục
nữa.
Như thế là sau hai trận Chi Lăng, Cần Trạm, hai tướng
cao cấp nhất của đạo viện binh địch là tổng binh và phó tổng binh đều
bị quân ta giết chết. Địch bị thiệt hại nặng, tướng chỉ huy bị chết,
tinh thần quân lính do đó càng bị giảm sút. Lực của chúng bị tiêu diệt
chưa quá một phần ba, nhưng tnế của chúng thì đã suy sụp và phải chuyển
sang chống đỡ một cách bị động.
Sau thất bại Cần Trạm, đô đốc Thôi Tụ lên nắm quyền
chỉ huy, cùng với binh bộ thượng thư Lý Khánh và công bộ thượng thư
Hoàng Phúc, cố sức tập hợp binh sĩ, gượng thúc quân tiến về phía Xương
Giang.
Ngày 18 tháng 10 (28 tháng 9 năm Đinh Mùi), quân địch tiến đến Phố Cát thì lại bị quân ta đón đánh.
Phố Cát nằm trong vùng đồi đất giữa Cần Trạm và Xương
Giang, khoảng xã Xương Lâm huyện Lạng Giang, Bắc Giang ngày nay. Tại
thôn Lễ Nhượng, xã này hiện còn lưu lại những truyền thuyết về trận đánh
quân Minh gắn liền với địa điểm mang tên đồi Mả Ngô - cách ga Phố Tráng
2 km về phía tây nam. Vùng đồi đất Phố Cát thoai thoải, cách thành
Xương Giang 8 km về phía bắc. Những dãy đồi từ Cần Trạm kéo về đây thưa
dần và đồng bằng men theo đồi đã mở rộng. Đường hành quân của quân Minh
đi xuyên qua các thung lũng hẹp và dài, hai bên là đồi thấp.
Theo sự bố trí trước của bộ chỉ huy, một bộ phận
nghĩa quân đã phục sẵn trên cát chân đồi chờ địch. Vừa lúc quân địch
đến, phục binh ta xông ra hình thành nhiều mũi đánh chặn đầu và đánh
ngang sườn. Trận quyết chiến xảy ra ác liệt. Theo ký ức dân gian thôn Lễ
Nhượng, thời đó quân Ngô từ phía Lạng Sơn tiến xuống đến Ao Mưa, một
địa điểm phía đông làng, thì bị quân nhà Lê đổ ra đón đánh. Giặc chạy
đến đồi Bổ Hóa, ở phía nam làng, thì bị chặn đánh mãnh hệt. Đồi Bổ Hóa
cao và rộng hơn so với các đồi gần đấy, viền quanh là đồng lúa lầy lội.
Trận đánh xảy ra rất quyết liệt, giặc bị chết khá nhiều, trong đó có cả
tướng cao cấp. Sau trận đánh, thây địch được đưa về đồi này chôn cất -
vì vậy mà đồi Bổ Hóa được đổi tên là đồi Mả Ngô.
Trong trận Phố Cát, nghĩa quân ghi thêm một chiến
công xuất sắc còn địch thì bị thiệt hại nặng nề. Binh bộ thượng thư Lý
Khánh giữ chức tham tán quân vụ phần vì ốm nặng, phần vì uất ức sau
những thất bại liên tiếp, nặng nề và hoàn toàn tuyệt vọng, đã “kế cùng
thắt cổ tự tử” (Nguyễn Trãi - Bình Ngô đại cáo). Lại thêm một chủ tướng
nữa bị chết (Sử cũ của ta không ghi chép trận Phố Cát, mà chỉ nói ngày
28 tháng 9 năm Đinh Mùi, Lý Khánh tự vẫn. Tuy nhiên, trong thư của
Nguyễn Trãi gửi cho tướng Minh lại nói: Ngày 28 tiến quân đến Phố Cát
lại bị quân ta đánh cho thua. Trận Phố Cát chính là trận mà binh bộ
thượng thư Lý Khánh bị chết).
Chiến thắng oanh liệt và liên tục ở Chi Lăng, Cần
Trạm, Phố Cát đã nhằm trúng đầu não của viện binh địch. Lực lượng của
chúng bị tổn thất rất nặng: khoảng hơn 3 vạn quân bị tiêu diệt, các
tướng đầu sỏ nắm quyền chỉ huy lần lượt bị giết chết. Thất bại nhục nhã
nối nhau xảy ra trong khoảng 9 ngày đã tác động mạnh mẽ vào tinh thần số
quân địch còn lại. Trước kia, chúng hăng hái, tin tưởng bao nhiêu thì
bây giờ, mệt mỏi và chán nản bấy nhiêu. Trước kia chúng ngạo mạn, khinh
thường ta bao nhiêu thì bây giờ càng hoang mang và hoảng sợ bấy nhiêu.
Cái thế tiến công buổi đầu đến đây đã mất sạch. Số lượng quân địch còn
lại vẫn nhiều nhưng như một cơ thể to lớn đang bị bệnh bại liệt hoành
hành. Nguy cơ thất bại hoàn toàn đang đến với chúng.
Chiến thắng Chi Lăng, Cần Trạm, Phố Cát thể hiện rực
rỡ tinh thần chiến đấu anh dũng và nghệ thuật đánh mai phục tài tình của
nghĩa quân Lam Sơn. Với lực lượng chỉ bằng nửa quân địch, nhưng quân ta
đã khéo vận động và tổ chức thành một thế trận mai phục liên tục trên
một quãng đường dài, đẩy quân địch đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.
Từ thất bại này đến thất bại khác, đặc biệt là trận nào cũng giết chủ
tướng làm cho quân địch hết sức hoảng loạn. Đây là sự nỗ lực vượt bậc,
một nghệ thuật đánh giặc rất mưu trí, táo bạo, kiên quyết của quân dân
ta. Dưới sự chỉ huy của Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Lý, Lê Văn An và nhiều
tướng khác, nghĩa quân đã vận động liên tục không mệt mỏi, bám địch rất
sát, rất chắc và đánh địch rất trúng, rất hiểm.
Chiến thắng nối tiếp chiến thắng đã cổ vũ tinh thần
quyết chiến quyết thắng của quân dân ta. Thừa thắng xông lên, quân dân
ta quyết phát huy tất cả sức mạnh của mình tiêu diệt toàn bộ đạo quân
tiếp viện chủ yếu của nhà Minh, giành thắng lợi cao nhất.
*****
Tuy bị thất bại nặng nề, nhưng đô đốc Thôi Tụ và
thượng thư Hoàng Phúc vẫn cố liều chết tiến vế thành Xương Giang. Chúng
hy vọng có thể phối hợp với quân thành Xương Giang rồi liên hệ với thành
Đông Quan, Chí Linh hòng cứu vãn lại tình thế nguy khốn. Nhưng thành
Xương Giang đã bị quân ta chiếm từ trước, chặn đường tiến quân của địch
và chia cắt hoàn toàn, tách hẳn đạo viện binh của địch với các thành
Đông Quan, Chí Linh.
Thôi Tụ, Hoàng Phúc đến gần Xương Giang mới biết
thành đã bị hạ. Hết đường ứng cứu, hy vọng cuối cùng của chúng bị tiêu
tan. Mệt mỏi, hoang mang, lại bị cô lập, trước mặt sau lưng đều bị đánh,
cuối cùng chúng phải “đắp lũy ngoài đồng để tự vệ” (Toàn thư). Khu vực
đóng quân của địch ở phía bắc thành Xương Giang. Kết quả khảo sát thực
địa cho biết đó là một vùng đồng ruộng và xóm làng rộng lớn gồm xã Tân
Dĩnh (huyện Lạng Giang, Bắc Giang) và xung quanh, cách thành Xương Giang
khoảng 3 km. Con đường dịch trạm xưa kia từ Chi Lăng xuống, đi qua xã
Tân Dĩnh, từ xóm Cần Chính qua xóm Tân Sơn ra phố Đỏ. Nhân dân địa
phương gọi là “đường xuyên sơn”. Quân địch đóng quân trên khu đất nằm
hai bên con đường giao thông này. Ở đấy, lúc bấy giờ đã có xóm làng, dân
cư khá đông như làng Cò, làng Am, làng Gai. Quân địch tàn sát, cướp phá
và đuổi dân đi nơi khác. Nhân dân các làng trên phải lánh sang vùng
Xuân Mãn, (xã Xuân Hương, Lạng Giang) rồi khai phá, lập làng và lấy tên
làng cũ đặt cho làng mới lập (Tư liệu khảo sát vùng Xương Giang của khoa
Sử, Đại học Tổng hợp, Hà Nội)
Địa hình vùng Xương Giang (tức vùng nam huyện Lạng
Giang và thị xã Bắc Giang hiện nay) khác với vùng Chi Lăng, Cần Trạm.
Chi Lăng là miền núi rừng hiểm trở, thích hợp với lối đánh mai phục, dễ
chia cắt đội hình địch thành từng bộ phận để tiêu diệt. Cần Trạm là vùng
giáp ranh giữa núi rừng trung du và đồng bằng. Còn vùng Xương Giang,
địa hình đồng bằng trống trải, chỉ xen vài quả đồi thấp chạy sát ven
sông. Địa hình vùng này dễ cơ động hơn, có thể triển khai được lực lượng
tương đối lớn hoặc tập trung binh lực cho những trận đánh tiêu diệt quy
mô to.
Quân địch phải đóng quân giữa một vùng trơ trọi, cô
lập, khó lợi dụng địa hình để tổ chức phòng vệ, cầm cự. Chúng phá nhà
cửa của dân, chặt cây cối, dựng rào, đắp lũy giữa đồng để lâm thời phòng
vệ.
Bộ chỉ huy nghĩa quân đã dự kiến trước việc quân địch
tiến xuống Xương Giang và đã nghiên cứu, chuẩn bị săn một thế trận bao
vây tiêu diệt chúng ở vùng này.
Trước mặt quân địch là thành Xương Giang - một pháo đài kiên cố chặn đứng con đường chúng định tiến vế Đông Quan.
Dòng sông Thương từ Chi Lăng, Hữu Lũng chảy về bao
bọc cả ba mặt: tây - bắc, tây và tây - nam Xương Giang. Đoạn sông Thương
này còn có tên là sông Xương Giang. Quân ta đã “lập hàng rào ở bờ bên
tả sông Xương Giang” (Đại Việt sử ký toàn thư, sách đã dẫn, t.III,
tr.44).
Quân thủy bộ của ta lợi dụng đoạn sông Thương này để
bố trí bao vây địch ở mặt tây. Một bộ phận lực lượng quân thủy được điều
lên đây để phối hợp với quân bộ án ngữ mặt tây đồng thời khi cần theo
sông Thương và sông Lục Nam tiếp ứng cho các hướng khác. Một bộ phận
quân bộ chiếm lĩnh những điểm cao bên tả ngạn sông Thương lập thành
những trại quân. Di tích của những trại quân đó vẫn còn được bảo lưu qua
các tên đất như đồi Vương ở làng Hương Mãn (hay làng Hạ), đồi Tướng ở
xóm Chùa, đồi Phục ở làng Gai (hay làng Phúc Cai) thuộc xã Xuân Hương
ngày nay. Một lực lượng nghĩa quân do tướng Phạm Văn Liêu chỉ huy, sau
trận Chi Lăng, cũng rút về đóng ở Xuân Mãn (Gia phả họ Phạm ở Đại Mãn xã
Xuân Hương. Phạm Văn Liêu có công đánh giặc nên được thờ ở làng Xuân
Mãn và nhiều làng khác thuộc xã Mỹ Thái. Sau khi đất nước được giải
phóng, năm 1428, Phạm Văn Liêu được liệt vào hàng Bình Ngô khai quốc
công thần). Trong nhân dân địa phương còn lưu truyền những truyện kể về
sự tích nghĩa quân đóng trại, đánh giặc Ngô ở vùng này.
Mặt đông nam có dòng sông Lục Nam ngăn cách với thành
Chí Linh. Đối với bộ binh địch, sông Thương, sông Lục Nam là những con
hào tự nhiên khó vượt qua. Hơn nữa, thủy quân của ta đã làm chủ các dòng
sông này để cùng với bộ binh bao vây, khống chế địch.
Mặt bắc, hai đạo quân của Lê Sát, Lưu Nhân Chú và Lê
Lý, Lê Văn An, sau trận Phố Cát cũng tiến xuống, hình thành thế bao vây,
ép chặt địch.
Đó là vòng vây lớp trong đã khá lớn và dày đặc. Nhưng
quân địch với số lượng khoảng 7 vạn quân vẫn có thể liều lĩnh phá vây
để tháo chạy về nước hoặc tiến vào Đông Quan. Vì vậy, bộ chỉ huy nghĩa
quân còn bố trí lực lượng bịt kín các ngả đường về Quảng Tây và vào Đông
Quan. Các cửa ải Chi Lăng, Pha Lũy và Bàng Quan (Chũ, Lục Nam, Bắc
Giang) đều bị quân ta khóa chặt. Tướng Trần Nguyên Hãn được lệnh chia
quân đóng giữ những nơi yếu hại, ngăn chặn mọi đường tiếp tế lương thực
của địch. Ở mặt nam, tướng Trần Lựu, sau những trận đánh nhử địch nổi
tiếng từ Pha Lũy đến Chi Lăng và sau trận Chi Lăng, Cần Trạm, được lệnh
rút về trấn giữ thành Thị Cầu (thị xã Bắc Ninh, Bắc Ninh) (Gia phả họ
Trần và thần tích Vũ Ninh Vương tại chùa Đèo ở làng Thị Cầu thị xã Bắc
Ninh. Dọc theo sông Cầu có 7 nơi thờ Trần Lựu.). Thành này cách Xương
Giang 20 km về phía nam. Đây là một vị trí quan trọng nằm trên con đường
dịch trạm về Đông Quan, ở về phía nam sông Cầu. Như vậy là sau “pháo
đài” Xương Giang và tuyến sông Thương lại còn thành Thị Cầu, tạo nên thế
bao vây nhiều lớp nhằm kiên quyết bịt kín con đường về Đông Quan.
Ở mặt đông nam, tướng Nguyễn Tuấn Thiện được lệnh
đóng quân tại Bồng Lai (Gia Lương, Bắc Ninh) nhằm ngăn chặn sự liên lạc
giữa quân địch tại Xương Giang và tại Chí Linh. Đồng thời dựa vào thế
hiểm yếu của sông Lục Đầu, Nguyễn Tuấn Thiện xiết chặt vòng vây Chí
Linh, góp phần cô lập quân Thôi Tụ, Hoàng Phúc (Theo thần tích Lê Thiện
(tức Nguyễn Tuấn Thiện) tại đình làng Bồng Lai, Gia Lương, Bắc Ninh).
Quân địch đã hoàn toàn lọt vào vòng vây khép kín, dày
dặc, nhiều tầng nhiều lớp quân thủy bộ của ta. Chúng dù đông cũng không
thể nào thoát ra nổi, tiến không được mà lùi cũng không được. Thế trận
cửa ta vững chãi, bao vây thì chặt chẽ , tiến công thì mãnh liệt. Đó là
thế trận:
Lỗ kiến soi, đê vỡ phá tung
Gió mạnh thổi, lá khô trút sạch.
Gió mạnh thổi, lá khô trút sạch.
(Nguyễn Trãi - Bình Ngô đại cáo)
Bộ chỉ huy nghĩa quân chủ trương chưa tiến công ngay,
mà vây hãm một thời gian cho chúng thật rã rời, kiệt sức. Kết hợp với
vòng vây ngày càng khép chặt, Nguyễn Trãi lại viết thư khuyên Thôi Tụ,
Hoàng Phúc lui quân. Đồng thời, Nguyễn Trãi cũng cảnh cáo quân địch:
“Các ông nếu còn dùng dằng lâu ngày, chứa lòng nghi ngờ, làm hỏng mưu
kế, tôi sợ rằng các ông sẽ chết uổng vùi xương trong bụng cá ở Xương
Giang, còn có ích gì đâu” (Nguyễn Trãi, Toàn tập, sách đã dẫn, tr.145 -
146). Lê Lợi-Nguyễn Trãi chủ trương:
Ta thêm quân bốn mặt bao vây
Hẹn đến giữa tháng 10 diệt giặc.
(Nguyễn Trãi - Bình Ngô đại cáo)
Hẹn đến giữa tháng 10 diệt giặc.
(Nguyễn Trãi - Bình Ngô đại cáo)
*****
Sau khi đã vây chặt số quân của Thôi Tụ, Hoàng Phúc
và làm chủ chiến trường Xương Giang, bộ chỉ huy nghĩa quân lo tiêu diệt
đạo quân Mộc Thạnh.
Lúc bấy giờ, Mộc Thạnh đã từ Vân Nam tiến vào vùng
biên giới nước ta. Đúng như Lê Lợi đã nhận định, Mộc Thạnh tỏ ra dè đặt,
không dám tiến sâu vào lãnh thổ nước ta. Mộc Thạnh đóng quân vùng biên
giới để chờ đợi tin tức của đạo quân Liễu Thăng.
Bộ chỉ huy nghĩa quân đã ra lệnh cho các tướng giữ ải
Lê Hoa (Cửa Lê Hoa là địa điểm khá quan trọng. Dư địa chí của Nguyễn
Trãi chép: Lê Hoa cùng Lô ở Tuyên Quang. Lê Hoa, tên núi nay gọi là Lê
Hoa quan, Lô là tên sông lớn, phát nguyên từ Tam Giang, chảy đến Kiều
Lộ, hợp với sông Thao, sông Đà. Đạo Tuyên Quang thời Lê bao gồm phần lớn
các tỉnh Tuyên Quang, tỉnh Hà Giang và huyện Bảo Lộc tỉnh Cao Bằng. Vậy
cửa Lê Hoa trên sông Lô ở vùng Hà Giang ngày nay) là “chỉ nên đặt quân
phục để chờ, chưa nên đánh nhau vội” (Đại Việt sử ký toàn thư, sách đã
dẫn, t.III, tr.95). Các tướng Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Nguyễn Chích, Lê
Trung, Nguyễn Khuyển chỉ đánh kiềm chế ngăn chặn không cho quân địch
tiến sâu và chuẩn bị lực lượng, chiếm lĩnh sẵn những nơi yếu hại để chờ
thời cơ phản công.
Biết rõ thái độ đắn đo, chờ đợi của Mộc Thạnh, Nguyễn
Trãi chỉ rõ: “Kể ra, đồ binh khí là thứ hung bạo, đánh nhau là việc
nguy hiểm. Thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng đến. Còn việc dùng binh đến
cùng, cậy vào vũ lực là điều xưa nay vẫn răn dạy”. Bằng những chứng cứ
cụ thể, lời lẽ có tình có lý. Nguyễn Trãi phân tích những thất bại, tổn
hại của nhà Minh trong thời gian xâm chiếm nước ta và mong Mộc Thạnh tâu
về triều xin bãi binh: “Các đại nhân đều là nhân nhân quân tử, há lại
không biết rõ nghĩa giao thiệp với nước láng giềng cùng đạo vui trời, sợ
trời. May ra được đại nhân đem ý trong thư trước của tôi chuyển tâu về
triều đình rồi truyền bảo cho tôi biết ý định của triều đình để cho dân
vô tội ở cõi Giao Chỉ tôi được thoát mình khỏi nước sôi lửa bỏng mà quân
đi đánh dẹp của Trung Quốc được về quê hương; thế là làm một việc mà
được hai điều tiện lợi”. Mặt khác, Nguyễn Trãi cũng không quên cảnh cáo
trước kẻ thù: “Nếu không thế, chỉ chăm đòi bắt quân lính lại sang lần
lữa, các ông biết rõ lời răn từ xưa tới nay về việc cùng binh độc vũ, há
chẳng thấy thế mà sờn lòng ư?” (Nguyễn Trãi, Toàn tập, sách đã dẫn,
tr.152-153).
Khi đạo quân viện binh của Liễu Thăng đã thất bại
nặng nề và bị giam chân ở Xương Giang, Lê Lợi liền sai một số tù binh
trong đó có một tên chỉ huy, ba tên thiên hộ mang bằng sắc, ấn tín của
Liễu Thăng và bức thư của Lê Lợi đến tận trại quân Mộc Thạnh, báo tin
cho chúng biết. Bức thư đề cao Mộc Thạnh là người văn võ song toàn, nhân
đức mà “thường tài không thể sánh kịp”, đồng thời kể lại chuyện Liễu
Thăng ngoan cố không nghe lời khuyên bảo của nghĩa quán, không biết “đạo
trời ưa sóng, lòng người ghét loạn, cậy vào đức thì tốt, cậy vào sức
thì chết mà tự chuốc vạ vào thân”, nên “chết trong trận không biết lẫn
lộn vào đâu”. Trong thư, Nguyễn Trãi nhún nhường đề nghị: “Nay chúng tôi
nhờ ơn của đại nhân như trời đất cha mẹ, nên mới thổ lộ tình thực, mong
đại nhân thương cho. Đại nhân đem lòng người quân tử nhân đức, tất sẽ
làm được việc nhân nghĩa để cho người đời này đều tiến lên cõi thái hòa,
há lại chịu lấy đất chỗ An Nam bé nhỏ nốt ruồi, mà làm cho thiên hạ
nhọc ư?... Nay vua tôi nước tôi một lòng, quân lính cùng một chí hướng.
Về cái nghĩa kính trời thờ nước lớn không dám bỏ thiếu” và yêu cầu Mộc
Thạnh tâu về triều Minh “cởi giáp hòa giải” (Nguyễn Trãi, Toàn tập, sách
đã dẫn, tr.149-151).
Mộc Thạnh nhận được thư, lại trông thấy ấn tín, bằng
sắc của Liễu Thăng và nghe tin Lương Minh, Lý Khánh tử trận, vô cùng
khiếp sợ. Chiến quả của các trận Chi Lăng, Cần Trạm, Phố Cát được phát
huy cao độ, đã tác động mạnh mẽ vào tinh thần của đạo viện binh Mộc
Thạnh. Cả đạo quân này từ chủ tướng đến quân lính, như Nguyễn Trãi nói,
“sợ mà vỡ mật” (Bình Ngô đại cáo).
Mộc Thạnh vội vàng đang đêm (Nguyễn Trãi, Văn bia
Vĩnh Lăng trong Toàn tập, sách đã dẫn, tr.84) đem quân gấp rút tháo chạy
về nước. Các tướng Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Nguyễn Chích, Lê Trung,
Nguyễn Khuyển đã chuẩn bị sẵn sàng, lập tức tung quân ra đánh đuổi. Quân
ta thắng lớn ở Lãnh Câu (ngòi nước lạnh) và Đan Xá, diệt trên 1 vạn tên
địch, bắt sống 1 nghìn tên và 1 nghìn ngựa, thu được rất nhiều chiến
lợi phẩm gồm vũ khí, lương thực và vàng bạc. Mộc Thạnh “chỉ một mình một
ngựa chạy thoát” về Vân Nam (Đại Việt sử ký toàn thư, sách đã dẫn,
tr.45).
Quân ta toàn thắng mà “không tốn một mũi tên” (Văn bia Quốc triều tá mệnh công thần Nguyễn Chích).
Cá một đạo quân tiếp viện 5 vạn người và 1 vạn ngựa
mới đến vùng biên giới đã tan vỡ và thất bại nặng nề. Chiến thắng Lãnh
Câu, Đan Xá thật to lớn như Nguyễn Trãi mô tả trong Bình Ngô đại cáo:
Quân Vân Nam bị chặn ở Lê Hoa, kinh sợ mà trước đà vỡ mật.
Quân Mộc Thạnh nghe quân Thăng tan ở Cần Trạm, giẫm lên nhau mà chạy chỉ thoát được thân.
Lãnh Câu máu chảy thấm dòng, nước sông ấm ức,
Đan Xá thây chồng thành núi, cỏ nội thẫm hồng.
Quân Mộc Thạnh nghe quân Thăng tan ở Cần Trạm, giẫm lên nhau mà chạy chỉ thoát được thân.
Lãnh Câu máu chảy thấm dòng, nước sông ấm ức,
Đan Xá thây chồng thành núi, cỏ nội thẫm hồng.
***
Chiến thắng ở Lãnh Câu và Đan Xá càng cổ vũ tinh thần
quân dân ta ở chiến trường Xương Giang. Sau khi đập tan đạo quân Mộc
Thạnh, bộ chỉ huy nghĩa quân tập trung lực lượng giải quyết nốt số quân
địch ở đây.
Vòng vây ở Xương Giang càng ngày càng khép chặt, tình
trạng quân địch càng ngày càng khốn đốn. Đang đêm, Thôi Tụ phải sai
quân bắn pháo báo tin cho các thành Chí Linh, Đông Quan ứng cứu. Khốn
nỗi bọn giặc ở trong các thành này đang bị bao vây cũng đang chờ quân
cứu viện, tự cứu mình chưa nổi làm sao cứu người khác.
Quân ta vừa vây hãm vừa dụ hàng. Nguyễn Trãi lại viết
thư cho Thôi Tụ, Hoàng Phúc hết lời khuyên nhủ: “Tính việc ngày nay
không gì bằng lui quân ra ngoài bờ cõi, tôi lập tức đem ngay các quân
nhân đã bắt được ở các thành trả lại hết. Rồi đem thư của nước tôi và
bản tâu nói rõ đầu đuôi tâu lên triều đình. May ra lời bàn của triều
đình ưng cho, thì bọn các ông có thể không mất tiếng tốt, mà Nam, Bắc từ
nay vô sự. Đó không những là sự may cho nước An Nam tôi, cũng là sự may
lớn cho cả bàn dân thiên hạ” (Nguyễn Trãi, Toàn tập, sách đã dẫn,
tr.147).
Lê Lợi-Nguyễn Trãi kiên trì dụ hàng, Nhưng quân địch
vẫn tỏ ra ngoan cố không trả lời. Chúng hy vọng cố kéo dài thời gian cầm
cự chờ quân ở Đông Quan, Chí Linh lên ứng cứu hoặc quân Mộc Thạnh ở Vân
Nam sang tiếp vìện. Có một lần, quân địch “giả xin hòa nhưng ngầm muốn
chạy vào thành Chí Linh” (Đại Việt sử ký toàn thư, sách đã dẫn, t.III,
tr.44). Chúng không chịu đầu hàng để được rút quân về nước mà lại âm mưu
giảng hòa để kéo vào thành Chí Linh, lợi dụng thành lũy này cố thủ và
tiếp tục chiến tranh. Thành Chí Linh hay Bình Than không lớn lắm nhưng ở
gần Xương Giang. Quân địch ở đây bị vây hãm từ lâu, nhưng vẫn liều chết
cố thủ để chờ viện binh. Để đập tan âm mưu của Thôi Tụ, Hoàng Phúc và
cô lập hơn nữa quân địch ở vùng Xương Giang, bộ chỉ huy nghĩa quân ra
lệnh gấp rút hạ thành Chí Linh.
Nguyễn Trãi lại một lần nữa viết thư dụ hàng Thôi Tụ,
Hoàng Phúc. Trong thư, Nguyễn Trãi hứa sẽ mở đường cho quân địch rút
lui an toàn về nước, nhưng hạn trong ba ngày phải lên đường: “Ngày nay,
tôi đã răn bảo quân lính, dẹp mở đường về cho các ông từ Cần Trạm đến
Khâu Ôn, nếu thấy đại quân qua lại không được xâm phạm mảy may. Các ông,
trong hạn ba ngày, nên thu nhặt mà đi. Qua hạn ấy mà còn chậm lại, thế
là các ông thất tín, không phải lỗi ở tôi vậy”. Nguyễn Trài cũng vạch rõ
cho chúng biết không còn hy vọng gì ở sự cứu viện của Đông Quan và Mộc
Thạnh: “Chắc các ông sở dĩ ở chậm lại, có ý trông mong vào quân ở thành
Đông Quan sang tiếp ứng chăng? Hay là quân ở Vân Nam sang tiếp ứng
chăng?
Nhưng từ Đông Quan đến đây, đi bộ một ngày đường
không phải hẹn còn có thể tự đến cứu được; há lại nỡ lòng nào ngồi rồi
mà coi lờ đi, không đau lòng hộ ư? Thế thì các ông trông mong gì về quân
thành Đông Quan đã tuyệt vọng rồi!
Còn như Kiềm Quốc công ở Vân Nam trước đây cùng với
các ông cùng vâng mệnh trên họp quân. Nhưng Kiềm đại nhân tuổi cao đức
cả, đã sớm biết lẽ phải, thấy việc làm đã rõ, vừa mới đến bờ cõi đã sai
người dò thăm hư thực... Tôi lại đem những quân nhân của các ông mà tôi
bắt được đưa đến chỗ Kiềm đại nhân, nói rõ duyên do bọn An Viễn hầu, Bảo
Định bá, Lý thượng thư bị chết, Kiềm quốc công đại nhân đã lui quân về
Vân Nam rồi. Thế là bọn các ông trông mong vào đạo quân ở Vân Nam lại
tuyệt vọng nốt.
Hai mặt trông mong đểu đã tuyệt vọng, mà quân nhân
mỗi ngày một bị chết, lương thực lại hết thì các ông còn đợi gì mà dùng
dằng ở lại không đi chứ?... Than ôi, chén nước đã đổ khó mà vét lại được
nữa, việc trước đã qua rồi, bỏ việc ngày nay không mưu tính đến, hối
sao cho kịp” (Nguyễn Trãi, toàn tập, sách đã dẫn, tr.148).
Đó là bức thư cuối cùng có tính chất như một tối hậu
thư. Quân ta ở mặt trận Xương Giang được tăng cường thêm lực lượng và
tích cực chuẩn bị mở cuộc tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân giặc.
Các tướng Lê Khôi, Nguyễn Xí, Phạm Vấn, Trương Lôi đem 3.000 quân thiết
đột (là đội quân xung kích tinh nhuệ nhất) và 4 voi chiến lên Xương
Giang.
Trong lúc quân địch “lương thực hết cả, quân nhân
chết đói, xác chết thành núi” (Nguyễn Trãi, toàn tập, sách đã dẫn,
tr.154) thì quân ta:
Bèn tuyển những quân hùm gấu,
Lại sai các tướng vuốt nanh.
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
(Nguyễn Trãi - Bình Ngô đại cáo)
Lại sai các tướng vuốt nanh.
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
(Nguyễn Trãi - Bình Ngô đại cáo)
Đúng ngày 3 tháng 11 năm 1427, tức ngày 15 tháng 10
năm Đinh Mùi, quân dân ta được lệnh tổng công kích như đã định trước
“hẹn đến giữa tháng 10 diệt giặc”.
Từ bốn mặt, hàng vạn quân ta nhất loạt mở những mũi tiến công quyết liệt vào các khu vực phòng ngự của địch. Bộ binh, tượng binh, kỵ binh của ta cùng phối hợp đột phá vào trung tâm doanh trại của địch. Quân ta vừa tiến công vừa kêu gọi quân địch đầu hàng. Sử nhà Minh chép “Giặc (quân ta) lùa voi xông vào đánh bừa. Giặc hô to: ai hàng thì không giết. Hàng trận rối loạn. Quan quân (quân Minh) hoặc bị bắn chết hoặc bỏ chạy. Toàn quân tan vỡ hết” (Minh sử, q. 154).
Quân địch đại bại. Kết quả là bọn tướng chỉ huy lớn
nhỏ Thôi Tụ, Hoàng Phúc, Sử An, Trần Dung, ... hơn 300 tên bị bắt cùng
với mấy vạn quân giặc (Toàn thư chép là 3 vạn quân). Hơn 5 vạn quân địch
bị giết chết. Một số chạy trốn, chỉ trong khoảng dăm bảy ngày đều bị
dân ta - những người chăn trâu, hái củi bắt được đem nộp hết cho nghĩa
quân. Hoàng Minh thực lục (tài liệu của nhà Minh) phải thú nhận toàn bộ
quân địch đều bị bắt và bị giết rất nhiều, duy chỉ có một tên chủ sự
Phan Hậu trốn thoát về nước (Theo chính sử cũ của ta: Toàn thư, Lam Sơn
thực lục, Cương mục, thì tổng số quân viện của Liễu Thăng là 10 vạn,
nhưng tính số quân bị bắt, bị giết từ Chi Lăng dến Xương Giang lại đến
11 vạn (?) nên đó là con số ước lượng gần đúng mà thôi. Minh sử ký sự
bản mạt, q.22 cũng thừa nhận số quân Minh bị tiêu diệt đến 7 vạn. Theo
sách này thì viên chủ sự trốn thoát tên là Phan Nguyên Đại). Quân ta thu
được rất nhiều ngựa, các loại vũ khí cùng với vàng bạc, vải lụa. Hàng
loạt địa danh vùng Xương Giang và xung quanh như đồi Phục, đồi Cút, đồi
Vương, đồi Tướng, bãi Bên, bãi Thiêu, bãi Cháy... như còn ghi lại chiến
công oanh liệt của quân dân ta.
Mô tả chiến thắng Xương Giang, Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô đại cáo:
Đánh trận đầu, sạch sanh kình ngạc
Đánh trận nữa, tan tác chim muông
Lỗ kiến soi, đê vỡ phá tung
Gió mạnh thổi, lá khô trút sạch
Thôi đô đốc quỳ gối phục tội
Hoàng thượng thư tay trói nộp mình
Lạng Sơn, Lạng Giang thây ngã đầy đường
Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước.
Đánh trận nữa, tan tác chim muông
Lỗ kiến soi, đê vỡ phá tung
Gió mạnh thổi, lá khô trút sạch
Thôi đô đốc quỳ gối phục tội
Hoàng thượng thư tay trói nộp mình
Lạng Sơn, Lạng Giang thây ngã đầy đường
Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước.
Và số phận quân địch bi thảm đến nỗi:
Gió mây vì thế mà biến sắc
Trời trăng ảm đạm đến lu mờ.
Trời trăng ảm đạm đến lu mờ.
Chiến thắng cuối cùng ở Xương Giang làm nức lòng quân
dân cả nước, là niềm tự hào vinh dự của dân tộc ta. Lý Tử Tấn đã nói
lên niềm tự hào, vinh dự đó trong một bài phú:
Kìa trận Hợp Phì oanh liệt ngày trước
Trận Xích Bích toàn thắng đời xưa
Sao bằng đây Xương Giang vẻ vang
(Lý Tử Tấn - Phú Xương Giang)
Trận Xích Bích toàn thắng đời xưa
Sao bằng đây Xương Giang vẻ vang
(Lý Tử Tấn - Phú Xương Giang)
(Hợp Phì là trận Tạ Huyền đời Tấn đánh tan quân Bồ
Kiên của Tần trên sông Phì, Xích Bích là trận Chu Du đại thắng quân Tào
Tháo. Cả hai đều là những trận rất nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc
xưa.)
*****
Thế là từ ngày 8 tháng 10 đến ngày 3 tháng 11 năm
1427, trong khoảng không đầy 1 tháng, toàn bộ hai đạo viện binh của Liễu
Thăng, Mộc Thạnh dã bị tiêu diệt và đánh tan. Kế hoạch tăng viện của
nhà Minh bị phá sản hoàn toàn.
Tin viện binh bị tiêu diệt đến với quân địch đưang bị
bao vây trong các thành, nhưng chúng vẫn còn nghi hoặc. Lê Lợi liền sai
thông sự Đặng Hiếu Lộc giải công bộ thượng thư Hoàng Phúc, đô đốc Thôi
Tụ và một số tù binh mang theo chiếc song hổ phù của Chinh lỗ phó tướng
quân Liễu Thăng, hai chiếc ấn bạc của hai viên thượng thư Hoàng Phúc, Lý
Khánh cùng với các cờ xí, trống, chiêng lấy được đem đến tận thành Đông
Quan cho chính mắt chúng trông thấy. Cả bè lũ tuyệt vọng.
Địch ở Đông Quan từ chủ tướng Vương Thông đến quân
lính vô cùng hoảng hốt, khiếp sợ. Lê Lợi lại gửi thư dụ hàng đồng thời
siết chặt vòng vây Đông Quan.
Toàn bộ viện binh, hơn 15 vạn quân vừa vượt qua biên
giới chưa kịp tới Đông Quan đã bị tiêu diệt gọn và đánh tan, gây chấn
động vô cùng khủng khiếp trong quân đội và tướng tá của Vương Thông. Cả
bè lũ tuyệt vọng.
Ngày 16 tháng 12 năm 1427 (ngày 22 tháng 10 một năm
Đinh Mùi), Vương Thông và lũ tướng giặc xin giảng hòa, thực chất là đầu
hàng. Chúng phải đến một địa điểm phía nam thành Đông Quan gặp Lê Lợi và
các tướng lĩnh nghĩa quân. Dưới hình thức hội thề, Vương Thông xin cam
kết “Đem quân về nước không thể kéo dài năm tháng để đợi viện binh”,
“nếu không thì trời đất thần linh, sông núi sẽ làm cho bản thân, cho đến
cả nhà, thân thích chết hết và cả đến quan quân cũng không một người
nào về được đến nhà” (Nguyễn Trãi, Toàn tập, sách đã dẫn, tr.133). Bản
văn hội thề có giá trị như một hiệp định rút quân của địch. Đây là lần
đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, bằng chiến thắng
quân sự vô cùng oanh liệt, đập tan ý chí xâm lược của kẻ thù, chúng ta
buộc chúng phải ký kết một văn bản xin rút quân vô điều kiện như vậy.
Cuối tháng 12, chúng phải trao trả cho ta các thành Đông Quan, Cổ Lộng, Tây Đô và rút quân về nước.
Đến như thần võ không giết,
Đức lớn hiếu sinh.
Nghĩ vì kế lâu dài của nhà nước,
Tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh.
Sửa hòa hiếu cho hai nước,
Tắt muôn đời chiến tranh.
Chỉ cần vẹn đất, cốt sao an ninh,
(Nguyễn Thi - Phú núi Chí Linh)
Đức lớn hiếu sinh.
Nghĩ vì kế lâu dài của nhà nước,
Tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh.
Sửa hòa hiếu cho hai nước,
Tắt muôn đời chiến tranh.
Chỉ cần vẹn đất, cốt sao an ninh,
(Nguyễn Thi - Phú núi Chí Linh)
Với lòng nhân đạo cao cả “Chỉ cần vẹn đất, cốt sao an
ninh” và sách lược hết sức mềm dẻo, Lê Lợi-Nguyễn Trãi đã trao trả tù
binh, cung cấp đủ lương thực và phương tiện đi đường, sai nhân dân sửa
sang đường sá, cầu cống cho bại binh của địch rút lui an toàn về nước.
Bọn tham chính Phương Chính, nội quan Mã Kỳ được cấp năm trăm thuyền,
đã vượt biển về vẫn hồn kinh phách lạc,
Lũ tổng binh Vương Thông, tham chính Mã Anh được cho mấy nghìn ngựa
đã về nước còn ngực đập chân run.
(Nguyễn Trãi - Bình Ngô đại cáo)
đã vượt biển về vẫn hồn kinh phách lạc,
Lũ tổng binh Vương Thông, tham chính Mã Anh được cho mấy nghìn ngựa
đã về nước còn ngực đập chân run.
(Nguyễn Trãi - Bình Ngô đại cáo)
Chiến thắng Chi Lăng-Xương Giang với những trận đánh
vang dội ở Chi Lăng, Cần Trạm, Phố Cát, Bình Than, Xương Giang, là chiến
công oanh liệt nhất trong 10 năm anh dũng đấu tranh của nghĩa quân Lam
Sơn, là thành công rực rỡ nhất trong cuộc thử thách ác liệt quyết định
thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến tranh giành độc lập của nhân dân ta
đầu thế kỷ XV.
Suốt 20 năm xâm lược, nhà Minh đã liên tục gửi viện
binh sang nước ta, ngoan cố duy trì nền thống trị của chúng. Đặc biệt,
từ năm 1426 đến cuối năm 1427, số quân tăng viện của địch đã lên đến 30
vạn quân. Cuộc chiến đấu cuối năm 1427 đi đến kết thúc cuộc chiến tranh
là cuộc đọ sức cuối cùng và cao nhất giữa dân tộc ta và bọn xâm lược nhà
Minh.
Trong cuộc đọ sức đó, nhân dân ta đã giành thắng lợi
rực rỡ. Trong 26 đêm ngày quyết chiến (8 tháng 10 đến 3 tháng 11) quân
dân ta đã tiêu diệt toàn bộ 10 vạn quân Liễu Thăng, đồng thời tiêu diệt
và đánh tan 5 vạn quân Mộc Thạnh. Thắng lợi đó đã gây một chấn động vô
cùng mạnh mẽ. Vì thế, bại quân Vương Thông khiếp sợ phải “nhận giảng
hòa” và xin rút quân về nước. Vì thế, vua Minh Tuyên Tông và cả triều
dình nhà Minh hoảng hốt buộc phải ra lệnh bãi binh. Ngày 3 tháng 1 năm
1428, đội binh cuối cùng của 10 vạn quân giặc phải rút khỏi biên giới
nước ta (Văn bia Vĩnh Lăng và Phú núi Chí Linh đều nói rõ số quân ta cho
hàng về nước là 10 vạn. Tài liệu sử cũ của Trung Quốc như Hoàng Minh
thực lục cũng phải chép là 86.400 quân; Minh sử chép là 86.000). Và đến
đầu tháng 3 năm đó về tới Nam Ninh (Quảng Tây, Trung Quốc), bại tướng
Vương Thông lại gặp phái đoàn của nhà Minh xuống “truyền lệnh bãi binh”.
Chiến thắng Chi Lăng-Xương Giang đã đập tan hoàn toàn âm mưu xâm lược
của nhà Minh, đưa đến thắng lợi huy hoàng của cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc. Đó là chiến thắng cực kỳ oanh liệt, triệt để của trận
quyết chiến chiến lược có ý nghĩa quyết định kết thúc chiến tranh, bảo
đảm giành lại độc lập tự do cho đất nước.
Chiến thắng Chi Lăng-Xương Giang biểu thị sự nỗ lực
phi thường của nghĩa quân Lam Sơn. và sự kết hợp chặt chẽ giữa quân đội
dân tộc và nhân dân trong cuộc chiến tranh giải phóng. Đặc biệt nhân dân
các làng quanh thành Xương Giang có công lớn giúp nghĩa quân trong khi
hạ thành và bao vây tiêu diệt viện binh. Vì vậy, sau khi thắng lợi, nhà
Lê đã lấy ruộng đất trong thành làm công điền chia cho dân làng. Việc
giúp đỡ nhiệt tình và phối hợp tác chiến có hiệu quả của nhân dân địa
phương dối với nghĩa quân là hình ảnh đẹp đẽ của cuộc chiến tranh nhân
dân thời bấy giờ.
Chiến thắng Chi Lăng-Xương Giang còn chứng tỏ nghệ
thuật quân sự điêu luyện và tài thao lược kiệt xuất của tổ tiên ta ở thế
kỷ XV. Bộ chỉ huy nghĩa quân đã giải quyết đúng đắn và sáng tạo nhiều
vấn dề chiến lược phức tạp chọn hướng chiến lược chính xác, sử dụng binh
lực hợp lý và bày thế trận lợi hại. Trong ba khối quân chiến lược của
địch - quân Liễu Thăng ở Lạng Sơn, quân Mộc Thạnh ở Tuyên Quang (Hà
Giang bây giờ) và quân Vương Thông ở Đông Quan, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã
chọn dạo quân Liễu Thăng làm mục tiêu quyết chiến. Tiêu diệt được đạo
quân này là cơ bản đập tan được kế hoạch tăng viện của địch đồng thời
cũng dễ dàng đánh tan được đạo quân Mộc Thạnh và bại quân Vương Thông.
Diễn biến từng trận đánh, từ trận đầu “đập gãy tiên
phong” đến trận cuối “hẹn giữa tháng 10 diệt giặc”, đều thực hiện dúng
nhiệm vụ và kế hoạch đã vạch trước. Trên quãng đường dài hơn 300 dặm
(113 km) với non hiểm trở, sông nước cản ngăn, nghĩa quân đã vận động
liên tục đánh địch. Trận nhử địch ở Pha Lũy, ải Lưu đã gây nhân tố bất
ngờ, tạo thêm điều kiện cho quân lân ta chiến thắng giòn giã, tiêu diệt
từng bộ phận sinh lực địch ở Chi Lăng, Cần Trạm, Phố Cát. Sau khi đã
chặn đứng và bao vây quân địch ở Xương Giang, nghĩa quân đập tan đạo
quân Mộc Thạnh rồi cuối cùng khép chặt vòng vây và dồn sức lại tổng công
kích tiêu diệt sạch đạo viện binh Liễu Thăng. Thắng lợi này thúc đẩy
thắng lợi khác, tác động lẫn nhau, tạo thành một dây chuyền nhiều trận
tiến công liên tục chủ động với khí thế dũng cảm vô song. Phương châm
chiến lược chung của khởi nghĩa Lam Sơn là “lấy ít địch nhiều, lấy yếu
chống mạnh”, nhưng trong những trận quyết chiến, bộ chỉ huy cố gắng tập
trung binh lực, bảo đảm đánh rất mạnh, rất nhanh, thắng rất to lớn và
triệt để. Đó là lối đánh làm cho quân địch “sạch sanh kình ngạc”, “tan
tác chim muông”, bị thua như “đê vỡ phá tung”, “lá khô trút sạch”.
Trong chiến thắng Chi Lăng-Xương Giang, Lê Lợi-Nguyễn
Trãi đã sử dụng tài tình những biện pháp chính trị để đánh địch. Phát
huy chiến quả của thắng lợi trước nhằm uy hiếp và làm tan rã nhanh chóng
tinh thần chiến dấu của địch ở các trận sau và cao hơn nữa, còn khiến
cho cả đạo viện binh Mộc Thạnh không đánh mà tự bỏ chạy. Có thể nói,
trên cơ sở tiến công bầng lực lượng quân sự kết hợp với những biện pháp
chính trị, binh vận, đánh địch về mọi mặt là một trong những tư tưởng
chỉ đạo chiến tranh sáng tạo của nghĩa quân Lam Sơn.
Chiến thắng Chi Lăng-Xương Giang, với ý nghĩa quyết
định của nó, là một hình ảnh sinh động trong cuộc chiến tranh giải phóng
dân tộc đầu thế kỷ XV, biểu thị tập trung nhất ý chí và nghị lực, quyết
tâm, tinh thần quyết chiến quyết thắng và trí thông minh sáng tạo của
dân tộc ta. Chiến thắng lịch sử đó đã xóa bỏ 20 năm đô hộ tàn bạo của
nhà Minh, mở ra những trang mới trong lịch sử dựng nước và giữ nước
quang vinh của dân tộc:
Xã tắc từ đây bền vững,
Giang sơn từ đây đổi mới,
Càn khôn đã bĩ rồi lại thái,
Trời trăng đã mờ rồi lại trong.
Để mở nền muôn thuở thái bình .
Để rửa nỗi nghìn thu hổ thẹn.
(Nguyễn Trãi - Bình Ngô đại cáo)
Giang sơn từ đây đổi mới,
Càn khôn đã bĩ rồi lại thái,
Trời trăng đã mờ rồi lại trong.
Để mở nền muôn thuở thái bình .
Để rửa nỗi nghìn thu hổ thẹn.
(Nguyễn Trãi - Bình Ngô đại cáo)
- Nguồn: Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc / Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm.-H.: QĐND.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét