|
ự nghiệp báo chí sôi động và cao cả của cha tôi gây ấn tượng mạnh mẽ cho tôi. Tôi có kế hoạch học nghề báo, trong đó chú trọng vào các lĩnh vực Kinh tế, Thương mại quốc tế, Tiếp thị và Các nước đang phát triển.
Phạm Xuân Hoảng Ân, sơ yếu lý lịch, 1990
GIA ĐÌNH ẨN BAY TỚI GUAM, ở đấy trong một tuần để đợi xem ông có sang không. Nhờ hệ thống điện báo tại văn phòng của Time mà Ẩn giữ được liên lạc với Thu Nhàn, và cuối cùng ông đã khuyên bà chấp nhận định cư ở Mỹ theo đề nghị của Time. Gia đình bay tới Fort Pendleton, California, để làm thủ tục, và họ không có thời gian để nhận ra rằng nơi họ đứng chỉ cách học xá của Trường Orange Coast tại Costa Mesa tám mươi lăm cây số. Với việc Time đồng ý làm nhà bảo trợ, gia đình đã làm thủ tục rất nhanh, sớm nhận được thẻ An sinh Xã hội và các giấy tờ khác. Họ được đưa tới Los Angeles, ở một tuần trong nhà nghỉ cùng các thành viên người Việt khác của Time. “Tôi thấy không được thoải mái khi ở Los Angeles”, bà Thu Nhàn hồi tưởng. “Thành phố quả lớn đối với tôi, thế nên tôi hỏi tạp chí Time rằng liệu chúng tôi có thể đến Virginia hay không”.
David DeVoss của tờ Time tháp tùng gia đình trong chuyến bay và sau đó là hành trình tới căn hộ của Beverly Deepe ở Arlington, Virginia, nơi gia đình sống tạm trong ba tháng cho đến khi bà Thu Nhàn thuê được một ngôi nhà. Time chịu mọi phí tổn liên quan tới việc tái định cư của gia đình và sau đó cung cấp cho bà Thu Nhàn khoản phụ cấp tháng 700 đôla. Những người con, lên mười hai, mười một, mười và tám tuổi, đều đi học tại Trường Tiểu học Patrick Henry. Mỗi buổi sáng, bà Thu Nhàn, lúc bấy giờ có thể nói tiếng Anh cơ bản, đón xe buýt đưa con tới trường và ở lại trong lớp để giúp bọn trẻ vì chúng không nói được tiếng Anh. Bà Thu Nhàn cũng đăng ký học các lớp tiếng Anh nâng cao, và gia đình bắt đầu làm quen với cuộc sống tại Mỹ. Với việc có nhiều người miền Nam Việt Nam chạy loạn tới sống ở Washington, D.C, và vùng thủ phủ Virginia, bà không thiếu bạn bè để có thể giúp bà về mặt tinh thần và tạo cho bà cảm giác vững tâm khi không có chồng bẽn cạnh.
“Bà ấy lúc nào cũng hết sức lo lắng cho chồng”, Germaine Lộc Swanson nhớ lại. “Bà ấy không biết điều gì sẽ xảy đến với ông”. Thu Nhàn biết rõ rằng có thể bà sẽ không bao giờ được gặp lại chồng.
Bà đã quen dần với cảm giác đó trong thời gian mười ba năm trước đấy, nhưng giờ đây bà lại đang ở bên kia địa cầu. Một mặt, Ẩn có thể bị quân giải phóng giết chết vì cho rằng ông cộng tác với CIA; mặt khác, có một viễn cảnh đáng sợ nữa là khi cuộc chiến tranh chấm dứt, cuộc sống bí mật của chồng bà trong vai trò là một gián điệp có thể bị phơi bày trong lúc bà và các con đang sống tại Mỹ. Sự an nguy của gia đình bà có thể sẽ bị đe dọa ở giữa một cộng đồng tị nạn chống Cộng cùng cực. Bà cũng không rõ liệu Hà Nội có ra lệnh cho ông Ẩn tiếp tục hoạt động tình báo tại Mỹ nữa hay không. Tương lai thật mờ mịt.
“Má không bao giờ để lộ những nỗi buồn phiền này cho chúng tôi biết”, Hoàng Ân nhớ lại. “Điều đó giúp chúng tôi rất dễ thích nghi với cuộc sống mới. Chúng tôi dễ dàng có bạn mới. Tôi nhớ cái ngày chúng tôi tới căn hộ của bà Deepe. Tôi nhìn ra cửa sổ và thấy bọn trẻ đang chơi đùa. Chúng vẫy tôi và tôi vẫy lại. Những đứa trẻ đó học cùng trường với tôi, về sau đều trở thành bạn bè. Rồi tôi học nói tiếng Anh. Tôi thậm chí còn có một cô bạn gái. Tôi nhớ tên cô ấy là Robin, và cha cô ấy là một cựu chiến binh tại Việt Nam. Đến lúc tôi phải trở về, cô ấy và tôi đều khóc”.
Lúc bấy giờ ở Sài Gòn, Ẩn cũng rất buồn và lo sợ. Sau vài ngày trú ở khách sạn Continental, Ẩn đưa mẹ trở về nhà, nhưng ông vẫn sợ điều mà ông diễn tả lại với tôi là “lúc 2 giờ sáng có tiếng gõ cửa, rồi tôi bị đưa đi mất tích. Cảm giác này cũng tương tự như lúc tôi trở về Sài Gòn vào năm 1959. Tình hình cực kỳ nguy hiểm bởi lúc bấy giờ người ta chỉ biết tôi là một phóng viên Sài Gòn làm việc cho người Mỹ”. Ông Ẩn nghĩ thật là bất công khi đất nước được thống nhất còn gia đình mình phải phân ly.
Ẩn được hướng dẫn đi đăng ký với chính quyền địa phương, và ông ghi mình là nhà báo, từng làm việc cho tạp chí Time. Trước đó vài tháng - trong một lá thư gửi cho Edward Lansdale và vợ ông ta, bà Pat - Bob Shaplen giải thích rằng “hầu hết những người bạn cũ của chúng ta đều thất vọng, như Vượng, Ẩn vân vân… Tinh thần của những người Mỹ còn lại, như Jake và Mark Huss, cũng xuống thấp. Họ cố gắng cầm cự được chừng nào hay chừng ấy, chứ họ còn biết làm gì nữa? Đối với những người Việt, như Vượng và Ẩn, họ vẫn rất can đảm, nhưng không hề vui bởi vết đen của quá khứ từng làm việc cho chúng ta khiến họ cảm thấy bị tổn thương về mặt nghề nghiệp”. (1)
Phóng viên người Úc Neil David và phóng viên người Ý Tiziano Terzani là hai trong số ít phóng viên trụ lại ở Sài Gòn. Họ thường ghé qua văn phòng Time để trao đổi với Ẩn và hỏi quan điểm của ông về quá trình chuyển tiếp.(2) Davis cũng giữ liên lạc chặt chẽ với Shaplen, cung cấp cho ông những thông tin cập nhật và chuyển cho ông các tin nhắn của Ẩn. Các bài viết của Davỉs cho thấy rõ ràng rằng Sài Gòn thời hậu giải phóng là một nơi rất nguy hiểm. “Tôi thường bị bộ đội nấp sau lùm cây bất thình lình xuất hiện từ sau lưng và yêu cầu xuất trình giấy tờ” - mọi người, cả ngoại quốc lẫn Việt Nam, đều phải đăng ký chính thức với chính quyền mới ngay từ đầu - “và còn tệ hơn nữa là bị chặn đường bởi các thanh niên hiếu chiến trong đội quân tự vệ mới được thành lập vốn cũng nguy hiểm chẳng kém gì các đội tự vệ cũ của chính quyền trước đây. Thủ tục đăng ký trình diện, ít nhất là tại Sài Gòn, có vẻ như sắp kết thúc, và đây là một trong số ít việc làm chứng tỏ quyền lực của chính quyền mới, với tất cả mọi người Việt Nam, từ cựu quân nhân, viên chức chính quyền, nhân viên làm việc cho người Mỹ cho đến những người được mô tả kỳ cục là 'nhân viên mật vụ' đều được lệnh phải tới địa điểm này, địa điểm kia để đăng kỹ và phải khai báo rõ nhân thân và địa chỉ”. (3)
Đầu tháng 5, tướng thắng trận vỏ Nguyên Giáp bay từ Hà Nội vào Sài Gòn, tới Dinh Độc Lập họp với Tướng Trần Văn Trà, vị tướng tư lệnh Quân giải phóng miền Nam vừa được bầu làm Chủ tịch Uy ban Quân quản Sài Gòn - Gia Định. Những năm trước đây, ông Giáp và ông Trà đã dựa vào các báo cáo tình báo của Ẩn; giờ đây, vài tuần sau khi giải phóng, nhà tình báo bậc thầy đã có đóng góp to lớn vào chiến thắng của Hà Nội đang ở cách đó chỉ vài dãy nhà và đang lo lắng cho sự an nguy của mình dưới chế độ mới.
Lúc này Ẩn đang là nhân viên của Time theo nghĩa đen đóng tại Thành phố Hồ Chí Minh, giữ liên lạc với các đồng nghiệp cũ và đóng góp vào việc viết bài cho các số báo thời hậu 30 tháng 4. “Tất cả phóng viên người Mỹ đã được sơ tán vì tình trạng khẩn cấp”, Ẩn đánh điện về New York. “Văn phòng của Time giờ đây đang được Phạm Xuân Ẩn điều hành”.(4) Phòng xuất bản của Time cho đăng một tấm hình chụp cảnh Ẩn đứng trên một đường phố chính vắng vẻ, miệng ngậm thuốc lá với vẻ mặt đầy ngang tàng.
Mỗi buổi sáng, ông Ẩn đều đến văn phòng của Time, nơi “quân giải phóng” đã cử một người tới giám sát, vốn chỉ tập trung theo dõi Ẩn. “Tôi ở đấy một mình, không tính người giám sát”, Ẩn kể với tôi. “ông ta không phải là người khó chịu, nhưng lại là một giám sát viên khắt khe. Sau vài tuần, tôi chẳng thể gửi thông tin nào ra ngoài được nữa”.
Một trong những tiện nghi mà Ẩn có được là việc sử dụng hệ thống đánh điện báo của Time, giúp ông có thể gửi điện cho bà Thu Nhàn thông qua trụ sở Time ở New York. “Tôi có thể đánh đi các bức điện trong đó biểu thị rằng tôi vẫn ổn, cho đến lúc bấy giờ. Nhưng tôi không thể nói rõ điều gì thực sự bởi có nhiều người sẽ đọc được”, Ẩn nói.
Bài viết cuối cùng ông Ẩn gửi đi xuất hiện trên tờ Time số ra ngày 12 tháng 5, nhan đề “Cuộc chia tay cuối cùng đầy nghiệt ngã”. Đây là một đoạn trích từ bài báo:
“Những hình ảnh cuối cùng của cuộc chiến: Những người lính Thủy quân lục chiến Mỹ dùng báng súng nện vào ngón tay những người Việt Nam đang tìm cách vào được bên trong tòa đại sứ Mỹ để thoát khỏi quê hương của họ. Một không khí hỗn độn như được tả trong sách khải huyền - vài kẻ hôi của điên cuồng lái những chiếc xe hơi của đại sứ quán bỏ lại cho tới khi hết xăng; những người khác tấn công kho PX Tân Cảng Sài Gòn, nơi được coi là mô phỏng giấc mơ về các vùng ngoại ô ở Mỹ, với một phụ nữ đội hai kiện trái anh đào ngâm và một kiện kẹo cao su Wrigley's Spearmint. Ngoài Biển Đông, những chiếc trực thăng với tổng trị giá hàng triệu đôla bị người ta lật từ boong tàu cứu hộ của Mỹ xuống biển, cứ như thể là ném nhũng lon bia, để tạo chỗ trống cho những chiếc trực thăng sắp tới”.
Cuối cùng, quân Việt Cộng và Bắc Việt đã tràn vào Sài Gòn, giương cao cờ của Chính phủ Cách mạng Lâm thời và bắt giữ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh cùng Thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Đối với nhiều người Mỹ, đây giống như là một cái chết được báo trước từ rất lâu, nhưng vẫn bị sốc nặng khi rốt cuộc nó đã ập đến.
Vậy là cuộc chiến tranh dài nhất của thế kỷ đã kết thúc, bằng một cuộc sơ tán hiệu quả nhưng nhục nhã. Một sự cáo chung như ác mộng, nhưng tình hình lẽ ra còn tệ hơn; chỉ một số ít lính Việt Nam Cộng hòa nổ súng vào những người Mỹ đang tháo chạy, và không có phát nào trúng mục tiêu cả. Ít nhất thì người Mỹ cũng đã tránh được cảnh tượng kinh hoàng cuối cùng về một cuộc đấu giữa người của họ với những người bạn và đồng minh cũ. Trên thực tế, người Mỹ đã tìm cách mang theo 120.000 dân tị nạn miền Nam Việt Nam.
Có lẽ cần phải nói rằng, cuộc chia tay của người Mỹ đối với Việt Nam là chiến dịch duy nhất trong toàn bộ cuộc chiến mà họ hoàn toàn không mang theo ảo tưởng…
Những người cầm quyền mới tuyên bố sẽ “quyết tâm thực hiện một chính sách độc lập, hòa bình, trung lập và không liên kết”.
Đối với những người miền Nam Việt Nam từng làm việc và cộng tác với người Mỹ, cuộc sống nhanh chóng trở nên khắc nghiệt và tàn bạo. Một vài người, như Tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn II Vùng II chiến thuật, người đã ra lệnh rút quân khỏi Cao nguyên Trung phần, chọn cách uống thuốc độc thay vì đầu hàng Cộng sản. (5) Đối với phần lớn các cựu quan chức cấp cao ở lại, không có gì nhiều để làm ngoài việc ngồi chờ chỉ thị của chính quyền mới. Đây là một thời kỳ đặc biệt khó khăn cho Ẩn về mặt cá nhân, với việc rất nhiều người bạn đi vào bóng tối. “Nhiệm vụ của tôi về mặt kỹ thuật thì đã kết thúc, đất nước đã thống nhất, và người Mỹ đã ra đi, nhưng tôi không thể tiết lộ sự thật với ai cả. Tôi không thể vui vì tôi rất cô đơn và hoang mang. Vợ và gia đỉnh của tôi đang ở Mỹ. Không biết liệu rồi đây tôi có được gặp lại họ hay không. Tôi cũng có rất nhiều người bạn bị kẹt lại, và không biết điều gì sẽ xảy đến với họ. Có quá nhiều thứ không thể biết được”.
Một trong những người ngồi chờ đợi số phận của mình là Nguyễn Xuân Phong, bạn của Ẩn, người đã làm việc trong nội các của chính quyền Sài Gòn, gần đây nhất là ở cương vị Quốc vụ khanh đặc trách hòa đàm Paris. Ông trở về Sài Gòn vào ngày 25 tháng 4 để được ở cùng cha mẹ già. Tương tự Ẩn, ông không thể bỏ cha mẹ ở lại. Từ chối lời đề nghị di tản của Đại sứ Graham Martin, Phong chẳng còn biết phải làm gì ngoài việc ngồi đợi. Ông nghiêm chỉnh chấp hành việc đăng ký với chính quyền, chẳng hề biết là mình sẽ chịu án tử hình, chung thân hay bản án nào nhẹ hơn. “Tôi từng nghĩ rằng nếu ở tù năm, mười năm thì còn chịu được, nhưng mức hai mươi năm thì ngoài sức tưởng tượng”. (6)
Ông Trần Văn Trà đã ban chi thị buộc tất cả các quan chức chế độ cũ từ chánh sự vụ trở lên, và tất cả các sĩ quan quân đội, từ thiếu úy trở lên, phải trình diện học tập cải tạo trong ba mươi ngày, từ tháng 5 đến tháng 6. Những nhân viên dân chính và quân đội khác chỉ cần học tập bảy ngày tại nơi cư trú. Sau khi kết thúc thời gian học ba mươi ngày, ông Phong và vô số người khác không được trở về nhà, bất chấp chỉ thị nói trên của ông Trà. Lý do là bởi lúc này các quan chức Hà Nội đã vào Nam và hủy bỏ lệnh của ông Trà, dù ông Trà phản đối. “Người ta buộc chúng tôi phải hiểu rằng chúng tôi sai quấy vì đã đánh phá và gây tội ác chống lại TỔ QUỐC”, ông Phong nhớ lại. “Người ta không gọi chúng tôi là những người 'phản bội Tổ quốc’, nhưng họ cũng úp mở cho chúng tôi hiểu rõ là đã tiếp tay với 'bọn tân đế quốc Mỹ xâm lược', đem lại chết chóc và hủy diệt cho nhân dân và đất nước Việt Nam. Chúng tôi không được biết có bị đưa ra tòa hay không, hay là có bị xét xử trên căn bản nào hay không. Cũng không ai nói hình phạt dành cho chúng tôi là thế nào, bao lâu, và cũng không ai cho biết thời hạn giam giữ sẽ được phán quyết như thế nào, cho từng cá nhân hay một cách tập thể”. (7)
Hành trình vào chốn vô định của Nguyễn Xuân Phong bắt đầu từ nhà giam Thủ Đức vào tháng 6 năm 1975, nơi ông bị nhốt chung phòng với hai mươi người khác. Sau vài tuần, tù nhân được lệnh tập trung trong sân trại giam, rồi bị xích theo từng cặp và bị đẩy lên xe tải quân sự chở ra phi trường. Máy bay đưa họ tới sân bay Gia Lâm gần Hà Nội, rồi sau đó chuyển lên Trại A15, nơi được đặt biệt danh là Chi nhánh Hà Nội Hilton vì chỉ cách Hà Nội và nơi giam giữ nhiều tù binh Mỹ năm mươi cây số. Phong và 1.200 phạm nhân đồng cảnh ngộ sẽ phải ở lại đây cho đến lúc có ai đó cho phép họ về nhà. Đối với Phong, ngày ấy rơi vào tháng 12 năm 1979; đối với rất nhiều người khác, ngày về có thể là sau đó mười hay thậm chí mười lăm năm. “Không hề có lời giải thích nào, họ chí nói rằng tôi nằm trong số mười mấy người sẽ được thả sớm. Tiêu chí cho việc phóng thích không thể biết được”. (8)
Cao Giao, “giọng nam cao chính” của Đài phát thanh Catinat, đối mặt với một số phận khắc nghiệt hơn. Những ngày sau giải phóng, ông tham dự một khóa học tập ba mươi ngày và được phép trở về nhà. Ông không bị bắt giữ, nhưng đến năm 1978 thì bị cáo buộc làm gián điệp cho CIA. Chịu cảnh biệt giam và thẩm vấn hằng ngày, trong chín tháng liên tục ngày nào Cao Giao cũng bị thẩm vấn và tiếp đó là bốn tháng biệt giam, buồng giam của ông không bao giờ mở cửa. Sau thời gian biệt giam, ông bị chuyển đến khám Chí Hòa, nơi có tới bảy mươi hai tù nhân chính trị ở chung một xà lim. Ba năm rưỡi sau, vào năm 1982, ông được trả tự do mà không có một lời giải thích nào.(9) Trong suốt thời gian Cao Giao ngồi tù, Ẩn thường tới thăm gia đình ông để thông báo những thông tin bí mật về tình hình sức khỏe của Cao Giao cũng như mang đỏ ăn và thuốc men đến cho gia đình. “Tôi cố hết sức để chăm lo cho gia đình ông ấy lúc ông ấy ngồi tù. Bất cứ ngày nào có thể, tôi đều đến thăm vợ ông ấy”, Ẩn kể. Sau khi được trả tự do, bất cứ lúc nào được hỏi về Ẩn, Cao Giao cũng nói rằng Ẩn là “một kẻ lý tưởng hóa bị vỡ mộng và bị lừa dối”. Ông tha thứ cho Ẩn bởi “chúng tôi đều là người Việt”. (10)
Một số phận tốt đẹp hơn nhiều đang chờ đợi Phạm Xuân Ẩn khi vài tuần sau giải phóng, một người trong lực lượng an ninh của chế độ mới đến nhà ông và nói, “ông thì không sao cả”.
“Ồng ta chỉ nói có thế”, Ẩn nhớ lại. “Vậy là tôi biết lúc này đã an toàn rồi”. Tài liệu về nhân thân thực của ông cuối cùng rồi cũng tới. Ẩn được công nhận là “người có ba mươi năm cách mạng” - cụm từ chỉ những người tham gia chiến đấu chống ngoại xâm trong ba thập kỷ qua. Thế là Ẩn chính thức được chuyển qua bên thắng trận, và điều đó trở nên rõ ràng hơn khi khẩu phần thức ăn của ông được tăng lên cũng như bộ đồ mới của ông, đó là bộ quân phục của một đại tá Bắc Việt.
Nhưng chế độ mới đặt vấn đề về các hành động của ông trong ngày 30 tháng 4, khi ông giúp đưa bác sĩ Tuyến lên chuyến trực thăng cuối cùng chở người di tản rời khỏi địa chỉ 22 Gia Long. Ẩn phải tường trình với bên an ninh, ông nói rằng việc làm đó là vì mục đích nhân đạo. Gia đình ông Tuyến đã rời Việt Nam trước, và chiến tranh thì cũng sắp qua rồi. Lời giải thích đó dễ được các thành viên trong mạng lưới tình báo miền Nam của chính Ẩn chấp nhận, nhưng cơ quan an ninh thì lại nghi ngờ. Ẩn có ý gì khi ông bảo ông và Tuyến là bạn? Đó là chuyện riêng hay việc công?
Ồng Ẩn được yêu cầu viết một bản “thú nhận” trong đó có chi tiết về việc bác sĩ Trần Kim Tuyến chạy thoát ra nước ngoài cũng như được chỉ đạo liệt kê các đầu mối và nguồn tin trong thời chiến tranh, mà ông thiết lập được trong thời gian làm ký giả tại tờ Time. Như đã nói ở trên, ông cung cấp thông tin chi tiết ở mức cao nhất có thể về bác sĩ Tuyến, nhưng lại nói rằng trí nhớ của ông quá tệ nên không nhớ hết các đầu mối trong suốt mười lăm năm qua. “Tôi nói với họ tôi không nhớ và chỉ đưa ra một số rất ít”, ông Ẩn nói thế, nhưng tôi biết ông có một trí nhớ ngoại hạng trong việc nhắc lại những chi tiết xảy ra hàng thập kỷ trước.
Càng nghĩ về Ẩn thì cơ quan an ninh càng thắc mác về việc làm sao ông có thể hoạt động tình báo trót lọt trong chừng ấy thời gian. “Họ cho rằng tôi được ai đó trong CIA bảo vệ bởi vì chẳng người nào có thể may mãn đến như thế”.
Điều thú vị là, Bob Shaplen và an ninh Hà Nội cùng có chung một câu hỏi: “Tôi phân vân, chẳng hạn, tại sao thoạt tiên ông để vợ con chuyền tới chuyển lui với sự giúp đỡ của tổ chức báo chí Mỹ mà ông từng làm việc. Rốt cuộc thì ông có thực sự là Cộng sản từ đầu hay không, hay ông chỉ ợuyết định trở thành một người Cộng sản sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, vì lý do này hay lý do khác?… Liệu ông có từng làm điệp viên hai mang, hay thậm chí là ba mang hay không, và liệu có phải trước khi quyết định ăn nằm với Cộng sản, ông muốn đảm bảo răng mình đã che giấu được tất cả các manh mối? Có một vài lý do để tin vào khả năng này”, Shaplen viết.(11)
Cuối tháng 3 năm 1976, ông Ẩn được yêu cầu phải đưa gia đình hồi hương. Đối với nhiều người bạn và cựu đồng nghiệp tại Time, đây là tín hiệu đầu tiên cho thấy Ẩn làm việc cho phía bên kia. Chia tay bạn bè mới tại Mỹ là một điều khó khăn cho gia đình Ẩn. Germaine Lộc Swanson nhớ lại rằng bà đã hẹn với Thu Nhàn sẽ gặp lại nhau trong các sứ mệnh ngoại giao, vì bà tin rằng Ẩn có thể là vị đại sứ lý tưởng đầu tiên của Việt Nam tại Mỹ hoặc là tùy viên báo chí tại tòa đại sứ.(12) Sau này tôi chia sẻ điều này với Ẩn, ông cười: “Trừ phi cô Germaine là Tổng bí thư đảng ra lệnh, chứ không thì làm sao mấy chuyện kia trở thành hiện thực được”.
Bà Thu Nhàn có nỗi lo của riêng mình về chuyện hồi hương. Bà chỉ nhận được một thông điệp ngắn, “Xin hãy về nhà”. Bà không biết tình hình của Ẩn ở Việt Nam và buộc phải tự tìm cách đưa gia đình trở về làm sao cho không gợi lên nhiều mối nghi ngờ. Lúc này người dân miền Nam đang tìm cách chạy trốn khỏi Việt Nam trên những chiếc thuyền tạm bợ, chấp nhận đối mặt với hải tặc Thái Lan giữa biển khơi còn hơn là sống chung với chế độ Cộng sản tại Việt Nam.
Đầu tiên, bà Thu Nhàn tới trụ sở Liên Hiệp Quốc để xin phép đi du lịch Pháp. Sau đó gia đình bay từ Washington tới Paris nhưng đã bị giữ lại đấy trong ba tháng bởi Việt Nam không cho phép bất cứ chuyến bay thẳng nào từ Paris đến Hà Nội và Sài Gòn Tại Pháp, bà Thu Nhàn xin phép cùng bốn con trở về Việt Nam “để đoàn tụ với chồng của tôi vì hòa bình đã được lập lại ở trong nước”. Sau đó, bà thông báo cho tạp chí Time về quyết định của mình và nói chuyện với Germaine Lộc Swanson một lần nữa, và bà Lộc đã đề nghị giữ lại hai người con của bà Thu Nhàn để đề phòng lở ra Cộng sản đang giương bẫy ở Sài Gòn. Germaine Lộc Swanson không hề biết Ẩn có được an toàn hay không. Stanley Cloud nhớ bà Thu Nhàn đã gọi cho ông từ Paris để hỏi ý kiến là bà có nên trở lại Mỹ hay không. Cuối cùng, Thu Nhàn quyết định không phần tán gia đình một lần nửa nên đã trở về quê hương, với hy vọng thông điệp của Ẩn là đúng và ông vẫn an toàn.
Gia đình bay từ Paris đến Moscow rồi sau đó bay về Hà Nội, từ đây họ đi xe hơi vào Sài Gòn.
***
ĐẾN THÁNG 9 NẢM 1976, ý kiến về cuộc đời bí mật của Ẩn bắt đầu xuất hiện, có thể tìm thấy bằng chứng qua những lời mà Lou Conein nói với Neil Sheehan rằng ông ta “nghe tin rằng Anh (nguyên văn) đã nhắn tin cho vợ về và bà ta đã trở về theo tuyến Paris, Moscow, Hà Nội và Sài Gòn mà không gặp bất cứ trục trặc nào, hành trình suôn sẻ của bà ta là bằng chứng cho thấy Anh (nguyên văn) là một gã Việt Cộng hoặc ít nhất ông ta từng là một người có cảm tình với Việt Cộng và giờ Đảng Cộng sản đang ưu ái ông ta”.(13)
Ẩn được mời dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV vào tháng 12 năm 1976 tại Hà Nội, nơi ông được trao danh hiệu Anh hùng và chụp hình với Bùi Tín, Đại tướng Giáp cũng như những người anh hùng khác trong cuộc chiến chống Mỹ. Sau Đại hội, tất cả các văn phòng của công ty nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đều bị đóng cửa. “Đấy là lúc tôi chấm dứt làm việc cho Time”, Ẩn kể.
Việc được phong danh hiệu Anh hùng không đủ để giúp Ẩn thoát khỏi một năm “giải độc” gần Hà Nội.(14) Sống quá nhiều năm với người Mỹ chỉ là một phần trong những rắc rối của Ẩn. Ông còn làm phức tạp tình hình khi tiếp tục đánh giá cao kẻ thù bại trận của Việt Nam. Chiến tranh đã kết thúc, đất nước đã thống nhất, và ông ngưỡng mộ người Mỹ. Chế độ mới không nghi ngờ về lòng trung thành mà người anh hùng của họ dành cho Tổ quốc, nhưng họ cực kỳ lo ngại rằng dân chúng mà nghe những lời ông nói thì sẽ rất nguy hiểm. Ẩn cần phải được lập trình lại để có suy nghĩ như một người Việt Nam, chứ không phải một người Mỹ.
Tháng 8 năm 1978, Ẩn lên đường đến dự khóa học của “học viện chính trị cấp cao” tại Hải Dương, cách Hà Nội khoảng ba mươi cây số, và ở đấy cho đến tháng 6 năm 1979. Việc ông biến mất hoàn toàn trong thời gian dài dẫn tới một sự hiểu lầm rằng ông đã sang Mỹ để hoạt động ngầm, khiến Nguyễn Cao Kỳ đã thề sẽ “xin tí huyết thằng Ẩn” nếu tìm thấy ông tại Mỹ. Ẩn luôn coi nhẹ tầm quan trọng của thời gian ông tham gia học viện, và ông chưa bao giờ gọi đó là “học tập cải tạo” trong bất kỳ cuộc trao đổi nào giữa hai chúng tôi. “Đấy thực ra không phải là học tập cải tạo như nhiều người khác đã từng trải qua một cách cực nhọc”, Ẩn nói với tôi. “Đó là một học viện chính trị. Tôi phải tới đó bởi tôi không biết gì về chủ nghĩa Marx-Lenin và duy vật biện chứng. Tồi đã có một cuộc sống khác trong thời gian hoạt động tình báo, và cuộc sống đó giờ đã khép lại. Tôi hiểu hệ thống của Mỹ rõ hơn hệ thống này, do vậy tôi cần phải đọc những tài liệu kinh điển của tư duy kinh tế Nga”, Ẩn nói, không cưỡng lại được một nụ cười mỉm, lộ rõ vẻ mỉa mai. “Đây là năm mà suy nghĩ của tôi được chờ đợi là sẽ thay đổi. Tôi thực sự cố gấng để trở thành một học viên giỏi, nhưng tôi biết rằng mình đã biết quá nhiều nên khó mà thay đổi được”.(15)
Ẩn không phản đối việc ông phải đi xa một năm. Ông đã gặp những con người thú vị vốn rất tò mò về trải nghiệm của ông, và ông thích chia sẻ những câu chuyện của ông cho nhiều bạn học. Tuy nhiên, ông nhớ là mình đã bị trêu là “thằng Mỹ”. (16) Không ai giống ông cả. Ông có nhiều trải nghiệm với người Mỹ hơn hầu hết các sĩ quan Việt Nam Cộng hòa, những người chỉ trải qua một tháng huấn luyện ở Mỹ. Ẩn đã sống tự do ở đấy trong hai năm. “Chế độ mới cho tôi là 'quá Mỹ' và 'tư sản' và họ muốn tôi nói năng nhu một người Marxist chỉ sau ít tháng nghe giảng và tự phê bình”, Ẩn nói với tôi. Ông đã có nhiều thời gian để suy nghĩ, “ông biết đấy, đây là lần đầu tiên tôi sống dưới chế độ Cộng sản. Tôi có quá nhiều thứ phải học và đã cố gắng để điều chỉnh mọi thứ, từ cách nghĩ, cách hành động, thậm chí cả cách trêu đùa. Tôi hiểu họ muốn gì và tôi đã cố gắng”.
Khi thời gian cải huấn kết thúc, Ẩn trở lại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi ông cảm thấy thoải mái khi không còn chịu đựng những buổi tối giá lạnh của miền Bắc và nơi mà các bạn ông sắp trở về từ những cuộc học tập cải tạo vất vả hơn nhiều. Chế độ mới đề nghị ông làm việc tại phòng kiểm duyệt, nhưng ông từ chối. Sau đó, ông được yêu cầu huấn luyện các nhà báo Cộng sản, nhưng ông cho rằng đó là chuyện đùa: “Bất cứ ai mà qua tay tôi đào tạo đều có thể bị rút thẻ nhà báo. Tồi có thể dạy cái gì cho các nhà báo Việt Nam về nghề nghiệp của tôi? Nếu họ thực hành đúng cách mà tôi tin tưởng, họ có thể bị đưa đi học tập, vĩ thế thực sự tôi đã không khiến họ tốn thêm tiền bạc cũng như chuốc thêm rắc rối làm gì”.
Vì lẽ đó mà một Phạm Xuân Ẩn đã được cải huấn vẫn gặp rắc rối trong việc sống sao cho hợp với chế độ mới và được tin tưởng. Đó là lý do tại sao mỗi khi có một người bạn ngày xưa tới Thành phố Hồ Chí Minh, giới chức thường thông báo là ông Ẩn không muốn gặp họ hoặc đã đi khỏi thành phố. “Năm 1982, trên đường tới Campuchia, tôi ở lại Sài Gòn vài ngày”, Dan Southerland nhớ lại. “Trong những ngày đó, bất kỳ phóng viên nào đi qua Sài Gòn đều phải làm việc với một 'cán bộ giám sát' của Việt Cộng, ông cán bộ mà tôi gặp là một người lớn tuổi tên là Phương Nam. Tôi hỏi ông ta rằng tôi có thể gặp ông Ẩn được không. Phương Nam bảo để kiểm tra xem, rồi sau đó trở lại với câu trả lời: 'ông ấy không muốn tiếp khách ngoại quốc. Mười ba năm sau, Southerland cuối cùng đã được gặp Ẩn. “Ông ta đã lừa ông đấy”, Ẩn nói với Southerland trong lần gặp đầu tiên sau ba mươi năm. “Tôi đã rất muốn gặp ông”. (17)
Stanley Karnow cũng kể câu chuyện tương tự về một chuyến thăm vào năm 1981:
“Tôi đề nghị một quan chức Cộng sản sắp xếp một cuộc gặp giữa tôi và ông ấy”.
“Quên chuyện đó đi’, vị quan chức ngắt lời. “Đại tá Phạm Xuân Ẩn không muốn gặp ông hay bất kỳ người Mỹ nào”.
‘“Đại tá Ẩn?”
“'Đúng rồi!” - Vị quan chức đáp “ông ấy là người của chúng tôi”. (18)
Ẩn không còn lựa chọn nào khác ngoài việc trở thành một “ông nội trợ” như lời ông nói và thường đùa rằng mình là “triệu phú thời gian”, hằng ngày thường đọc sách, nghe đài BBC và làm việc lặt vặt cho vợ.(19) Ồng cũng trở thành một người huấn luyện gà chọi nổi tiếng Sài Gòn, một thú chơi mà chế độ mới đã đặt ra ngoài vòng pháp luật nhưng vẫn có nhiều người chơi chui.
Giữa lúc ấy, người bạn cũ Nguyễn Xuân Phong của Ẩn mãn hạn năm năm tù. Hai “kẻ thù huynh đệ” giờ chung sống trong một đất nước Việt Nam thống nhất vẫn thường gặp nhau: “Suốt hai chục năm, từ 1980 đến 2000, Ẩn và tôi thường gặp nhau nhiều lần mỗi tuần, phần lớn thời gian ngồi nhâm nhi cà phê vỉa hè trên đường Đồng Khởi để thư giãn và quên đi quá khứ. Thậm chí các nhân viên an ninh còn chụp ảnh chúng tôi và cố gắng tìm hiểu xem chúng tôi đang âm mưu điều gì!”
Một điều mà Phạm Xuân Ẩn rút ra được qua quá trình quan sát đất nước thống nhất của ông, đó là sự gắn chặt của các nhà lãnh đạo Việt Nam với mô hình Liên Xô tất yếu sẽ thất bại. “Mọi thứ đều bị thiêu huỷ sau khi Sài Gòn thất thủ - sách y khoa, tài liệu chính phủ - và bây giờ thì họ đang hối hận - nhưng đã quá muộn rồi - mọi thứ [bây giờ] đều có xuất xứ từ Nga - thật là ngây thơ”, Ẩn nói với Sheehan. “Tôi rất buồn phiền về những việc họ đã làm; nhưng tôi không thể ngăn nó lại được - có lẽ tôi đã sống gần với bên phe này quá lâu nên biết rõ giá trị; họ đã bị tuyên truyền quá nặng, giống như con ngựa bị che mắt vậy; nhưng nếu anh nói với họ điều đó thì sẽ bị quy chụp là phản động và đấy là một trọng tội, ngay cả hiện nay cũng thế. Tôi sinh ra ở Việt Nam, tôi là người Việt, nhưng cái nền văn minh mà tôi hấp thụ được lại đến từ người Mỹ. Đấy là rắc rối của riêng tôi”. (20)
Với việc Ẩn không còn được phép liên lạc với các cựu đồng nghiệp, những lời đồn điên rồ về vị trí của ông trong chế độ mới bắt đầu lan truyền giữa những người này. David DeVoss, cựu trưởng văn phòng Đông Nam Á của Time và là người từng đi cùng bà Thu Nhàn cùng bốn đứa con trong chuyến bay từ Los Angeles, đã tới Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1981. Sau đó ông viết cho đồng nghiệp Karsten Prager, “Thuốc lá có lẽ là thứ duy nhất mà Việt Nam còn sản xuất được. Ăn mày có mặt khắp nơi, bây giờ là người Khmer. Sự bất tài của các cán bộ Việt Cộng đang bộc lộ rõ. Những người đã tham gia cách mạng từ lúc 12 tuổi hiện đang nắm quyền điều hành các chương trình quản lý đất đai, phúc lợi xã hội. Mọi thứ đều không hoạt động. Nơi ngày xưa là văn phòng Time tại Continental giờ đang bị một gã Cuba bẩn thỉu chiếm cứ, hằng đêm gã nhảy nhót dọc đường Tự Do với chiếc áo thun in hình một con ó què. Bên dưới hình có đòng chú thích, 'Con ó này không thể bay được'… Thật đáng tiếc khi phải nói rằng Phạm Xuân Ẩn đang là một cán bộ cấp cao của Bộ Nội vụ [chi tiết này không đúng]. Dường như ông ta là một Trung tá Việt Cộng trong suốt thời gian làm việc cho tờ tuần báo. Tôi tìm cách gặp ông ta trong thời gian năm ngày ở Sài Gòn nhưng ông ta từ chối. Không (nhấn mạnh) được phép gặp bất cứ người quen nào từ trước giải phóng”.(21)
Prager chuyển lá thư của DeVoss cho Frank McCulloch, kèm theo ghi chú, “Gửi người anh em… lời bình luận buồn của DeVoss, người vừa trở về từ Việt Nam. Tôi nghĩ ông thích xem cái này, đặc biệt là phần về Ẩn. Không thể thắng được họ, tôi đoán thế; tôi luôn thích Ẩn nhưng chưa bao giờ tin tưởng ông ta cho lắm”. (22)
Tháng 2 năm 1982, Donald Neff của tờ Time viết trực tiếp cho McCulloch, “Tôi biết mấy chuyện về Ẩn là không mới nhưng tôi phải thừa nhận rằng nó khiến tôi đau đớn mỗi khi đọc. (Nó cũng khiến tôi hối tiếc về việc đã có lần tôi tặng ông ta một bộ sưu tập bản ghi âm tiếng chim hót rất đắt tiền)”.(23)
Bị cách biệt khỏi những người bạn Mỹ, Ẩn đã tìm cách để giúp các đồng nghiệp người Việt ở bên thua cuộc. Tháng 4 năm 1985, Donald Kirk trở lại Việt Nam lần đầu tiên kể từ khi chiến tranh kết thúc. Vào thập niên 1960 và 1970, Kirk viết bài từ Đông Nam Á cho các tạp chí TheNew York Times, The New Leader và The Reporter. (24) Lúc tới Thành phố Hồ Chí Minh, ông đã gặp một người bạn cũ và là đồng nghiệp, Lê Việt. Sau này, Kirk được biết rằng đồng nghiệp của ông đã bị giam năm tháng vì “gặp một người nước ngoài”. Ông bị nhốt tại một xà lim cùng sáu mươi người khác. Vợ ông đi thăm nuôi mỗi tuần để cung cấp thức ăn và thuốc men. “Ngày nào họ cũng hỏi tôi về mối quan hệ với các ký giả Mỹ. Họ bảo rằng hầu hết ký giả Mỹ đều làm việc cho CIA. Họ muốn biết mấy cái gói đồ mà tôi đưa cho ông là thứ gì. Họ bảo tôi là gián điệp của Mỹ còn ông là nhân viên CIA. Tôi nói với họ răng tôi từng làm việc lâu năm cho người nước ngoài, nhưng đó là thời chiến, chẳng liên quan gì tới chính trị”, Lê Việt giải thích với Kirk.(25)
Đây là những gì mà Kirk nói về phần còn lại của câu chuyện: “Tuy nhiên, nỗi đau của Việt có thể còn nặng nề hơn. Khi ông đang nghỉ giải lao thì viên sếp công an yêu cầu Phạm Xuân Ẩn, một đại tá Việt Cộng đã leo lên đến cấp bậc này nhờ những hoạt động gián điệp trong khi vẫn làm việc cần mẫn trong vai trò là một chuyên gia về chính trị cho các phóng viên khờ khạo của Time-Life tại văn phòng của họ ở khách sạn Continental, thẩm vấn Lê Việt”. Viên chỉ huy công an hy vọng rằng Ẩn có thể moi được vài lời thú tội của Lê Việt. “Ẩn, lúc này là phó bí thư của Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, một vị trí tương đương với phó thị trưởng”, đã không chịu phản bội một người bạn và là đồng nghiệp của mình, nên bắn tiếng cho bên công an rằng “không nên làm khó cho tôi”, Lê Việt kể. Khi tôi kể lại chuyện này với Ẩn, ông thở dài, “cơ quan an ninh nghĩ ai cũng là người của CIA, họ không tin ai hết, kể cả tôi”. Thực ra Ẩn chưa bao giờ giữ bất cứ chức vụ nào trong Uỷ ban nhân dân hoặc cơ quan đảng ở địa phương.
***
NGỌN GIÓ THAY ĐỔI CHẬM CHẠP cuối cùng cũng thổi tới Việt Nam vào năm 1986 khi Đại hội Đảng Cộng sản toàn quốc lần VI khởi động kế hoạch Đổi Mới, một chương trình đổi mới kinh tế nhằm cải tổ xã hội và kích thích kinh tế phát triển. Các lãnh đạo đảng tuyên bố ý định xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, bao gồm kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và sở hữu tư nhân. Đầu tư nước ngoài được khuyến khích, và một thái độ khoan dung hơn dần được mở ra trong việc tiếp xúc với phương Tây cũng như bày tỏ ý kiến ở trong nước.
Năm 1988, Bob Shaplen tới Thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị được gặp Ẩn. Lần đầu tiên, cơ quan an ninh đã cho phép gặp mặt, với điều kiện là một đại diện của Bộ Ngoại giao cũng có mặt. Khi cuộc tái ngộ sắp kết thúc, Ẩn đề nghị người bạn ở Bộ Ngoại giao ban cho một đặc ân: Liệu ông và Shaplen có thể đi ăn tối chung hay không? Đề nghị được chấp thuận. “Chúng tôi tới khách sạn Majestic”, Ẩn nhớ lại. “Tôi nghĩ đây là lần đầu tiên tôi được phép nói chuyện riêng với một người bạn cũ từ thời chiến tranh. Tôi không muốn buổi tối hôm đó kết thúc”.
Khi trở về Mỹ, Shaplen nói rằng có lẽ chính phủ Việt Nam đã nới lỏng việc tiếp xúc của Ẩn với các đồng nghiệp cũ. Trong vòng vài tháng sau, Neil Sheehan, Stanley Karnow, Robert Sam Anson và Morley Safer đã được phép ghé thăm. Chính trong bối cảnh đó mà một câu chuyện đáng chú ý đã được mở ra liên quan tới tình bạn bền chặt giữa những đồng nghiệp cũ, ước nguyện của người cha đối với người con trai lớn nhất của mình, và tiến trình hòa giải giữa hai đất nước mà Phạm Xuân Ẩn yêu tha thiết.
***
NĂM 1983, CON TRAI LỚN CỦA ẨN là Phạm Xuân Hoàng Ân tới Liên Xô học đại học theo chương trình năm năm. Khởi đầu tại Học viện Ngoại ngữ Minsk và sau đó tại Trường Dịch thuật Chuyên nghiệp Maurice Thorez thuộc Học viện Ngoại ngữ Quốc gia Moscow, Hoàng Ân đã tốt nghiệp hạng ưu, trở nên thông thạo tiếng Anh và đã viết luận văn ngôn ngữ của mình về một bản dịch từ tiếng Nga sang tiếng Anh trích đoạn trong cuốn sách Bên bờ sông Mê Kông và sông Hồng của A. A. Kurnetsova.
Kết thúc chương trình đại học, Hoàng Ân về nước. “Trái tim tôi như muốn xổ tung khỏi lồng ngực khi mảy bay đáp xuống, ôi, đây là thành phố thân yêu của tôi. Sáu mùa hè đã trôi qua kể từ khi tôi rời mảnh đất này”, sau này Hoàng Ân đã viết về ngày trở về của mình như thế. “Cửa mở. Tôi cảm thấy hơi nóng tháng 8 đã sưởi ấm trái tim lạnh giá mùa đông Moscow của tôi. Một làn gió nhẹ mon trớn làn da tôi. Ở đây, tôi lại được tắm mình trong ánh nắng và màu xanh cây lá. Mắt tôi dõi tìm những gương mặt thân quen. Có má thân yêu của tôi, em gái và em trai tôi. Thời gian đã để lại dấu ấn trên mái tóc ngả màu và khuôn mặt nhiều nếp nhăn của má. Nhưng tạ ơn trời, bà trông vẫn khỏe và hạnh phúc. Những giọt nước mắt. Những nụ hôn. Và vòng tay của má… Rồi tiếng chuông reo. Tôi trông thấy một chú chó lớn vừa sủa vừa lao về phía cổng. Ba tôi xuất hiện nơi ngưỡng cửa. Ông đi nhanh tới và mở toang cửa. Ông trông không già hơn, nhung gầy hơn nhiều. Lưng ông đã còng xuống nhiều hơn dưới gánh nặng của cuộc sống vất vả và bận rộn… Niềm vui và hạnh phúc ngập tràn cơ thể và tâm hồn tôi trong cuộc đoàn viên này”. (26)
Phạm Xuân Ẩn đã sống và làm việc với người Mỹ trước khi có một cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Ông đánh giá cao người Mỹ. Sau chiến tranh, như một lẽ tự nhiên, ông cũng mong muốn điều tương tự cho con trai mình. “Đảng chỉ có thể dạy tôi những điều thuộc về ý thức hệ”, Ẩn giải thích. “Từ người Mỹ, tôi học được những điều quan trọng khác, về nghề báo, về một phương pháp tư duy khác. Đó là điều tôi muốn con mình có được. Tôi muốn con trai tôi có bạn bè người Mỹ”.
Ông Ẩn cũng tin rằng con trai mình có thể đóng vai trò cầu nối giữa nhân dân Việt Nam và Mỹ trong thời hậu chiến. “Trong đời mình, tôi chỉ có hai trách nhiệm. Một dành cho Tổ quốc như là nghĩa vụ bắt buộc, cái còn lại là dành cho những người bạn Mỹ đã dạy tôi từ A tới Z, đặc biệt là nhân dân Mỹ. Uớc nguyện của tôi là như thế này. Chiến đấu cho tới lúc đất nước giành lại được độc lập và sau đó tái lập quan hệ ngoại giao và bình thường hóa quan hệ giữa người Việt Nam và Mỹ, sau đó thì tôi có thể nhắm mắt xuôi tay thật mãn nguyện vào bất cứ lúc nào”.
Ẩn dự liệu rằng những người bạn Mỹ sẽ giúp ông bởi họ sẽ nhớ tới ông như là một đồng nghiệp, chứ không phải là một kẻ thù của đất nước họ hay là một kẻ phản bội lòng tin của họ. “Họ biết tôi là người luôn giúp đỡ họ và tôi không phải là kẻ thù của họ. Tôi chiến đấu vì đất nước mình, chứ không phải chống lại người Mỹ”, Ẩn nói với một phong cách như muốn làm chệch hướng sự gợi nhắc về quá khứ khi ông là một điệp viên siêu hạng làm việc cho phía bên kia. “Nếu từng có một người bị kẹt lại giữa hai thế giới, thì đó là Ẩn. Những ai chưa từng làm việc tại Việt Nam vào những tháng năm đó thì rất khó mà hiểu được sự phức tạp này”, David Halberstam nói”. (27)
Năm 1989, giữa Việt Nam và Mỹ chưa có quan hệ ngoại giao chính thức. Không có đại sứ quán hoặc cơ quan lãnh sự. Chỉ có một ít sinh viên Vỉệt Nam có được thị thực du học tại Mỹ. Hoạt động hợp tác mới chỉ bắt đầu được triển khai để bàn về số phận quân nhân Mỹ mất tích trong chiến tranh (MIA); phải đến mùa xuân 1991 thì một văn phòng của Mỹ mới được mở tại Hà Nội để giải quyết vấn đề MIA. Nhưng những điều đó không phải là trở lực ngăn cản Robert Sam Anson và Frank McCulloch, những người theo đuổi nỗ lực của người Mỹ nhằm đưa Hoàng Ân tới Mỹ, và cũng không phải là trở lực đối với người cha của chàng trai trẻ này, người đã gầy dựng nhiều nỗ lực từ phía Việt Nam.
Đối với Anson, đây là một cơ hội để đáp trả ơn cứu mạng. Đối với Frank McCulloch, lúc bấy giờ là thư ký tòa soạn tờ San Francisco Examiner, đó chính là một niềm kính phục đối với Ẩn cũng như một niềm tin sâu sắc vào tương lai. “Chúng tôi có thể không quyên số tiền này cho con ông Thiệu hoặc ông Kỳ. Đây là một chỉ dấu cho sự tôn trọng và ngưỡng mộ mà người ta dành cho Ẩn”, McCulloch giải thích với tôi. “Thêm nữa, có một điều kiện mà tất cả chúng tôi phải tuân thủ đó là cậu ấy phải trở về Việt Nam sau khi việc học kết thúc”.
McCulloch có mọi lý do để đặt niềm tin vào tính cách của chàng trai trẻ mà ông bảo trợ. Bài luận trong hồ sơ xin nhập học của Hoàng Ân tại Đại học North Carolina đã bộc lộ một sự hiểu biết chính chắn về tiến trình hòa giải: “Chúng ta đang sống trong một thời đại mà không quốc gia nào có thể tồn tại một mình, tự cô lập mình với phần còn lại của thế giới. Đây là thời đại của hợp tác và cùng tồn tại. Tôi không thấy bất kỳ lý do nào để có một ngoại lệ cho Việt Nam. Sau hàng loạt sự kiện tại Đông Áu, tôi thấy hạnh phúc khi Việt Nam triển khai 'chính sách mở của' sớm hơn so với khối Đông Âu. Nhờ đó, giờ chúng tôi đang đi khá đúng hướng trên hành trình thoát nghèo. Tôi có thuận lợi là đã từng học tập ở Liên Xô và sống ở Mỹ khi còn nhỏ… Tôi mong ước có thể được sang Mỹ để học báo chí và kinh tế học và để tiếp thu những tinh hoa của xã hội Mỹ. Sau đó, khi trở về nước, tôi có thể nói với nhân dân tôi về con người, lịch sử, văn hóa cũng như những thành tựu mới nhất trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học và công nghệ của siêu cường tiên tiến này. Bằng hành động ấy, tôi hy vọng thiết lập được cầu nối giữa nhân dân hai nước, nhằm xóa bỏ hiểu lầm và thành kiến… Nguyện vọng của tôi là nhân dân tôi được hạnh phúc và thịnh vượng”.
Có lẽ vật cản lớn nhất cho kế hoạch này là sự lan tỏa của việc Morley Safer cho xuất bản cuốn sách nhan đề Hồi tưởng: Chuyến trở lại Việt Nam.(28) Cuốn sách đã thu hút sự quan tâm rộng rãi chủ yếu bởi nó có một chương viết về một cuộc thảo luận rất chân thành của tác giả với Ẩn. Tạp chí New York Times số Chủ nhật ngày tháng 3 năm 1990 trích đăng một đoạn, giật tít “Làm gián điệp cho Hà Nội” cùng lời dẫn: “Trong 10 năm, Phạm Xuân Ẩn là một phóng viên có giá trị của Time tại Sài Gòn. Điều mà các biên tập viên của ông không biết, đó là suốt thời gian ấy, ông ta 'Làm gián điệp cho Hà Nội.'”
Một năm trước đó, trong cuốn Tin chiến sự, Bob Anson đã kể về vai trò của Ẩn trong việc giúp ông ta được phóng thích khỏi nơi bị bắt giữ. Giờ đây, khi đang sống ở Bangkok, Anson nhận được bản thảo chưa biên tập của Safer, do một đồng nghiệp ở New York có quen biết cả Ẩn lẫn Anson gửi tới.
Khi đọc những lời được cho là của Ẩn, Anson cảm thấy bạn mình đang đối mặt với hiểm nguy nghiêm trọng. Anson tức giận trước lời thú nhận của Safer rằng ông ta không ghi chú gì khi nói chuyện với Ẩn. Safer, lúc đó đi cùng một trợ lý và với sự trợ giúp của Ẩn, đã uống cạn một chai Whiskey White Horse trong cuộc nói chuyện đó.(29) Anson lo ngại rằng ân nhân cứu mạng của ông đang đau khổ về nội dung cuộc phỏng vấn đó. Thế là Anson xin thị thực nhập cảnh và đặt chỗ trên chuyến bay sớm nhất từ Bangkok đi Thành phố Hồ Chí Minh để gặp Ẩn.
Ẩn nói với tôi rằng ông tưởng cuộc trò chuyện đó chỉ là những chia sẻ không được công bố; có nghĩa là, đấy chỉ là chuyện hai người bạn gặp nhau và ngồi tán gẫu bên chai Whiskey. “Tôi chưa từng nghĩ rằng ông ấy sẽ công bố cuộc trò chuyện của chúng tôi. Đơn giản là tôi đã quá vui khi được gặp lại đồng nghiệp để trò chuyện”, Ẩn nói. Anson và Ẩn dò từng dòng trong bản thảo liên quan tới cuộc nói chuyện đã được viết lại, biên tập các chi tiết giảm xuống tới một mức mà Ẩn hy vọng sẽ không gây nguy hiểm cho cơ hội được cấp thị thực của con trai. Ông không quan tâm tới điều gì có thể xảy ra đối với ông và “vì sự tôn trọng của tôi đối với nghề nghiệp”, Ẩn quyết định không phản đối quyền của Safer về việc xuất bản cuộc trò chuyện đó. “Làm vậy thì tôi sẽ trở thành người kiểm duyệt, mà tôi lại không thể làm điều đó, nhưng tôi có thể tìm cách để bày tỏ cho người ta thấy rằng nếu đó là cuộc trò chuyện được ghi lại để công bố thì tôi đã nói như thế nào”, Ẩn giải thích.
Cuốn sách của Safer dự định được ấn hành tại nhà xuất bản Random House, nơi trước đó không lâu Anson xuất bản cuốn Những ý định tốt nhất: Học vấn và việc giết hại Edmund Perry. Anson đã gọi cho nhà xuất bản. “Tôi cầu xin họ qua điện thoại ba hay tám lần gì đấy và giải thích cặn kẽ phương pháp viết bài của Morley”, Anson cho biết. Ông còn thuật lại chuyến thăm Ẩn mới đây rồi đề nghị Random House và Safer biên tập lại những đoạn được quy là lời của Ẩn trước khi cho xuất bản, và họ đã chấp thuận.
Lối kể chuyện cuối cùng xuất hiện trên ấn phẩm được giảm tông xuống khá nhiều so với bản gốc, nhưng vẫn cho thấy sự bộc trực đặc trưng của Ẩn. Ông đáp lại câu hỏi của Safer liên quan đến việc ông làm cho ai: '“Sự thật? Sự thật nào? Một sự thật là trong 10 năm tôi làm một phóng viên chính thức của tạp chí Time và trước đó là của Reuters. Sự thật còn lại là tôi đã tham gia phong trào cách mạng từ năm 1944 và bằng cách này hay cách khắc đã trở thành một phần của phong trào kể từ đó. Hai sự thật… đều là thật.'“ ông đáp lại câu hỏi của Safer về các hoạt động của ông khi làm gián điệp: “'Công việc thực sự bắt đầu vào năm 1960, lúc tôi đang làm cho Reuters. Tôi giữ cấp bậc tương đương chỉ huy trung đoàn… Trong thời gian làm việc cho Time, tôi được phong đại tá… Tôi đã thâm nhập vào tất cả các căn cứ của [miền Nam] Việt Nam và quan hệ với các chỉ huy căn cứ. Cấp trên của tôi muốn biết rõ sức mạnh của nhiều đơn vị khác nhau. Họ muốn ước lượng năng lực của các tư lệnh - những người đã tha hóa và có thể tha hóa.
Câu hỏi và câu trả lời dần trở nên rất nhạy cảm khi Safer hỏi tại sao cuộc cách mạng thất bại: “'Có rất nhiều nguyên nhân. Có quả nhiều sai lầm xuất phát từ sự dốt nát tệ hại. Giống như mọi cuộc cách mạng, chúng tôi gọi đó là một cuộc cách mạng của nhân dân, nhưng rồi, tất nhiên, nhân dân là những người đầu tiên phải chịu đựng… Chừng nào còn người dân ngủ ngoài hè phố, chừng đó cuộc cách mạng còn thất bại. Không phải mấy ông lãnh đạo là những kẻ tàn bạo, nhưng hậu quả của độc tài gia trưởng và của lý thuyết kinh tế sai lầm là như nhau”.
“'Ông có lo ngại về chuyện nói toạc móng heo? Điều đó không nguy hiểm chứ?'“ Safer hỏi. Câu trả lời của Ẩn năm 1990 cũng tương tự như vào năm 2006: “'Mọi người biết tôi cảm thấy thế nào. Tôi không giữ bí mật gì về điều đó. Tôi chưa bao giờ… Tôi đã quá già để có thể thay đổi. Tôi đã quá già rồi để có thể im lặng”. Khi Safer hỏi về các cải cách kinh tế mới đây tại Việt Nam, Ẩn đáp, “Đó là điều làm trái tim tôi đau đớn. Hãy xem người ta đã phấn khích như điên trước một vài cải cách kinh tế ít ỏi. Nó cho thấy những khả năng nào có thể mở ra cho đất nước còn đang nghèo khó này nếu như chúng tôi không chỉ có hòa bình, mà còn nhiều vấn đề cơ bản khác nữa”.
Trong một câu hỏi về cuối, Safer hỏi Ẩn có bất kỳ sự hối tiếc nào không. “'Tôi ghét câu hỏi đó. Tôi đã tự hỏi mình câu hỏi đó hàng ngàn lần. Nhưng tôi còn ghét câu trả lời hơn. Không. Không hề hối tiếc. Tôi phải làm việc đó. Nền hòa bình mà tôi chiến đấu để giành lấy có thể khiến đất nước này què quặt, nhưng chiến tranh thì có thể giết chết xứ sở này. Người Mỹ phải bị đẩy khỏi Việt Nam bằng cách này hay cách khác. Chúng tôi phải tự giải quyết vấn đề của mình”.
Khi cuộc phỏng vấn khép lại, Safer hỏi: “Liệu họ có thể để ông ra đi không?“
“Tôi không biết. Tôi không chắc là mình muốn”, Ẩn đáp. “ít nhất, tôi muốn các con tôi tới Mỹ để học hành”. (30)
Khi cuộc phỏng vấn Safer - Ẩn được công bố, tất cả những gì Ẩn có thể làm là hy vọng những người ở trong chính quyền sẽ không gây khó dể cho ông, cho dù đã có một hệ quả tức thời, theo tiết lộ của Douglas Pike, bạn ông, thì công tác giám sát đã được tăng cường bởi nhà chức trách cho rằng Ẩn đã “tiết lộ bí mật quốc gia trong cuộc phỏng vấn do Safer thực hiện”. (31)
“Tôi lo lắng bởi một ai đó bên an ninh sẽ dễ dàng nói không với con trai của tôi vì những điều tôi vừa mới nói. Lần này tôi đã gặp may. Tôi nghĩ là họ cho rằng bằng cách cho phép con tôi tới Mỹ. Vì thế, điều trái ngược với lo ngại của tôi thực sự đã xảy ra. Đó là cách để họ nói, 'Cảm ơn, về nhà đọc sách và im lặng lại giùm’. Khi tôi hỏi Frank McCulloch tại sao Hà Nội lại cho phép Hoàng Ân đi, ông đã trả lời tương tự: “Hành động đó có một ý nghĩa hoàn hảo: chúng ta hãy chiều lão già này và xem thử với đặc ân lớn lao này, chúng ta có thể làm cho ông ta bớt nói được không. Tôi không nghĩ ra lý do nào khác khiến họ làm điều đó”.
Tôi vẫn không rõ vì sao chính phủ Mỹ lại cho phép người con trai đầu lòng của một điệp viên Cộng sản cốt cán được phép nhập cảnh trong giai đoạn mà việc xin thị thực là vô cùng khó khăn. Liệu có thể một ai đó đã gọi điện xin xỏ hoặc gây áp lực cho một ai đó trong Bộ Ngoại giao hoặc một cơ quan khác của chính phủ để giúp con trai của Ẩn? Liệu có phải Ẩn vẫn còn một dạng ảnh hưởng đối với phía bên kia hay không? Nếu có, vậy thì toàn bộ câu chuyện có nghĩa là gì? Chẳng hạn, tại sao William Colby đề nghị được gặp Ẩn trong cả hai lần ông tới Việt Nam? “Tôi không thể chấp nhận lời mời bởi vì cuộc gặp có thể tạo ra nghi kỵ”, Ẩn nói với tôi. “Họ đã nghi tôi là người của CIA rồi”. Liệu Colby chỉ đơn thuần muốn gặp một người bạn cũ để ngả mũ chào, để đùa giỡn? Hay còn có một tầng sâu hơn nữa, dẫn tới thêm nhiều câu hỏi vốn chẳng bao giờ có thể trả lời?”
Bob Anson đã tình nguyện sử dụng mối quan hệ gia đình để xem xét liệu Hoàng Ân có thể được chấp nhận vào trường báo chí tại Đại học North Carolina (UNC) hay không? Anson bây giờ đã cưới vợ mới; mẹ vợ của ông, bà Georgia Kyser, sống tại Chapel Hill và có quan hệ thân thiết với trường đại học này. Anson viết thư cho McCulloch, “Georgia là một quý bà miền nam tuyệt vời và thực sự có quan hệ với UNC cũng như cộng đồng tại đấy, vì thế nên đây có thể là một điều kiện lý tưởng”.
Bà Georgia thực sự có quan hệ tốt với cộng đồng UNC tại Chapel Hill. Bà là vợ của James Kem “Kay” Kyser, trưởng ban nhạc nổi tiếng và là nhân vật quen thuộc trên đài phát thanh, ông cũng là cựu sinh viên UNC và là một trong những ủng hộ viên lớn nhất của trường.(32) Năm 1943, ông gặp Georgia Carroll, một người mẫu tóc vàng từng tham gia đóng nhiều phim, trong đó có vai Betsy Ross trong bộ phim ca nhạc Yankee Doodle Dandy của James Cagney vào năm 1942. Họ cưới nhau sau đó một năm.(33) Rồi bà Georgia nghỉ diễn để chăm sóc ba người con gái - Kimberly, Carroll và Amanda. Gia đình Kyser sống trong ngôi nhà cổ nhất Chapel Hill, nằm cạnh khu học xá trường đại học.
Georgia đồng ý cho Hoàng Ân ở nhờ trong căn phòng tầng hầm đầy tiện nghi của gia đình. Tới hôm nay, Hoàng Ân vẫn gọi bà là mamo, nghĩa là “người mẹ thứ hai”. Hoàng Ân cũng vinh dự làm cha đỡ đầu cho cô con gái Gigi của Robert Sam và Amanda Anson. “Cậu ấy là một trong những điều vĩ đại nhất từng có trong đời tôi”, bà Georgia nhớ lại. “Ở đây, chúng tôi là hai người đến từ hai nền chính trị và hai phần khác nhau của thế giới, và hai đất nước của chúng tôi từng đánh nhau trong quá khứ, nhưng là những con người, chúng tôi gắn kết với nhau. Đây thực sự là lần đầu tiên trong đời tôi có một người bạn châu Á. Cậu ấy là một nguồn vui”.
Để Hoàng Ân được chấp nhận vào học chương trình báo chí là phần dễ nhất trong các nhiệm vụ liên quan. Trong một lá thư đề ngày 7 tháng 5 năm 1990, Chủ tịch C. D. Spangler của Đại học North Carolina viết cho Anson rằng “Đại học North Carolina ở Chapel Hill rất vui lòng chấp nhận ông Ân là một sinh viên hệ không cấp bằng tại Trường Báo chí”. (34)
Khóa học một năm, không cấp bằng là rất hữu ích cho sinh viên ngoại quốc bởi họ có thể tham gia các lớp học mà không bị ràng buộc vào các yêu cầu cụ thể, dù hệ không cấp bằng cũng không được hỗ trợ về tài chính. Nếu học tốt trong năm đầu tiên và sau đó làm tốt kỳ thi GRE, Hoàng Ân có thể trúng tuyển vào chương trình cao học báo chí.
Ngay trước dịp lễ Lao động (Labor Day - ngày thứ hai đầu tiên của tháng 9 hàng nãm, là một ngày nghỉ lễ của Mỹ - ND) năm 1990, Anson nhận được một lá thư của Ân - lúc này đang sắp xếp một số việc tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hoàng Ân cần ba loại giấy tờ để xin thị thực xuất cảnh. Thứ nhất, một lá thư chính thức chấp nhận của trường đại học, cái này thì đã có. Thứ hai, người bảo lãnh chính thức trong thời gian ở Mỹ (trường đại học cũng yêu cầu điều này). Thứ ba, thị thực nhập cảnh vào Mỹ, trong đó, cùng với một số thủ tục khác, yêu cầu phải có thời gian hai tuần để kiểm tra an ninh tại Đại sứ quán Mỹ ở Bangkok. “Tôi đang xoay xở để hoàn tất mấy thứ này”, Anson gọi điện thông báo cho McCulloch, “và phía Việt Nam, cụ thể là ông Nguyễn Quang Dy, tùy viên báo chí tại đây, đã hứa sẽ làm tất cả mọi thứ để giúp giải quyết nhanh”. (35)
Yêu cầu trước mắt là phải quyên tiền. Do Hoàng Ân không nhận được tài trợ từ UNC, vì vậy các cựu đồng nghiệp của ông Ẩn phải lo. Đó là kỳ nghỉ lễ Lao động, nên vào ngày thứ ba, McCulloch lên kế hoạch hành động. “Nhắn Ẩn hãy vững tin. Bánh xe bắt đầu chuyển động, dù hơi chậm”, McCulloch đánh điện cho Bob Anson.(36)
Trong một thư ngỏ “Các bạn thân mến” đề ngày 4 tháng 9 năm 1990, McCulloch viết, “Tôi xin lỗi vì không đề tên riêng từng người trên lá thư này, nhưng thời gian là cực kỳ quan trọng, và đây có lẽ là cách gửi thư hiệu quả nhất. Tôi nghĩ là phần lớn các bạn, về mặt cá nhân, đều quen biết Phạm Xuân Ẩn, và những người không quen thì cũng sẽ dễ nhớ ra rằng ông ấy từng là phóng viên của văn phòng Time-Life ở Sầi Gòn cũng như là chủ đề của một chương đầy chua cay trong cuốn sách của Morley Safer vừa mới được trích đăng trên tạp chí New York Times Chủ nhật. Thế hệ đã đổi thay, và bây giờ người con trai cả của Ẩn, là cậu Hoàng Ân, đang rất muốn đến Mỹ học báo chí - không phải là một phương tiện để rời khỏi Việt Nam mà, như lời của chính cậu ấy, để trở về cùng với những kỹ năng mới và ‘quay lại phụng sự nhân dân tôi’.
McCulloch cảm ơn Anson vì đã thuyết phục được UNC đưa ra lời chấp nhận, vì đã dàn xếp chỗ ở cùng với mẹ vợ của ông, và vì đã khởi động “những bánh xe quan liêu tại Mỹ cũng như Hà Nội. Vấn đề còn thiếu hiện nay là chất liệu để kết nối tất cả mọi thứ lại với nhau, đơn giản đó là tiền”, Frank viết. “Theo ước lượng kỹ lưỡng nhất của chúng tôi, số tiền tối thiểu cho một năm học của Hoàng Ân là 11.000 đô la. Khoản này là chi phí cho tất cá mọi thứ, từ vé máy bay khứ hồi tới học phí, tài liệu, tiền ăn ở”. (37)
Trước khi cuộc vận động “chính thức” bắt đầu, người ta đã quyên được 3.000 đôla - 1.000 đôla của Neil Sheehan và 2.000 đôla từ Chủ tịch Spangler, như là một món quà riêng. “Có nghĩa là chúng ta cần vận động 7.500 đôla nữa”, Anson viết. “Trong trường hợp tuyệt vời nhất, Time Inc. sẽ chịu hết khoản này nhưng, thẳng thắn mà nói, tôi không nghĩ khả năng ấy sẽ xảy ra. Theo lời vợ của Sheehan, chị Susan, chị ấy cùng chồng đã gọi chuyện này ra tại một bữa tối với sự có mặt của nhiều lãnh đạo Time Inc. cách đây vài tháng nhưng đã nhận được cái lắc đầu. Nhìn lại những năm dài Ẩn làm cho Time với mức lương thấp, cũng như việc ông ấy tiếp tục giúp đỡ tất cả những phóng viên của Time có dịp đi qua Sài Gòn, tôi thấy cái lắc đầu đó là quá quắt nhưng chuyện là như thế đấy”. (38)
Anson gợi ý một người nào đó tới tòa soạn New Yorker và đề nghị họ hiến tặng như là một cử chỉ tưởng nhớ Robert Shaplen, người đã qua đời vào tháng 5 năm 1988, nhưng ông lo ngại rằng, nếu không có sự tài trợ của các tổ chức, chỉ với sự quyên góp của từng cá nhân thì rất khó đạt được mục tiêu. Ông liệt kê danh sách những người có thể tiếp cận để vận động ủng hộ - “David Greenway, Dick Clurman, Murray Gart và những phóng viên như Bill Stewart, trưởng văn phòng Hồng Kông, người mà Ẩn cũng viết thư trực tiếp để nhờ giúp đỡ; Stanley Cloud, người mới đây đã gặp Ẩn; Laura Palmer, người 'dành hết cho Ẩn’. Jim Willwerth tại văn phòng L.A, Burt Pines của Tổ chức Heritage, Bill Marmon, Pippa Marsh, Jon Larsen, Jim Wilde, John Sarr, cựu thành viên của Life tại Sài Gòn và giờ đang làm việc cho People, Dick Swanson và Germaine Greer [nguyên văn] của Germaine… Bà ấy chống Cộng kịch liệt, thế nên hãy chuẩn bị tinh thần để hứng cơn thịnh nộ… Beverly Deepe”.
Việc liên lạc với Ẩn cũng gặp nhiều khó khăn; công tác theo dõi đã được tăng cường kể từ sau cuộc phỏng vấn của Safer, và ông không có một máy fax hoặc điện thoại an toàn. “Cho tới nay, hoặc là tôi tự mình tới Sài Gòn hoặc là gửi thư tay thông qua những phóng viên đến đấy”, Anson giải thích với McCulloch, “Gửi thư tay cũng gặp khó khăn, bởi rất ít phóng viên sang đấy. Cũng may là tôi đã có được ít nhất một người đưa thư. Đó là Alison Krupnick làm việc cho Chương trình Ra đi có trật tự (ODP)(*) của Bộ Ngoại giao Mỹ. Nói tiếng việt rất sõi, Aỉison đến Sài Gòn thường xuyên và sắp tới sẽ đi vào ngày 3 tháng 9. Nếu ông có nhắn gì cho Ẩn từ lúc này cho tới thời điểm đó, hãy fax cho tôi càng sớm càng tốt. Tôi hy vọng Alison có thể làm bồ câu đưa thư đều đặn, nhưng điều đó cũng chưa có gì chắc chắn cả”.
Alison Krupnick có mười năm làm cán bộ Cục Công tác nước ngoài(**) và làm việc cho ODP từ năm 1988 đến 1992. Cô đã đến Việt Nam hơn ba mươi lần trong giai đoạn đó. “Thời kỳ cao điểm của chương trình (ít nhất là trong nhiệm kỳ công tác của tôi), mỗi tháng chúng tôi thực hiện hai chuyến đi, mỗi chuyến kéo dài hai tuần để phỏng vấn”. (39) Krupnick nhớ lại lần cô tới thăm nhà Ẩn, bề ngoài là để hỏi ông về việc liệu Hoàng Ân đã biết chuyện cha mình hoạt động tình báo thời chiến tranh hay không. “Tôi nhớ là mình đã rất ấn tượng bởi phẩm cách của ông ấy. Gặp ông giúp tôi có được một hình ánh minh họa nữa về sự phức tạp của cuộc đấu tranh giành độc lập của người Việt Nam. Rất nhiều nhà báo rõ ràng đã kính trọng và tin tưởng Phạm Xuân Ẩn. Nhưng ông lại là một điệp viên. Điều đó khiến tôi băn khoăn rằng liệu ông có phải là con người hành động theo lương tâm, một người chiến đấu theo lương tâm mình hay chỉ là một kẻ cơ hội… Là một người Mỹ trẻ và ngây thơ chưa từng chứng kiến trực tiếp cuộc chiến, tôi chỉ đơn giản hình dung mình sẽ làm gì nếu những nguyên tấc của tôi hoặc gia đình tôi bị đe dọa. Câu chuyện của Phạm Xuân Ẩn, giống như câu chuyện của nhiều người mà tôi từng gặp, là một sự nhắc nhở tôi rằng sự vật không luôn luôn đen hoặc trắng”. (40)
______________________
(*) Orderly Departure Program (ODP) là một chương trình cho phép người Việt Nam tị nạn nhập cánh vầo Mỹ sau chiến tranh, bắt đầu từ năm 1979 và khép lại vào năm 1994.
(**) Foreign Service là cơ quan triển khai các chính sách đối ngoại của chính phủ Mỹ và hỗ trợ người Mỹ ở nước ngoài.
______________________
“Aỉison Krupnick tới kiểm chứng chỗ tôi”, ông Ẩn nhớ lại, “và muốn biết về những gì con trai tôi biết thời chiến tranh. Tôi nói với cô ta rằng tôi không có mạng lưới nào cả, không có ai khác giúp đỡ tôi, và rằng tôi là một con sói đơn độc. Vì thế, con trai tôi không biết gì cả; cậu ấy hoàn toàn không biết những gì tôi làm. Chỉ đến khi tôi được phong Anh hùng vào năm 1976 thì con trai tôi mới biết”.
Rồi bằng cách nào đó, cuộc trò chuyện của họ chuyển qua đề tài chiêm tinh, và Ẩn phát hiện ra rằng cả hai người đều sinh nhằm cung Xử nữ. “Sau đó tôi cho cô ấy mượn cuốn sách tử vi tiếng Pháp. Tôi nói với cô ấy rằng tôi rất mê tín, và sinh nhằm chòm sao Xử nữ, nên tôi cảm thấy việc một phụ nữ tới để kiểm tra tất cả mọi thứ này là một dấu hiệu tốt lành. Tôi cảm thấy được bảo vệ bởi cung chiêm tinh của mình”. Krupnick xác nhận cuộc trao đổi này, và còn bổ sung: “Vâng, tôi cũng thuộc cung Xử nữ. Tôi vẫn thường phì cười khỉ nhớ lại chuyện một Phạm Xuân Ẩn khả kính đã hỏi rằng tôi có hay bị rối loạn tiêu hóa hay không bởi vì 'người mang cung Xử nữ thường bị như thế’. Cuộc trò chuyện như thế dường như hiếm gặp ở Việt Nam”.
Krupnick cũng nói với Ẩn rằng cô từng đến sống ở Monterey trong thời gian học tiếng Việt tại Viện nghiên cứu Quốc tế Monterey, nơi cô nhận bằng cử nhân văn chương. Ẩn kể cho cô nghe chuyện ông từng được mời dạy tiếng Việt cho đoàn cố vấn Mỹ đầu tiên sang Việt Nam và nghĩ về tình huống trớ trêu rằng nếu ngày ấy nhận công việc đó luôn thì có lẽ ông đã là thầy giáo của cô rồi.
Vào thời gian này, Anson đang phối hợp chặt chẽ với bà Judith Ladinsky, người đã liệt kê chi tiết về các thủ tục để giúp Hoàng Ân nhận được thị thực và sẵn sàng làm giúp tất cả thủ tục giấy tờ giữa Hà Nội và Bộ Ngoại giao Mỹ - một khi xác nhận được ai là người bảo trợ.
Công việc của Ladinsky là một huyền thoại ở Việt Nam. Bà đã giúp Uỷ ban Hợp tác khoa học Mỹ xây dựng một cơ sở hạ tầng khám bệnh phát triển mạnh, thiết lập chương trình nghiên cứu hỗn hợp và chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu về nhi khoa, phẫu thuật giác mạc, dinh dưỡng, HIV/AIDS và điều trị ung thư. Một phần nhiệm vụ của bà tại ủy ban là thúc đẩy sinh viên Việt Nam tới học tại các trường đại học Mỹ; Chương trình Trao đổi Giáo dục (VEEP) của bà tổ chức các kỳ kiểm tra tiếng Anh TOEFL mỗi năm hai lần tại Việt Nam. “Không có sự giúp đỡ của Judith Laảinsky thì chắc con trai tôi đã không đi được”, Ẩn nói với tôi.
Một trong những lời tư vấn quan trọng nhất của bà Ladinsky đó là cần có thư của một người có địa vị gửi cho ông Henry Dearman, chủ nhiệm chương trình đào tạo đại học, đề nghị ông cho miễn yêu cầu về người bảo lãnh để có thể xin thị thực theo mẫu nhập cảnh 1-20. Anson liền gợi ý các nhà báo ký tên vào đơn gửi tới UNC, trong danh sách có cả tên của Giám đốc CIA William Colby, bạn của Ẩn, “vì chắc chắn là chẳng ai kiểm tra điều đó”.
May mắn là ông chủ nhiệm Dearman đã đồng ý bỏ yêu cầu về người bảo trợ sau khi biết ông Chủ tịch Spangler đã có món quà riêng cho Hoàng Ân và có lẽ cũng nhờ cả mối quan hệ giữa gia đình Kyser với UNC. Tôi hỏi Amanda Anson tại sao ông Spangler lại ủng hộ nhiệt tình như vậy. “ông ấy là chủ tịch mới của trường và sống cách nhà mẹ tôi chỉ hai căn, mà lại vừa mới thay một ông chủ tịch rất nổi tiếng, đó là Bill Friday. Đây là trường hợp một nhân vật mới ủng hộ một sự nghiệp chân chính, mà về sau có thể thấy, đó là ông ấy rất tin tưởng Hoàng Ân như bất kỳ người nào khác. Sau này, ông đã tới thăm gia đình ông Ẩn ở Việt Nam ba lần, và cha của Hoàng Ân đã có cơ hội để nói lời cảm ơn”.(41)
Nỗ lực của Frank McCulloch trong giai đoạn ấy trở nên vô cùng đáng trân trọng bởi đấy là lúc gia đình ông đang trải qua khủng hoảng. Con trai của Frank McCulloch ốm rất nặng và sắp qua đời, nên ông phải nghỉ phép để dành thời gian cho gia đình. Mười lăm năm sau, Ẩn nhờ tôi chuyển lời ghi âm sau đây đến cho Frank: “Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với ông vì đã giúp đỡ con trai tôi ở mức cao nhất mà ông có thể, đặc biệt là trong hoàn cảnh rất nghiệt ngã đối với ông bởi ông chỉ có một người con trai duy nhất, một luật sư, lúc bấy giờ đang ốm liệt giường và không thể bình phục và mọi người đều biết rằng cậu ấy sắp rời xa ông mà đi vì không thể sống được lâu… Trong hoàn cảnh căng thẳng và đầy áp lực như vậy, ông vẫn dành nhiều thời gian để quyên tiền cho con trai tôi. Tôi thực sự biết ơn ông rất nhiều”.
Với sự giúp đỡ của Judith Ladinsky, Hoàng Ân ký vào đơn xin du học báo chí tại Mỹ theo Chương trình Trao đổi Giáo dục. Ladinsky nhớ lại cuộc trò chuyện giữa bà với Hoàng Ân. “Cậu ấy là một chàng trai rất thú vị và đầy lòng biết ơn, cậu ấy cảm kích tất cả những gì mà người cha cũng như bạn bè của cha đã làm cho cậu ấy. Tôi đã hỏi cậu ấy về vai trò của cha cậu ấy trong thời chiến tranh. Cậu ấy đã nói về áp lực khủng khiếp mà cha cậu ấy từng chịu đựng và bày tỏ sự cảm kích đối với tất cả những gì mà tạp chí Time đã dành cho gia đình. Cậu ấy nói với tôi rằng không biết làm sao mà cha cậu ấy có thể sống một cuộc sống đầy hiểm nguy như vậy trong chừng ấy thời gian”. (42)
Karsten Prager, người gần một thập kỷ trước đã viết thư cho McCulloch rằng “Tôi luồn mến Ẩn nhưng chưa bao giờ tin ông ta“ đã trở thành cầu nối thông tin giữa Anson và Hoàng Ân trong hoàn cảnh Frank vắng mặt. Anson nói chuyện với Phó lãnh sự Larry Woodruff tại Đại sứ quán Mỹ ở Bangkok. “Chính phủ Mỹ biết lý lịch thời chiến tranh của ông Ẩn và không thấy bất cứ vấn đề gì đặc biệt đối với Hoàng Ân từ phía chúng tôi. Woodruff nói rằng Hoàng Ân sẽ không gặp rắc rối gì trong việc xin thị thực nhập cảnh của Mỹ, và ông ta đã điện về Washington, thúc đẩy bánh xe chuyển động vì mục đích này”. (43)
Đến lễ Tạ ơn năm 1990, thủ tục kiểm tra an ninh của Hoàng Ân được thông qua và thị thực loại F-1 dành cho sinh viên được cấp. Bạn bè và các cựu đồng nghiệp của Phạm Xuân Ẩn đã quyên đủ tiền cho hai năm học của Hoàng Ân tại UNC. Ẩn chuyển số tiền hưu từ tờ Time vào quỹ và góp thêm 3.000 đôla. Các khoản đóng góp cá nhân đến từ các nhà báo Neil Sheehan, Stanley Karnow, John Larsen, Johnny Apple, Morley Safer, John Griffin, Bill Plante, Don Moser, Stanley Cloud, Dean Brelis, Laura Palmer, Dick Swanson, Jason Shaplen, Dick Clurman, cộng thêm khoản đóng góp của Time, Inc. Hầu hết các đồng nghiệp đều chia sẻ cảm xúc mà Jack Laurence đã viết, “Tôi vui vẻ tham gia bộ máy gây quỹ… và cảm ơn bạn vì đã cho tôi biết có một việc chính nghĩa đang cần được giúp sức”. (44)
Hồ sơ của Hoàng Ân nằm chờ tại Đại sứ quán Mỹ ở Bangkok. Vào phút chót, có một rắc rối nảy sinh. Đó là trước hết Hoàng Ân phải bay ra Hà Nội để xin Đại sứ quán Thái Lan cấp thị thực nhập cảnh. “Bà Judith Ladinsky đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong khâu này”, Hoàng Ân nói với tôi. Sau vài ngày ở Hà Nội, Hoàng Ân trở về Thành phố Hồ Chí Minh trước khi bay đi Bangkok để gặp nhân viên của Time lo việc đặt khách sạn và đưa cậu đi mua một bộ com lê mới. Ngày hôm sau, Hoàng Ân thực hiện một cuộc phỏng vấn ngắn và nhận thị thực tại Đại sứ quán Mỹ. Từ Bangkok, cậu bay tới New York, Anson đón cậu ở sân bay JFK.
“Tôi vẫn còn nhớ cậu ấy đã phấn khích đến nhường nào khi vừa đến nhà chúng tôi“ Bob Anson nhớ lại. “Tôi đón cậu ấy và cậu ấy vẫn còn mặc bộ đồ mới mà Time đã mua ở Bangkok. Cậu ấy giống như một chú trẻ con trong công viên Disneyland vậy, rất vui thích khi được tới đây”.
Hoàng Ân học hai năm tại UNC. Cậu làm việc bán thời gian trong thư viện nhà trường và có thời gian tập sự ngắn tại tòa soạn báo, tương tự như cha cậu đã từng làm tại tờ Sacramento Bee hơn ba mươi năm trước. Với một cử chỉ khiến tôi nhớ đến người cha của cậu, Hoàng Ân lục trong một ngăn kéo khác nơi thư phòng của gia đình và lôi ra các bài viết của cậu. Bài đầu tiên mà cậu chỉ cho tôi khiến tôi không mấy nghi ngờ gì về việc cậu vừa sống trong chiếc bóng của người cha đồng thời đang tiến theo con đường của riêng mình. Đó là bài viết trên tờ Herald-Sun phát hành tại Chapel Hill số ra ngày 29 tháng 5 năm 1993 nhan đề “Trạm cứu hộ động vật đã chữa trị, phóng thích những con vịt bị thương”, bên dưới ký tên “Ân Phạm, phóng viên”.(45)
Như đã hứa, Hoàng Ân trở về Việt Nam vào năm 1993 để bắt đầu làm việc trong hệ thống của Bộ Ngoại giao. Năm 1999, cậu nhận được học bổng của chương trình Fulbright và tới học tại Trường Luật Đại học Duke. Khi cậu cần tài trợ để tham dự thêm học kỳ mùa hè tại trường Duke, Chủ tịch Spangler đã không do dự ủng hộ vào ngân quỹ.
Dù sống tại Durham trong suốt ba năm học trường luật, Hoàng Ân luôn về thăm gia đình Kyser mỗi dịp Giáng sinh. Trong một tấm thiệp giáng sinh đề ngày 16 tháng 12 năm 2000 gửi tới Georgia Kyser, Phạm Xuân Ẩn viết, “Vợ chồng chúng tôi rất cảm kích trước việc bà đã coi Hoàng Ân là một thành viên của gia đình. Đối với cháu, nhà bà là ngôi nhà thứ hai và cháu đã rất may mắn khi được trở lại North Carolina để tiếp tục học”.
Trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống George W. Bush vào tháng 11 năm 2006, Hoàng Ân đã làm phiên dịch cho cuộc nói chuyện giữa Tổng thống Bush và Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Hoàng Ân kể với tôi, “Ước gì ba có mặt ở đây để chứng kiến khoảnh khắc này. Nhiều lúc giọng tôi nghẹn lại giữa lúc đang phiên dịch cho hai vị nguyên thủ, cố gắng kìm nước mắt”.
Tôi xin khép lại bằng một câu chuyện ngắn do bạn tôi là Đại úy Mark Clodfelter của Đại học Chiến tranh Quốc gia, người đã đưa lớp học của mình tới Việt Nam vào mùa xuân năm 2006, kể lại. Đoàn đã được dự một buổi nói chuyên của ông Lê Quốc Hùng, Giám đốc Sở Ngoại vụ Thành phố Hồ Chí Minh và là sếp của Hoàng Ân. Hoàng Ân cũng có mặt, với nhiệm vụ trao đổi trong phần hỏi đáp. “Anh ta gặp nhóm chúng tôi, gồm tám học viên (một nhóm hỗn hợp gồm sĩ quan không quân, lục quân, hải quân và thủy quân lục chiến, một nhân viên Bộ Ngoại giao, một thành viên dân sự làm việc cho Bộ Không quân(*) và hai giảng viên, vào sáng ngày 8 tháng 5 năm 2006. Chúng tôi cực kỳ ấn tượng trước kiến thức sâu sắc về ngoại giao Mỹ cũng như khả năng nói tiếng Anh trôi chảy và đầy sắc thái của anh ta. Khi chia tay, chúng tôi đều nhận xét rằng tất cả chúng tôi đã cực kỳ ấn tượng trước sự am hiểu siêu hạng của anh ta về chính sách đối ngoại của Mỹ”.
Vâng, cha của cậu có thể đã rất tự hào về người con của ông, nhưng tôi nghĩ ông còn hạnh phúc hơn nữa khi chứng kiến mối quan hệ mới giữa hai đất nước mà ông yêu vô cùng.
______________________
(*) Department of the Air Force (DAF) là một "bộ dưới bộ" trực thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ, quản lý toàn bộ lực lượng không quân Mỹ. Trong hệ thống tổ chức của Bộ quốc phòng Mỹ, có ba bộ trực thuộc là Bộ Không quân, Bộ Lục quân và Bộ Hải quân (quản lý Hải quân và Thuỷ quân lục chiến).
CHÚ THÍCH:
CHƯƠNG 7: DƯỚI BÓNG NGƯỜI CHA
(1) Ngày 18-1-1975, “Thư từ”, Hộc 7, Tài liệu của Lansdale.
(2) Tim Bowden, One Crowded Hour: Neiỉ Davis, Combat Cameraman 1934-1985 (Sydney, Ausưalia: Nhà xuất bản Collins, 1987), trang 347; Tiziano Terzani, Giai Phong! The Fall and Liberation of Saigon (New York: Nhà xuất bản St. Martin's, 1976).
(3) Neil Davis và Robert Shaplen biên tập cho tạp chí New Yorker, Tài liệu của Shaplen. Xem ghi chú và bản thảo, Letter from Saigon, Neil Davis tại Hộc 95, Ghi chú: Tệp 30, Tài liệu của Shaplen.
(4) “The Quiet Vietnamese: Journalist and Spy Phạm Xuân Ẩn Led a Life of Ambiguity”.
(5) Nguyễn Xuân Phong, Hope and Vanquished Reality (Philadelphia: Nhà xuất bản Xlibris, 2001), trang 152-7.
(6) Sách đã dẫn. Tác giả phỏng vấn Nguyễn Xuân Phong.
(7) Sau chiến tranh, việc ông Trần Văn Trà ca ngợi các lực lượng B-2 ở miền Nam, cũng như sự đánh giá chân thực và phê phán đối với các thượng cấp Cộng sản, đã khiến ông bị chính phủ trừng phạt, ông phải chịu một loại hình thức quản thúc trong thời gian ngắn. http://lists.village.virginia.edu/sixties/HTML_docs/Texts/Narrative/Ott_Tran_Van_Tra.html.
(8) Hope and Vanquished Reality, trang 259.
(9) Dragon Ascending, trang 194. Cao Giao thường đùa rằng ông biết mọi nhà tù từ phía bên trong “và đã hy sinh một đời để đấu tranh cho đất nước Việt Nam vô phúc này”. Trang 196.
(10) Oliver Todd, Cruel April (New York: Nhà xuất bản W. W. Norton, 1987), 253. Vượng, Cao Giao và Ẩn thường được các phóng viên Sài Gòn gọi là “Ba người lính ngự lâm”, Todd viết, trang 25.
(11) Bitter Victory, trang 11.
(12) Phỏng vấn Germaine Lộc Swanson, Bùi Diêm và Dick Swanson.
(13) Hộc 62, Tệp 9, Tài liệu của Sheehan.
(14) Đây là từ của Ẩn; ông cũng nói với Sheehan, Tệp “After the War Was Over”, Tài liệu của Sheehan.
(15) Năm 2006, Ẩn ăn tối với Kỳ tại Thành phố Hồ Chí Minh.
(16) Phỏng vấn Ẩn và “Ghi chú”, Hộc 55, Tệp 12, Tài liệu của Sheehan.
(17) “The Perfect Spy”.
(18) Stanley Kamow, “Vietnamese Journalist's Divided Allegiance: After Nine Long Years, a Double Agent Explains die Mystery of His Actions”. Báo San Francisco Chronicle, 30-5-1990.
(19) Xem hộc 155, Tệp 12, Tài liệu của Sheehan.
(20) Sách đã dẫn; tôi đưa những mẩu ghi chép này cho Ẩn và ông xác nhận.
(21) Stanley Cloud, “The Journalist Who Spied”. 21-9-2006; tạp chí Time.
(22) Hai lá thư được tìm thấy trong Tệp “1980s”, Tài liệu của McCulloch, Hộc 3.
(23) Sách đã dẫn; Hộc 3, “Items Not Foldered-Mainly 1982”. Ngày 10-2-1982.
(24) “The Quiet Vietnamese: Journalist and Spy Phạm Xuân Ẩn Led a Life of Ambiguity”.
(25) Donald Kirk, Tell It to the Dead: Stories of a War. (Armonk, NY: Nhà xuất bản M. E. Sharpe, 1975), trang 28-29.
(26) Bài luận xin nhập học tại Đại học North Carolina, tài liệu của Robert Sam Anson và Hoàng Ân cung cấp.
(27) Tiểu sử, Phạm Xuân Ẩn, trang 79, “Vietnamese Journalist and Spy” AP, 21-9-2006.
(28) Morley Safer, Flashbacks: On Returning to Vietnam (New York: Nhà xuất bản Random House, 1990).
(29) Flashbacks, trang 175 và 184.
(30) Việc trao đổi thư từ xuất hiện từ ít nhất là tháng 5-1990 từ Betty Medsger, chủ nhiệm khoa báo chí tại Đại học bang ở San Francisco, gửi tới Frank về bài luận của Phạm Xuân Hoàng Ân. “Rõ ràng là anh ta có một tinh thán tử tế và thiện chí đói thoại. Có vẻ như đây là một nhà báo tương lai.'' 96-39 Hộc 11, Tài liệu của McCulloch.
(31) Douglas Pike lúc bấy giờ là một quan chức của Cục Công tác nước ngoài được cử tới Sài Gòn làm việc cho Cơ quan Thông tin Mỹ. Pike sẽ “kinh ngạc cực độ nếu một trong hai điều sau đây xảy ra: Hà Nội cấp thị thực hoặc Mỹ cấp thị thực”. Pike từng thất bại trong việc giúp các sinh viên của mình xuất cảnh khỏi Việt Nam (“đâm đầu vào tường đá”) và cho biết “việc giám sát đối với Phạm Xuân Ẩn đã được gia tăng đáng kể trong những tuần gần đây và [điều đó] là điêm báo rằng không có gì tốt cho triển vọng của Hoàng Ân”. 96-39 Hộc 4; 10.9, 96-39 Hộc 11, Tài liệu của McCulloch.
(32) Thời Thế chiến II, Kay Kyser thực hiện nhiều buổi diễn USO (United Service Organizations - buổi diễn cho quân đội Mỹ) hơn bất cứ nghệ sĩ trình diễn nào khác, kể cả bạn thân của ông là Bob Hope, người sau này tới UNC để giúp Kay quyên tiền xây dựng bệnh viện cho trường. Kyser đã hiến tặng rất hào phóng cho trường đại học vón là nơi giúp ông khởi đầu sự nghiệp âm nhạc. Ông viết bài hát “Tar Heels on Hand” vào năm 1937 để dành tặng UNC. Thông qua Quỹ Kyser, thành lập năm 1941, ông trao tặng học bống cho sinh viên âm nhạc và kịch tại UNC.
(33) http://www.parabriSsis.com/d_carrollg.php.
(34) Ngày 7-5-1990; Dick ký tên gửi tới Robert Sam. 3-5-1990.
(35) Toàn bộ hồ sơ của Hoàng Ân lưu tại Hộc 11, Tài liệu của McCulloch; về sau ông Dy đã viết lời điẽu rất xúc động bằng tiếng Anh trong sổ tang của Ẩn, sẽ được trích đăng trong chương kế tiếp.
(36) Ngày 31-8-1990, 96-39 Hộc 11, Tài liệu của McCulloch.
(37) Anson gửi McCulloch, Hộc 11, Tài liệu của McCulloch, không đề ngày.
(38) “Rồi thì Morley nữa. Sheehan đã tiếp cận ông ấy nhiều tháng về trước, nhưng bị từ chối, vài lần với lời hứa rằng ông ấy sẽ xem xét lại vấn đề sau khi sách ra mắt. Có trời mới biết, ông ta đang bơi trong bế bùn, và sách ông ra sẽ trở thành cuốn bán chạy nhất chủ yếu nhờ chương về Ẩn, ông ấy chắc hẳn sẽ tiến tới. Tuy nhiên, tôi, chẳng hạn, sẽ khá sửng sốt nếu ông ấy làm như thế”. Sách đã dẫn.
(39) Xem Alison Krupnick, “The Benefit of the Doubt” (Vietnamese People), Harvard Review, 1-6-2005.
(40) Phỏng vấn Ẩn và trao đổi thư tín giữa tác giả với Krupnick; Krupnick nhớ lại rằng Hoàng Ân “nói tiếng Anh chuẩn và thông minh nên chắc chắn sẽ tiến xa”.
(41) “Đã điện đàm rất lâu với Judith Ladinsky, người giúp chỉ ra toàn bộ thủ tục mà Hoàng Ân phải hoàn thành để rời Việt Nam và tới Mỹ. Thực ra, một khi bên Carolina đã gửi thư xác nhận Hoàng Ân có một nhà bảo trợ tài chính và tiên bạc thì vấn đề không phải khó khăn lắm. Dù sao, Judith sẽ giúp giải quyết giấy tờ liên quan tới Bộ Ngoại giao, trường đại học và Hà Nội”. 96-39, Hộc 11.
(42) Phỏng vấn Judith Ladinsky. Trong bản trình bày về mục đích được gửi kèm theo hồ sơ xin du học tại United States, Hoàng Ân viết, “Trong bối cảnh hiện nay của nên kinh tế toàn cầu, không nước nào có thể tồn tại và phát triền mà lại tự cô lập mình với phần còn lại của thế giới, Việt Nam cũng vậy. Vì thế, tôi nghĩ việc thiết lập đường dây liên hệ với bất cứ đất nước nào, bao gồm cả Mỹ, là một trong những mục tiêu của Việt Nam.
Từ quan điểm đó, có thể thấy bình thường hóa quan hệ Việt Mỹ chỉ là vấn đề của thời gian. Mặt trời đã ló lên từ đường chân trời. Điều chúng ta cần bây giờ là tăng cường đối thoại và tiếp xúc gần hơn. Đối với tôi, một nhà báo có thể phát huy tác dụng lớn nhất vào tiến trình này. Đó là lý do tôi muốn học báo chí tại Mỹ… Đó là cách tốt nhất để tôi đắm mình vào thực chất đời sống Mỹ, để có được những kiến thức hữu ích cho nền kinh tế nước tôi, để có đóng góp đáng kể vào mối quan hệ Việt - Mỹ, và một cách toàn diện, và để thấy rõ hơn viên cảnh quan hệ đông - tày”.
(43) Hộc 11, Tài liệu của McCulloch.
(44) Ngày 1-11-1990; toàn bộ danh sách tài trợ được lưu tại Hộc 11, Tài liệu của McCulloch.
(45) Một bài viết khác của Hoàng Ân là “Restoring a Gem: Ex-Actress seeks to Return Theatre to its Former Glory”, tập trung vào việc tái tạo Nhà hát Rừng (Forest Theatre). Tập 6, Số 65, Durham A. 10, 9-8-1993.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét