Thượng tướng, Tiến sĩ Nguyễn Huy Hiệu, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
GIẢI PHÓNG QUẢNG TRỊ 1972
Những thắng lợi của nhân dân ba nước Đông Dương trong hai năm 1970-1971 đã tạo tình thế thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta. Đặc biệt, thắng lợi to lớn trên Mặt trận Đường 9 - Nam Lào mùa Xuân năm 1971 đã làm rung chuyển cả bộ máy chiến tranh của Mỹ ở Sài Gòn, tác động rất mạnh đến ngụy quân, ngụy quyền miền Nam.
Đối với Mỹ, chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" đã triển khai thực hiện được 3 năm (từ năm 1969 đến năm 1971), tuy gặp thất bại liên tiếp nhưng chúng vẫn chủ quan cho rằng chương trình "bình định nông thôn" đã giành được "thắng lợi quyết định", ta đã bị hãm vào tình thế bị động, nên chúng dự đoán hoạt động của ta trong năm 1972 cũng chỉ tương tự như năm 1971. Mỹ chủ trương cố giữ cục diện chiến trường Đông Dương khỏi xấu hơn nhằm phục vụ yêu cầu chính trị và ý đồ chiến lược của chúng. Đồng thời chúng tiếp tục thực hiện mục tiêu chiến lược đẩy mạnh "Việt Nam hóa chiến tranh" rút dần quân Mỹ còn lại ở miền Nam để tạo điều kiện mặc cả với ta trên thế mạnh trong đàm phán tại Hội nghị Pa-ri nhằm xoa dịu phong trào đấu tranh trong nước Mỹ, trên cơ sở đó tạo điều kiện cho Ních-xơn tái cử tổng thống cuối năm 1972.
Mục tiêu và ý đồ chiến lược của Mỹ trong "Việt Nam hóa chiến tranh", nhằm chuyển vai trò quân Mỹ sang cho quân ngụy, các cuộc phản kích ra vòng ngoài do quân ngụy Sài Gòn giữ vai trò nòng cốt...
đã thất bại nặng nề. Cuộc chiến tranh "bóp nghẹt" của Mỹ đã không cô lập được cách mạng ở miền Nam vì chúng không bịt được đường biên giới Cam- pu chia, không phá được hành lang vận chuyển chiến lược Bắc - Nam của ta. Mỹ không làm thay đổi được so sánh lực lượng đang ngày càng không có lợi cho chúng.
Lực lượng chiến lược của chiến tranh "Việt Nam hóa" và các biện pháp chiến lược quân sự của địch trên chiến trường đã tỏ ra bất lực và suy yếu thêm một bước qua những thất bại liên tiếp trên chiến trường ba nước Đông Dương. Quân ngụy chưa làm được việc thay cho quân Mỹ, như Mỹ từng hy vọng.
Các thủ đoạn tác chiến chiến lược hảo đảm cho chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" do ngụy Sài Gòn, ngụy Cam-pu-chia, ngụy Lào thực thi đều bị thất bại và hạn chế tác dụng trước cách đánh mưu trí, sáng tạo của quân dân ba nước Đông Dương trong các chiến dịch quy mô lớn năm 1971.
Thất bại chiến lược đó làm cho tình hình chính trị của Mỹ - ngụy càng rối ren. Những mâu thuẫn vốn có trong chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và "học thuyết Ních-xơn" ở Đông Dương càng mâu thuẫn sâu sắc.
Sau gần ba năm thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", với những cố gắng rất lớn cả về quân sự và chính trị, Mỹ - ngụy chẳng những không mạnh lên như kế hoạch dự định mà ngược lại chúng càng bị suy yếu cả về lực và thế, bị lún sâu hơn vào thế bị động chiến lược, khó phương tháo gỡ.
Về phía ta, trên chiến trường miền Nam, tuy kế hoạch "bình định" của địch đã bị chặn lại và đẩy lùi một bước, nhưng ta vẫn chưa tạo được chuyển biến có ý nghĩa chiến lược. Phần lớn các sư đoàn chủ lực vừa từ ngoài biên giới trở về chiến trường miền Nam, trình độ tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng chưa theo kịp yêu cầu phát triển chiến tranh. Bộ đội địa phương, dân quân du kích số lượng còn ít và chất lượng chiến đấu chưa cao. Công tác thiết bị chiến trường, bảo đảm vật chất cho tác chiến lớn còn nhiều trở ngại. Chúng ta cần có sự nỗ lực vượt bậc mới khắc phục được những khó khăn trên để tiến lên giành thắng lợi lớn hơn. Cuộc chạy đua giữa ta và địch trong năm 1972 sẽ là một cuộc đọ sức có ý nghĩa quyết định để đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đến một bước ngoặt mới. Trên mặt trận đấu tranh quân sự, ta phải có những đòn tiến công mạnh, tiêu diệt lớn để làm chuyển biến cục diện chiến tranh.
Ngay từ tháng 5 năm 1971, Bộ Chính trị đã họp để đánh giá tình hình, xác định thời cơ chiến lược và đề ra nhiệm vụ cần kíp của quân dân ta: "Kịp thời nắm lấy thời cơ lớn, trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh tiến công quân sự chính trị và ngoại giao, phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và trên cả chiến trường Đông Dương, đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ, đánh bại một bước quan trọng kế hoạch xâm lược của chúng ở Cam-pu'chia và Lào, giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời sẵn sàng chuẩn bị, kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài".
Đầu tháng 6 năm 1971, Hội nghị Quân ủy trung ương nhấn mạnh: Tình hình đang chuyển biến mau lẹ đòi hỏi ta phải có sự cố gắng cao hơn, tranh thủ thời gian, khắc phục nhược điểm khó khăn, xây dựng thế và lực của ta trên chiến trường nhanh hơn nữa, kịp nắm lấy thời cơ, hành động bất ngờ, giành lấy thắng lợi cao nhất, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút lui quân Mỹ, đánh cho ngụy quyền tan rã, sụp đổ một bước nghiêm trọng.
Trung ương dự kiến ba hướng tiến công chiến lược trong năm 1972: "Hướng chủ yếu số 1 là chiến trường Đông Nam Bộ; hướng chủ yếu số 2 là chiến trường Bắc Tây Nguyên; hướng phối hợp quan trọng là Trị - Thiên. Trị - Thiên tuy là hướng phối hợp quan trọng nhưng lại gần miền Bắc, có điều kiện bảo đảm hậu cần, vì vậy phải gấp rút chuẩn bị để có thể đánh lớn khi cần thiết hoặc có lợi" (1).
Như vậy, phương hướng chung mà Bộ Chính trị đề ra cho cả năm 1972 là mở nhiều chiến dịch lớn trên toàn chiến trường miền Nam, tạo chuyển biến cơ bản, tiến lên thay đổi hẳn cục diện chiến trường ở miền Nam.
Trên phương hướng đó, tháng 8 năm 1971, Bộ Chính trị ra Nghị quyết mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên các hướng Đông Nam Bộ, Trị
Thiên, Tây Nguyên và hình thành một cuộc tổng tiến công toàn Miền để tiêu diệt lớn quân địch và mở rộng vùng giải phóng. Đến lúc này, miền Đông Nam Bộ được Bộ Chính trị xác định là hướng chủ yếu vì đánh trúng vào đây sẽ có tác động rất mạnh tới Sài Gòn.
Ở miền Nam, Trung ương Cục, Quân ủy Miền vạch kế hoạch quân sự năm 1972 và chỉ đạo công tác chuẩn bị chiến trường, tổ chức lực lượng, dự trữ vật chất. Thường vụ Khu ủy Khu 5, Trị Thiên, Mặt trận Tây Nguyên cũng lần lượt xây dựng kế hoạch tác chiến và chỉ đạo công tác chuẩn bị chiến trường.
Bộ Tư lệnh 559, xác định nhiệm vụ trọng yếu nhất là bảo đảm thông suốt mọi đường vận chuyển chiến lược chuyển đủ và kịp thời khối lượng vật chất cho các chiến trường trước ngày chiến dịch mở màn.
------------------------
1. Nghị quyết Quân ủy Trung ương tháng 6 năm 1971 - số 263 lưu trữ tại Viện lịch sử quân sự Việt Nam.
----------------------------------
Đoàn 559 vừa củng cố, mở rộng tuyến đường Trường Sơn, vừa xây dựng con "đường kín" Tây Trường Sơn để vận tải ban ngày dưới những cánh rừng đại ngàn.
Các đơn vị pháo binh, xe tăng và binh khí kỹ thuật nặng khác vào mặt trận đã có đường dành riêng. Từ Quân khu 5, Mặt trận Tây Nguyên đến miền Đông Nam Bộ đều dồn nỗ lực tập trung mở đường chiến lược và chiến dịch cho chiến trường mình.
Trong Hội nghị cuối tháng 2 năm 1972, Quân ủy Trung ương đã xác định nhiệm vụ quan trọng bậc nhất là tập trung chỉ đạo chiến tranh và tăng cường lực lượng mọi mặt cho chiến trường, chủ yếu là chiến trường miền Nam. Ta đánh giá Mỹ khó có khả năng đưa lục quân trở lại tham chiến, nhưng có thể sử dụng không quân, hải quân trong tình huống chiến lược cần thiết. Nắm bắt thời cơ Mỹ - ngụy vừa thua to trên cả chiến trường ba nước Đông Dương, quân chiến đấu Mỹ còn lại ở miền Nam đã kết thúc nhiệm vụ chiến đấu, nước Mỹ đang trong thời điểm vận động tranh cử tổng thống... ta chủ trương đánh bại địch ở miền Nam.
Ngày 11 tháng 3 năm 1972, Thường vụ Quân ủy Trung ương họp ra nghị quyết chính thức khẳng định phương hướng tiến hành cuộc tiến công chiến lược năm 1972 với sự điều chỉnh như sau: Trị - Thiên, hướng phối hợp quan trọng nay chuyển thành hướng chiến lược chủ yếu: Đông Nam Bộ và Bắc Tây Nguyên, hướng chủ yếu số 1, số 2 nay chuyển thành hướng phối hợp quan trọng, cùng với Khu 5 đẩy mạnh tác chiến quy mô vừa và lớn để thành một cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam.
Có sự thay đổi như vậy là vì chiến trường Trị - Thiên sát miền Bắc, ta có điều kiện tập trung lực lượng, tập trung chỉ đạo và bảo đảm hậu cần cho một chiến dịch quy mô lớn, dài ngày. Thứ hai, cho đến lúc này, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ - ngụy vẫn cho rằng hướng tiến công chiến lược chính của ta vẫn là chiến trường Tây Nguyên, nên đã điều phần lớn sư đoàn dù (lực lượng tổng dự bị chiến lược) và các lực lượng dự bị của quân khu 2 lên hướng này. Trung tuần tháng 3 năm 1972, các đơn vị tham gia các chiến dịch tiến công trên ba hướng Trị - Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ đã vào vị trí tập kết. Ngày 23 tháng 3 năm 1972, Bộ Chính trị thông qua lần cuối và phê chuẩn kế hoạch tiến công chiến lược năm 1972.
Trên hướng tiến công chiến lược chủ yếu Trị - Thiên, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh và Đảng ủy chiến dịch: Tướng Lê Trọng Tấn - Phó Tổng tham mưu trưởng làm Tư lệnh, Tướng Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy. Các đồng chí Cao Văn Khánh, Giáp Văn Cương, Doãn Tuế, Hồng Sơn, Lương Nhân, Anh Đệ làm Phó Tư lệnh. Các đồng chí Hoàng Minh Thi, Lê Tự Đồng - Phó Chính ủy. Đồng chí Hồ Sỹ Thản - Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị tham gia Đảng ủy - Bộ Tư lệnh chiến dịch.
Thượng tướng Văn Tiến Dũng - ủy viên Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng được cử làm đại diện của Quân ủy Trung ương ở hướng chiến lược này.
Đó là bối cảnh chiến lược, những chủ trương biện pháp chiến lược trực tiếp quyết định quá trình chuẩn bị các chiến dịch, đặc biệt là chiến dịch Trị - Thiên năm 1972.
Quân ủy Trung ương xác định chiến dịch tiến công ở Trị - Thiên có nhiệm vụ chủ yếu như sau: Tiêu diệt phần lớn lực lượng quân sự địch ở Trị - Thiên, cơ bản tiêu diệt hai sư đoàn và đánh thiệt hại nặng một sư đoàn khác.
Phối hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự và nổi dậy của quẩn chúng ở nông thôn, đồng bằng, đẩy mạnh phong trào đô thị và công tác binh vận; tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng bảo an, dân vệ, phòng vệ dân sự, đánh bại kế hoạch bình định của địch.
Giải phóng phần lớn địa bàn Trị - Thiên, có điều kiện thì kiên quyết giải phóng toàn bộ hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Tiêu diệt, phân tán, giam chân, thu hút lực lượng địch, phối hợp với các chiến trường khác giành thắng lợi chung cho cuộc tiến công chiến lược năm 1972.
Trong hai nhiệm vụ trên thì nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch và hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy là quan trọng nhất. Bởi vì, muốn phong trào quần chúng nổi dậy mạnh mẽ thì phải có những đòn tiêu diệt sinh lực địch, phá thế kìm kẹp của địch. Mặt khác, muốn tiêu diệt nhanh gọn sinh lực địch mở rộng địa bàn hoạt động nhất thiết phải có sự đấu tranh hỗ trợ của quần chúng.
Ngày 15 tháng 3 năm 1972, tại Bãi Hà, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch họp triển khai kế hoạch tác chiến. Trước tấm bản đồ chiến dịch, Tướng Lê Trọng Tấn - Tư lệnh chiến dịch nhấn mạnh: Trị - Thiên (nhất là Quảng Trị) là một địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng trong hệ thống phòng ngư chiến lược của địch. Trong thời gian qua, mặc dù bị đánh đau, nhưng địch vẫn ngoan cố, không chịu bỏ điểm nào. Ngay từ cuối năm 1971, Mỹ - ngụy đã Phán đoán hướng tiến công chiến lược năm 1972 của ta, tuy không phải là Trị - Thiên nhưng chúng vẫn tăng cường phòng vệ, ráo riết hành quân, tung biệt kích, thám báo thăm dò, phát hiện lực lượng và sự chuẩn bị của ta.
Tới trung tuần tháng 2 năm 1972, lực lượng địch ở Trị - Thiên gồm có. hai sư đoàn bộ binh số 1 và 3; hai lữ đoàn thủy quân lục chiến số 147 và 258; bốn tiểu đoàn và 94 đại đội bảo an; 302 trung đội dân vệ; 5.100 cảnh sát; 14 tiểu đoàn pháo binh gồm 258 khẩu; ba thiết đoàn gồm 184 xe tăng, thiết giáp.
Với lực lượng trên, địch bố phòng trên hai hướng Quảng Trị và Thừa Thiên, lấy Quảng Trị làm trọng điểm.
Lực lượng địch bố trí thành ba tuyến: Tuyến ngoài cùng (tiếp giáp với ta), bố trí tương đối chặt chẽ, liên hoàn, có không gian rất rộng kéo dài từ biển Đông đến sát biên giới Việt - Lào. Tuyến này có nhiệm vụ phát hiện, ngăn chặn, phá hoại sự chuẩn bị của ta từ xa. Lực lượng tiên phong bảo vệ tuyến này là không quân, pháo binh, biệt kích, khi cần thiết thì dùng một bộ phận nhỏ bộ binh hành quân càn quét. Tuyến giữa, tuyến phòng thủ cơ bản, tuyến quan trọng nhất, quyết định nhất trong hệ thống phòng thủ của chúng. Đó là các điểm cao, các căn cứ mà từ lâu Mỹ - ngụy đã từng tuyên bố "bất khả xâm phạm" như: Động ông Do, điểm cao 52, 365, 548, 544, 597, 241... kéo tới Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quán Ngang, Cửa Việt. Nhiệm vụ của tuyến giữa là ngăn chặn các cuộc tiến công của ta, bảo vệ các thị xã, thị trấn, các căn cứ, đường giao thông quan trọng và các vùng đã "bình định" của chúng.
Trên tuyến này, chúng tổ chức thành từng khu vực phòng thủ cấp trung đoàn, tiểu đoàn hoặc tương đương vừa có thể liên kết phòng giữ, vừa có thể độc lập tác chiến. Tuyến trong cùng, còn gọi là tuyến phòng thủ dự bị, từ đường số 1 kéo ra biển Đông gồm các thị trấn, thị xã đông dân như Đông Hà, ái Tử, Quảng Trị. Binh sĩ ở đây có nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với bảo an, dân vệ kìm kẹp đánh phá các phong trào đấu tranh hoặc nổi dậy của quần chúng.
Dựa trên cơ sở phân tuyến như nói ở trên sư đoàn 3 và các lữ đoàn phối thuộc tổ chức phòng thủ ở Quảng Trị thành năm khu vực cấp trung đoàn.
Trung đoàn 57 bố trí từ Quán Ngang đến Dốc Miếu.
Trung đoàn 2, từ Bái Sơn đến Cồn Tiên, trung đoàn 56 từ điểm cao 241 đến nam Tân Lâm, lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến từ Mai Lộc đến Động Toàn, lữ đoàn 258, từ Tân Điềm đến điểm cao 367. Sở chỉ huy sư đoàn 3 đặt ở ái Tử... Nhìn chung chỗ mạnh cơ bản của địch là hệ thống phòng ngư kiên cố, vững chắc được xây dựng và hoàn chỉnh từng bước trong gần hai mươi năm nay. Đây là những điểm cao lợi hại có hệ thống hỏa lực mạnh, đã được tính toán cho pháo binh, pháo hạm và không quân Mỹ có thể khống chế được một vùng rộng lớn hai bên nam bắc sông Bến Hải. Nhưng, chỗ yếu cơ bản của địch là bên ngoài mạnh, bên trong sơ hở. Từ khi bộ binh Mỹ rút, tinh thần binh lính ngụy hoang mang, lại thiếu lực lượng dự bị chi viện.
Đồng chí Tư lệnh nói tiếp: - Căn cứ tình hình địch triển khai trên chiến trường, chiến dịch tổ chức thành bốn cánh quân và sử dụng các lực lượng tác chiến trên từng cánh như sau: Cánh phía bắc, cánh chủ yếu, sử dụng Sư đoàn 320b (thiếu) gồm hai trung đoàn bộ binh và Trung đoàn 27, (Mặt trận B5), Tiểu đoàn 15 độc lập, hai trung đoàn pháo mặt đất (164 và 84), Trung đoàn 284 pháo cao xạ, hai tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp, hai tiểu đoàn công binh, Tiểu đoàn 33 đặc công, một trung đội hóa học, một trung đội trinh sát, một trung đội súng phun lửa do anh Hồng Sơn - Phó Tư lệnh chiến dịch và anh Hoàng Minh Thi - Phó Chính ủy chiến dịch trực tiếp chỉ huy, phối hợp với các lực lượng địa phương tiêu diệt trung đoàn 57 và trung đoàn 2 bộ binh thuộc sư đoàn 3 ở điểm cao 544 (Phu-lơ), Đồi Tròn, Động-mã, Cồn Tiên, thừa thắng bao vây tiêu diệt địch ở Miếu Bái Sơn, Quán Ngang, sẵn sàng chi viện cho Hồ Khê, Đá Bạc, Thiện Xuân, Lăng Cô, Gia Bình... Sau khi đã tiêu diệt toàn bộ các mục tiêu nói trên, nhanh chóng chuyển bao vây tiến công cụm cứ điểm Đông Hà, kiên quyết không cho địch co cụm đối phó.
Ở cánh tây sử dụng Sư đoàn 304, Trung đoàn 38 pháo binh, bốn trung đoàn cao xạ (230, 232, 24~ 280), hai tiểu đoàn tên lửa, một tiểu đoàn xe tăng, một tiểu đoàn công binh, do anh Hoàng Đan, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304 chỉ huy. Có nhiệm vụ tiến công tuyến phòng ngự phía tây của địch ở Động Toàn, Ba Tum, vây ép Ba Hồ nếu địch phản kích tổ chức diệt ngay. Sau đó phối hợp với cánh bắc chiếm Núi Kiếm, bao vây, tiêu diệt các cứ điểm 241, Mai Lộc, Đầu Mầu sẵn sàng tiến công tiêu diệt ái Tử.
ở cánh nam, cánh thứ yếu nhưng rất quan trọng, do Sư đoàn 324 (thiếu), cùng các lực lượng binh chủng phối thuộc, phối hợp chặt chẽ với ba tiểu đoàn địa phương tỉnh Quảng Trị, do anh Giáp Văn Cương - Phó Tư lệnh và anh Lê Tự Đồng - Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh chiến dịch chỉ huy ở nam và bắc sông Thạch Hãn, chủ yếu là khu vực Phượng Hoàng, Động ông Do và một đoạn đường số 1 bắc sông Mỹ Chánh, thực hiện chia cắt chiến dịch, hỗ trợ cho nhân dân Triệu Phong, Hải Lăng nổi dậy diệt ác, phá kìm giành quyền làm chủ.
Địa hình cánh nam là một dải đất hẹp từ Hoàng Hà, Mai Xá lên ngã ba Gia Độ với những doi cát trắng và những cánh đồng chiêm trũng quanh năm ngập nước. Ở đây tuy cơ sở cách mạng vững, bộ đội địa phương và du kích có nhiều kinh nghiệm chiến đấu đa số nhân dân theo cách mạng, nhưng đường cơ động của bộ đội chủ lực khó, nhất là việc triển khai binh khí, kỹ thuật cơ giới. Mặt khác, địch ở đây từ lâu đã có hệ thống phòng thủ vững chắc, thông thạo địa hình, phản ứng nhanh, pháo hạm và giang thuyền nhiều... Căn cứ vào tình hình đó, Bộ Tư lệnh quyết định sử dụng Tiểu đoàn 47 bộ đội Vĩnh Linh, hai tiểu đoàn đặc công 31, 25, một tiểu đoàn pháo mang vác, bốn đại đội địa phương và Đoàn 126 đặc công hải quân, do anh Bùi Thúc Dưỡng - Trưởng phòng đặc công chiến dịch chỉ huy. Các lực lượng này có nhiệm vụ bao vây Dốc Miếu, Quán Ngang từ phía đông, tiêu diệt căn cứ hải thuyền nam Cửa Việt, phối hợp Với Các lực lượng kìm kẹp của địch, phát động hỗ trợ quần chúng ở Gio Linh nổi dậy giành quyền làm chủ.
Sau khi Tướng Lê Trọng Tấn thông báo tình hình địch, phương án sử dụng lực lượng chiến dịch trên các cánh quân của ta, Tướng Lê Quang Đạo, Chính ủy chiến dịch nhấn mạnh: - Cần tranh thủ đánh địch ngoài công sự để tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh, tạo thời cơ đánh những trận quyết định tiêu diệt từng trung đoàn, lữ đoàn địch, phá vỡ tuyến phòng thủ, nhanh chóng đột phá tung thâm, kiên quyết không cho chúng đối phó. Đồng thời phát huy cao độ uy lực của mọi binh khí kỹ thuật hiện có, đánh tập trung hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, coi trọng đánh vừa và nhỏ, đánh sâu và hiểm bằng các lực lượng tinh nhuệ, hỗ trợ cho nhân dân tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên nổi dậy giành quyền làm chủ. Đó vừa là ý chí quyết tâm, vừa là tình cảm thiêng liêng của cán bộ, chiến sĩ trên Mặt trận Trị ' Thiên. Khẩu hiệu của chúng ta là: "Tất cả vì Quảng Trị thân yêu!" "Tất cả vì miền Nam ruột thịt". Trong chiến đấu dù gặp phải khó khăn, gian khổ, ác liệt hy sinh đến mấy cũng kiên quyết đập tan hệ thống phòng ngự mà một thời Mỹ - ngụy đã rêu rao là "kiên cố nhất chiến trường Đông Dương", là "bất khả xâm phạm".
Trong thời gian này, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 27 Phạm Minh Tâm, Chính ủy Nguyễn Võ Hiển, Trung đoàn phó Cao Uy, Phó Chính ủy Ngô Thanh Tùng suốt ngày đêm cùng với các trợ lý cơ quan theo dõi việc triển khai nhiệm vụ chiến đấu.
Nhiệm vụ của Trung đoàn 27, Mặt trận B5 trong chiến dịch này là: Tiêu diệt địch, giải phóng hoàn toàn khu vực 544 (Phu-lơ) và Đồi Tròn, mở cửa ở hướng tây bắc để các đơn vị chủ lực tiến công giải phóng tỉnh Quảng Trị. Đây là lần thứ ba trung đoàn nhận nhiệm vụ tiêu diệt căn cứ Phu-lơ.
Cũng cần phải nhắc lại, căn cứ Phu-lơ và Đồi Tròn là "con mắt thần" trên tuyến hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra, là cứ điểm cao nhất nằm phía tây bắc tỉnh Quảng Trị, án ngữ như một lá chắn cho căn cứ 241 và Đầu Mầu. Đặc biệt, ngoài ba giàn ra- đa trên đỉnh Phu-lơ luôn kiểm soát mọi chuyển động lớn nhỏ của ta, các trận địa pháo cối của địch trên cứ điểm hoàn toàn có thể phát huy lợi thế để bắn phá các trận địa trong toàn tuyến hành lang, bất kể ngày đêm. Ngoài ra, Mỹ - ngụy còn làm một con đường nối căn cứ Phu-lơ với Đồi Tròn và Đường 9 đoạn Đầu Mầu và một con đường cho xe tăng lên căn cứ Phu-lơ từ Cam Lộ qua điểm cao 322 và điểm cao 288. Vì vậy trong phương án tác chiến chiến dịch, việc tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Phu-lơ, Đồi Tròn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Phương án tác chiến của Trung đoàn 27 do Trung đoàn trưởng Phạm Minh Tâm báo cáo với Bộ chỉ huy chiến dịch là. Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 tiến công căn cứ Phu-lơ và Đồi Tròn từ phía tây và tây bắc. Tiểu đoàn 3 luồn sâu vào phía đông nam khu vực điểm cao 322 và điểm cao 288, hình thành thế bao vây căn cứ trước khi có lệnh nổ súng của chiến dịch. Các trận địa pháo của chiến dịch tăng cường và của trung đoàn đặt ở điểm cao 425 và đồi Đ4 (phía bắc căn cứ Phu-lơ) đánh dồn dập xuống căn cứ địch. Tiểu đoàn 2, tổ chức phá rào bằng vũ khí mới FR kết hợp với mìn, bộc phá mở cửa ở phía tây bắc. Sau khi pháo chuyển làn về phía nam, các mũi bộ binh tiến công lên trung tâm căn cứ. Tiểu đoàn 1 tiếp tục chi viện cho Tiểu đoàn 2 trong quá trình chiến đấu và để một đại đội tăng cường làm lực lượng dự bị của trung đoàn.
Tiểu đoàn 3 chủ công, được tăng cường hai đại đội bí mật luồn sâu vào phía đông nam căn cứ Phu-lơ, chốt giữ điểm cao 322 và 288, chia cắt, cô lập căn cứ Phu-lơ không cho địch ứng cứu, giải tỏa từ phía nam lên và chặn không cho địch khi bị tấn công từ căn cứ Phu-lơ chạy về. Khi được lệnh thì chiếm cầu Thiện Xuân. Sẵn sàng cơ động theo hướng phát triển của trung đoàn.
Sau khi nghe Trung đoàn trưởng Phạm Minh Tâm báo cáo, Tướng Lê Trọng Tấn căn dặn thêm: "Đưa Tiểu đoàn 3 của Nguyễn Huy Hiệu vào điểm cao 322 và điểm cao 288 là tạo nên sự bất ngờ rất lớn cho địch. Các anh phải chú ý chỉ đạo mũi thọc sâu chia cắt này, chiến đấu đạt hiệu suất cao". Địa hình khu vực tác chiến trong chiến dịch cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 27 đã quen thuộc. Anh em có thể kể tên từng điểm cao, từng con suối nhỏ và những tọa độ mà bom pháo địch thường xuyên bắn ngăn chặn quân ta hành quân ở xung quanh căn cứ Phu-lơ và Đồi Tròn. Trong những năm tháng trước đây ta và địch giành đi giật lại các điểm cao này.
Mỗi lần kẻ thù giành được, chúng lại huênh hoang, nào là "Phu-lơ là tấm lá chắn vững chắc ở phía tây bắc Quảng Trị", là "con mắt thần điện tử của hàng rào Mác Na-ma-ra". Khắp các ngọn đồi, khe suối xung quanh căn cứ Phu-lơ, Đồi Tròn... đều đã thấm máu của biết bao đồng chí, đồng đội tôi. Các anh vĩnh viễn nằm lại sau những trận chiến đấu quyết liệt với kẻ thù, giữ vững trận địa, tạo thuận lợi cho đơn vị bạn thọc sâu vào phía trong tiêu diệt địch.
Quảng Trị vào những ngày cuối xuân, bầu trời xanh thẳm. Những ai đã từng chiến đấu ở đây đều cảm nhận nỗi gian khổ, ác liệt và căng thẳng hơn bất cứ chiến trường nào. Cán bộ, chiến sĩ trong các đoàn trinh sát địa hình, chuẩn bị hiệp đồng theo phương án trên thực địa, ngày ẩn nấp vào các hầm hố bụi rậm, khe rãnh tránh địch, đêm lần bám vượt qua các tổ chốt của chúng, hoặc cắt đường mà đi, sình lầy, sông suối cũng mặc. Nhưng, có lẽ gian khổ nhất, ác liệt nhất vẫn là các đơn vị đang âm thầm mở đường. Bởi, mọi chiến dịch đều xuất phát từ những con đường. Nhìn hướng đi của đường có thể phán đoán được hướng tiến công, ý đồ tiến công, quy mô tiến công và từ đó có thể phán đoán ra mục tiêu của cả chiến dịch. Bởi thế mỗi khi đã phát hiện ra dấu vết mở đường là lập tức địch đánh phá, ngăn chặn. Bên cạnh việc trinh sát hoàn thiện các mũi hướng tác chiến và mở gấp những mạng đường tiến công, Bộ Tư lệnh chiến dịch bắt đầu ra lệnh cho các cánh quân hành quân vào vị trí đứng chân, nhanh chóng bổ sung đầy đủ vật chất chiến đấu, mặt khác, tiếp tục thực hiện kế hoạch nghi binh chiến dịch. Trong chiến đấu, điều quan trọng hàng đầu là phải giữ được bí mật, tạo được bất ngờ. Đối với một chiến dịch huy động lực lượng lớn, giữ được bí mật, tạo được thế bất ngờ là điều hết sức khó Do quyết định chuyển hướng tiến công chiến lược rất khẩn trương, thời gian chuẩn bị chiến dịch không còn là bao mà phải bảo đảm một khối lượng vật chất hậu cần rất lớn, nên vấn đề có tính quyết định là tập trung chỉ đạo thật tốt lực lượng bảo đảm hậu cần. Đồng chí Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng đã làm việc cụ thể với đồng chí Đinh Đức Thiện - Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần đang công tác ở Đoàn 559 và đồng chí Đồng Sĩ Nguyên, Tư lệnh Đoàn 559 về kế hoạch bảo đảm hậu cần cho chiến dịch Trị - Thiên.
Đến ngày 26 tháng 3 năm 1972, công tác chuẩn bị cho chiến dịch đã cơ bản hoàn thành. Cục Vận tải Đoàn 559 và Đoàn vận tải Quân khu 4 cùng hàng nghìn thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến của tỉnh Quảng Bình, Vĩnh Linh đã có những cố gắng phi thường, vận tải được 16.020 tấn hàng.
Cho đến lúc các binh đoàn chủ lực của ta đã cài thế chiến dịch xong và sẵn sàng bước vào trận quyết chiến chiến lược, thì bộ chỉ huy quân sự Mỹ - ngụy vẫn chưa đoán định được hướng nào là hướng chính của cuộc tiến công chiến lược 1972 của ta. Tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu và những cộng sự sau Tết Nguyên đán Nhâm Tý đã liên tục bay đi thị sát các chiến trường. Ở đâu Thiệu cũng chỉ nhắc nhở: "Cộng quân Bắc Việt sẽ tiến công, nhưng khả năng không bằng Mậu Thân 1968".
Đại tá ngụy, tỉnh trưởng Quảng Trị Phan Bá Hòa tỏ ra lạc quan, tuyên bố thẳng thừng' "Quân đội Việt Nam cộng hòa đã quét sạch đối phương".
Còn chuẩn tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh sư đoàn 3 ngụy trấn giữ Bắc Quảng Trị (mặc dù sư đoàn 3 nằm trong đội hình chiến đấu của vùng 1 chiến thuật nhưng vẫn được coi là đơn vị mạnh của quân chủ lực ngụy. Sư đoàn 3 được xếp ngang hàng với sư đoàn dù và sư đoàn lính thủy đánh bộ) cũng tỏ ra lạc quan trước sự yên ổn của tỉnh Quảng Trị.
Tuy vậy, để đối phó với ta, tướng Hoàng Xuân Lãm - Tư lệnh quân khu 1 kiêm vùng 1 chiến thuật ngụy đã được Bộ chỉ huy quân đội Sài Gòn chi viện thêm pháo binh, xe tăng, thiết giáp. Cảng Cửa Việt, sân bay ái Tử cũng nhận thêm lực lượng và phương tiện chiến tranh để tăng cường cho các căn cứ ở Đường 9 và sư đoàn 3 ngụy.
Sau khi kiểm tra xong các đơn vị đã vào cài thế an toàn, đúng ý định tác chiến, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định giờ nổ súng tiến công trên toàn mặt trận, đó là 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 3 năm 1972.
Đêm 29 tháng 3, tôi và Chính trị viên Trần Xuân Gứng dẫn tiểu đoàn và hai đại đội tăng cường bí mật tiếp cận, chiếm lĩnh tuyến hành lang từ cầu Thiện Xuân đến điểm cao 322, sẵn sàng chặn đánh sư đoàn 3 ngụy. Mặc dù mục tiêu tác chiến vẫn là những địa hình, địa danh quen thuộc nhưng trước nhiệm vụ quan trọng của chiến dịch, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 3 càng xác định phải hết sức thận trọng, bằng mọi cách giữ bí mật đến cùng, bảo đảm phát súng đầu tiên của đơn vị phải là phát súng mở đầu chiến dịch.
Một đêm trắng hành quân, tảng sáng ngày 30 tháng 3, phân đội cuối cùng của tiểu đoàn tôi đã chiếm lĩnh vị trí mai phục chờ địch. Khoảng 7 giờ sáng, khi các chiến sĩ đã ổn định đội hình trong công sự chiến đấu vừa hoàn thành thì hai chiếc trực thăng xuất hiện quần đảo, bắn đạn khói xuống trận địa làm hai chiến sĩ bị thương Cùng lúc, từ phía thị trấn Cam Lộ, năm chiếc xe tăng địch xuất hiện, vừa chạy vừa bắn pháo vào trận địa Đại đội 3. Trước tình huống bất ngờ này, có ý kiến cho rằng trận địa đã bị lộ, đề nghị cho ĐKZ và đại liên nổ súng. Tôi chạy đến nơi đang xảy ra tình huống đó để xem xét cụ thể trước khi ra lệnh nổ súng. Kiểm tra xong, tôi trao đổi với Chính trị viên Trần Xuân Gứng: - Xe tăng địch bắn pháo để dọn đường và thăm dò lực lượng ta. Trận địa chưa bị lộ. Các đại đội tiếp tục chờ đội hình lớn của địch mới nổ súng. Bây giờ tôi xuống Đại đội 1, anh xuống Đại đội 2, tất cả chờ lệnh, không được nổ súng.
Trao đổi xong tôi và anh Gứng mỗi người đi một ngả đến các đại đội động viên, giữ vững quyết tâm cho bộ đội.
Chín giờ, bộ binh địch từ phía điểm cao 105 hành quân lên cách trận địa Đại đội 1 chừng 200 mét, chúng dừng lại. Tổ trinh sát tiểu đoàn bám sát mọi động thái của quân ngụy, bỗng anh em phát hiện có một tốp dân đang tiến thẳng vào trận địa của Đại đội 1 phần lớn là người già và trẻ con. Người chống gậy người cầm dao rựa, người bế con trên tay. Mấy tên lính ngụy đi sau chốc chốc lại chĩa súng vào lưng người dân hăm dọa. Đội hình phía sau của địch vẫn ngồi nghỉ, tốp dân phía trước vẫn đi. Họ càng đi, càng dồn lại tưởng như người nọ dìu người kia. Mỗi lần lính thúc súng vào lưng, trẻ con lại khóc thét lên, người già ngã sấp ngã ngửa. Gần đến trận địa phục kích của Đại đội 1, mấy tên lính dừng lại, thúc người dân đi.
Tình huống thật bất ngờ, tôi nói với Đại đội trưởng Đại đội 1 Nguyễn Phúc Sinh: - Địch bắt dân đi trước để thăm dò, phát hiện lực lượng ta. Nếu phát hiện được, chúng sẽ bất chấp mạng sống của dân cho phi pháo oanh tạc dọn đường rồi dùng người dân làm lá chắn để đánh chiếm trận địa ta. Do đó, anh lệnh cho bộ đội tiếp tục giữ bí mật trận địa. Nếu lộ, nổ súng vẫn phải bảo vệ tính mạng cho dân.
Tôi và Đại đội trưởng Nguyễn Phúc Sinh và anh em trong Đại đội 1 nín thở dõi theo những người dân mệt mỏi bước qua trước nòng súng thép đi về chân điểm cao 322.
Rất may, những người dân chỉ đi men trước trận địa của Đại đội 1. Tuy vậy, đây cũng là thời khắc căng thẳng. Tình thế bất ngờ đã qua, nhưng không thể để dân đi sâu hơn vào nơi sẽ diễn ra trận đánh.
Tôi nói Chính trị viên Trần Xuân Gứng dẫn mấy chiến sĩ bí mật luồn qua mấy vạt cây trực tiếp gặp những người dân. Sau thoáng ngỡ ngàng, khi nhận ra chiến sĩ giải phóng, người dân cho biết: "Lính tiểu đoàn 3, trung đoàn 56, sư đoàn 3 bắt dân đi trước làm lá chắn che đỡ cho nó lên thay tiểu đoàn 1 trên căn cứ Phu-lơ. Nếu phát hiện được Việt Cộng thì chạy về báo sẽ được tiền thưởng". Nhận rõ dã tâm của địch, Chính trị viên Trần Xuân Gứng bí mật cho bộ đội đưa những người dân rời khỏi trận địa về nơi an toàn. Tiểu đoàn 3 ngụy tưởng dân không gặp lực lượng của ta nên tiếp tục hành quân lên căn cứ Phu-lơ thay cho tiểu đoàn 1. Khi kim đồng hồ trên tay chỉ 10 giờ 30 phút, thì cũng là lúc đội hình tiểu đoàn 3 ngụy lọt vào trận địa phục kích của tiểu đoàn.
Theo mệnh lệnh hiệp đồng của Bộ Tư lệnh chiến dịch, giờ nổ súng toàn mặt trận vào lúc 11 giờ 30 phút. Như vậy còn một tiếng đồng hồ nữa mới được nổ súng. Nhưng thời cơ đến, địch hành quân rất chủ quan, bộ đội vẫn giữ được bí mật, bất ngờ. Nếu tiêu diệt lực lượng này thì lính ở căn cứ Phu-rơ sẽ hoang mang, mất tinh thần, tạo thuận lợi cho Tiểu đoàn 2 của ta nhanh chóng dứt điểm căn cứ Phu-lơ, cắt rời quân địch ở Phu-lơ và Đồi Tròn với căn cứ Cam Lộ. Sau khi cân nhắc. Tôi báo cáo trung đoàn trưởng qua hữu tuyến điện, xin mặt trận cho nổ súng trước giờ "G" đồng thời ra mệnh lệnh nổ súng.
Chỉ sau hai ngày đêm chiến đấu, với lối đánh táo bạo, đúng thời cơ, luồn sâu, vây chặt tiến công liên tục và mạnh mẽ, Trung đoàn 27 đã san bằng hai cứ điểm kiên cố của địch, diệt gọn hai tiểu đoàn và một đại đội của trung đoàn 2 và trung đoàn 56 thuộc sư đoàn 3 ngụy, đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn và một đại đội khác, bắt sống 130 tên, trong đó có tên tiểu đoàn trưởng, phá hủy năm xe tăng, thu một xe tăng M41 và một xe GMC.
Trong những trận đánh của Tiểu đoàn 3 có hai chiến sĩ hy sinh đó là Tiêu Văn Bao thuộc Đại đội 3, anh hy sinh ngày 2 tháng 4 năm 1972, ở phía nam cầu Thiện Xuân và chiến sĩ Trần Văn Vạn thuộc tiểu đoàn bộ, anh hy sinh cùng ngày với Tiêu Văn Bao, cũng ở phía nam cầu Thiện Xuân. Các anh được an táng tại tây bắc điểm cao 166.
Trên các hướng của chiến dịch, Trung đoàn 48 Sư đoàn 320B, sau khi tiêu diệt địch ở khu vực Quất Xá, Cầu Đuồi đã nhanh chóng chuyển sang bao vây chi khu Cam Lộ. Ở hướng Cồn Tiên, Miếu Bái Sơn, Đoàn bộ binh 31 của ta đã nhanh chóng bao vây chia cắt, tiêu diệt quân địch vòng ngoài, sau đó cùng lực lượng vũ trang địa phương vây hãm Cồn Tiên. Ngay chiều hôm đó, quân địch ở Cồn Tiên bỏ căn cứ tháo chạy về Miếu Bái Sơn, mở đầu cuộc tháo chạy trên toàn tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch.
Ở hướng đông, ngay sau khi có lệnh tiến công, Trung đoàn 126 đặc công hải quân đã táo bạo đánh vào duyên đoàn 11 ở cảng và hai bên bờ sông Cửa Việt, khóa chặt quân cảng không cho địch ngoài biển vào và ở Đông Hà rút ra. Trong khi đó, căn cứ Dốc Miếu nằm bên trục đường 1 cũng bị pháo ta đánh phá thiệt hại nặng nề, lại bị bao vây từ ba phía. Sáng 1 tháng 4 năm 1972, trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân địch ở Dốc Miếu, Dốc Sỏi hoảng hốt bỏ chạy về Quán Ngang...
Trước tình thế thuận lợi đó, Tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh kết hợp chặt chẽ với bộ đội đặc công, du kích địa phương tiến công tiêu diệt các lực lượng địa phương quân ở thôn ấp, chi khu, đập tan hệ thống kìm kẹp của địch, giải phóng quận lỵ Gio Linh, khu tập trung Bến Ngư, Mai Xá Thị, Xuân Khánh, Hà Thương... tạo điều kiện cho nhân dân các xã Gio Hải, Gio Lễ, Gio Mỹ, khu tập trung Quán Ngang nổi dậy diệt ác ôn, bảo an, dân vệ, giành quyền làm chủ. Ở hướng tây, hướng trọng yếu của chiến dịch, 11 giờ 55 phút, hai trung đoàn pháo binh 68 và 38 trút đạn pháo hỏa tiễn xuống hàng chục căn cứ địch hai bên Đường 9. Những chớp lửa, những đụn khói xám xịt như những cái nấm khổng lồ thi nhau trùm lên căn cứ Động Toàn, Ba Hồ, Mai Lộc, căn cứ 241. Chớp thời cơ địch đang hoang mang về đòn pháo kích, Trung đoàn 9, Sư đoàn 304 tiến công căn cứ Đầu Mầu. Sau 2 giờ chiến đấu quân ta làm chủ căn cứ.
Đầu Mầu bị diệt tạo điều kiện tốt để Trung đoàn 24 và Trung đoàn 9 của ta đưa lực lượng vào bao vây tiêu diệt quân địch ở Núi Kiếm và căn cứ 241.
Trận đánh của Trung đoàn 66, Sư đoàn 304 kéo dài tới ngày thứ ba. Tiểu đoàn 4, lữ đoàn 147 ngụy (lính thủy đánh bộ) đã lợi dụng địa hình hiểm trở, vách đá và dốc đứng của Động Toàn chống trả quân ta rất quyết liệt. Rạng sáng ngày 2 tháng 4 năm 1972, Trung đoàn 66 mới làm chủ được Động Toàn.
Sáng ngày 2 tháng 4, Trung đoàn 48 được lệnh tiến công cụm quân ngụy hỗn hợp của thiết đoàn 20 không cho chúng vượt Cầu Đưồi vào giải tỏa Cam Lộ. Đồng thời phối hợp với đơn vị bạn tiêu diệt quân địch ở đông bắc chi khu Cam Lộ. Bị đánh từ nhiều phía, thiết đoàn 20 bị thiệt hại nặng, số còn lại tháo chạy về Đông Hà. Thấy quân cứu viện bị đánh tan, tên quận trưởng Cam Lộ và tùy tùng của hắn bỏ chạy, không kịp mang theo con dấu và tài liệu.
Phối hợp với các mũi tiến công của bộ đội chủ lực ở vòng ngoài, dưới sự lãnh đạo của huyện ủy Cam Lộ, Gio Linh, bộ đội địa phương, du kích và cán bộ chia thành nhiều cụm, nhiều khu bám sát các mục tiêu đã được phân công. Khoảng 2 giờ sáng ngày 31 tháng 3 các lực lượng đồng loạt nổ súng vào các mục tiêu, đồng thời phát động quần chúng nổi dậy diệt ác phá kìm, phá các khu tập trung, bung dân về làng cũ. Các xã có lực lượng tại chỗ mạnh như Gio Hải, Gio Hà, Cùa, Ba Lòng, khi bộ đội chủ lực tiến công áp đảo kẻ địch thì quần chúng đã kịp thời phối hợp nổi dậy. Đặc biệt xã Gio Hà, tuy chưa có đòn tiến công của chủ lực ta nhưng du kích ở đây khi có lệnh cũng kịp chớp thời cơ nổi dậy diệt địch, giải phóng quê hương.
Ở vùng Cùa, trước giờ nổ súng, huyện ủy Cam Lộ do anh Nguyễn Minh Kỳ, Tỉnh ủy viên, Bí thư huyện ủy đã phát động trên 2.000 quần chúng, tự trang bị mọi mặt sẵn sàng nổi dậy. Trong khu tập trung, đồng bào các dân tộc (phần lớn là dân tộc Vân Kiều, Pa Cô) nổi lên làm binh biến khởi nghĩa cướp xe ôtô của địch, cắm cờ Mặt trận dân tộc giải phóng, kêu gọi đồng bào các dân tộc phá ấp chiến lược trở về bản làng cũ.
Đến ngày 4 tháng 4 năm 1972, toàn bộ các vị trí địch trên bốn cánh cung đông, tây, nam, bắc được coi là "lá chắn thép", "pháo đài bất khả xâm phạm", "hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra" đã bị ta xóa sổ.
Ba huyện Hướng Hóa, Cam Lộ, Gio Linh với hơn mười vạn dân được giải phóng.
Từ nay, giới tuyến quân sự tạm thời được xóa bỏ, sông Bến Hải, cầu Hiền Lương không còn phải chịu nỗi đau chia cắt.
Thay mặt Bộ Tư lệnh chiến dịch, Tướng Lê Quang Đạo điện biểu dương Trung đoàn 27: "Đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong thời gian ngắn đã tiêu diệt nhiều địch, chiếm giữ được địa bàn, mở cánh cửa phía bắc chiến dịch đúng thời gian".
Đêm mồng 5 tháng 4 năm 1972, Trung đoàn 27 nhận được lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch: "Trung đoàn để lại 1 đại đội của Tiểu đoàn 1 chốt giữ bàn đạp, lực lượng còn lại chuẩn bị hành quân về hướng đông". Nhận lệnh xong, Trung đoàn trưởng Phạm Minh Tâm điện cho tôi: "Anh Hiệu nhanh chóng xốc lại đội hình đưa tiểu đoàn về đứng chân ở huyện Gio Linh, nhiệm vụ cụ thể trung đoàn sẽ thông báo sau".
Nhận được điện của trung đoàn trưởng, tôi tranh thủ hội ý Ban chỉ huy tiểu đoàn, triển khai kế hoạch hành quân. Tôi và trinh sát cùng Đại đội 1 hành quân đầu, sau đó là Đại đội 3, Đại đội 2, Đại đội 4 và lực lượng hỏa lực của Đại đội 17 Trên đường về hướng đông Quảng Trị, nơi trước đây chúng tôi phải luồn sâu từng bộ phận nhỏ để phục kích đánh địch trên từng ngọn đồi, đoạn đường, khúc sông, hôm nay, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 27 hùng dũng, tự hào trở lại vùng đất này khi chiến dịch đang phát triển thắng lợi. Cờ giải phóng phấp phới tung bay trên các căn cứ địch đã bị diệt dọc hai bên Đường 9 từ Động Toàn, căn cứ 241 đến Cồn Tiên, Dốc Miếu...
Bị mất tuyến phòng thủ vòng ngoài, địch vội vã tăng cường lực lượng đối phó. Ngày 2 tháng 4 năm 1972, Tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu từ Sài Gòn bay ra Huế thị sát tình hình và vội mở cuộc họp với các tư lệnh quân khu, sư đoàn, lữ đoàn để bàn cách "ngăn chặn hữu hiệu sự xâm lăng của cộng quân Bắc Việt". Nguyễn Văn Thiệu một mặt khích lệ "tinh thần quả cảm vô song" của binh lính đồn trú ở biên ải, mặt khác ra lệnh cho quân khu 1 và sư đoàn 3 bộ binh tổ chức cụm phòng ngự Đông Hà - ái Tử - La Vang và quyết tâm "tử thử" tại đó.
Đồng thời Nguyễn Văn Thiệu chỉ thị cho Bộ tổng tham mưu ngụy cấp tốc tăng viện cho chiến trường Quảng Trị.
Ngày 4 tháng 4, Mỹ - ngụy điều lữ đoàn 369 lính thủy đánh bộ từ Sài Gòn ra Mỹ Chánh. Ngày 5 tháng 4, Bộ tổng tham mưu ngụy điều tiếp ba liên đoàn biệt động quân số 4, 5, 6 từ quân khu 2, quân khu 4 ra tăng cường cho Đông Hà, Quảng Trị. Như vậy chỉ trong hai ngày, bằng sự nỗ lực cao nhất, Bộ tổng tham mưu ngụy đã điều 9 tiểu đoàn tới chiến trường nóng bỏng Quảng Trị. Cùng với việc tăng cường lực lượng phòng thủ, lợi dụng các điểm cao còn lại ở phía tây, địch tổ chức thành tuyến phòng thủ liên hoàn, hỗn hợp bộ binh, xe tăng. Chúng sử dụng lối đánh phân tán nhỏ, cơ động nhanh để tránh hỏa lực và bị ta tiêu diệt gọn. Bộ chỉ huy quân đội Mỹ ở Sài Gòn còn ra lệnh cho các lực lượng không quân (kể cả máy bay chiến lược B.52) và pháo hạm đánh phá dữ dội vào các cánh quân của ta.
Trước diễn biến phức tạp của tình hình, ngày 6 tháng 4, Bộ Tư lệnh chiến dịch nhận định: Địch tuy đã tăng cường lực lượng nhưng chưa được củng cố, tinh thần đang hoang mang dao động, nếu ta đánh nhanh, đánh mạnh thì chúng sẽ tan vỡ nhanh. Bộ Tư lệnh quyết tâm tiến công vào ngay tung thâm phòng ngư của địch, không cho chúng kịp củng cố hoặc tháo chạy.
Sau hai ngày chuẩn bị gấp cơ sở vật chất và điều chỉnh các đơn vị hành quân vào khu vực tác chiến, đúng 15 giờ ngày 8 tháng 4 năm 1972, giai đoạn hai của chiến dịch bắt đầu.
Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho các đơn vị pháo binh bắn phá mãnh liệt cụm căn cứ địch ở Đông Hà, ái Tử, La Vang. Tiếp đó, các mũi bộ binh cơ giới lợi dụng pháo bắn và đêm tối đưa đội hình vào chiếm lĩnh trận địa.
5 giờ sáng ngày 9 tháng 4 năm 1972, trên hướng Đông Hà do Sư đoàn 308 đảm nhiệm, Trung đoàn 36, Trung đoàn 102 được xe tăng thiết giáp yểm trợ đã đột phá mãnh liệt quân địch trên một cánh cung dài khoảng 8 ki-lô-mét từ chùa Tám Mái tây bắc Đông Hà đến điểm cao 32, qua dãy Động Quai Vạc.
Sau 2 giờ chiến đấu, bộ binh và xe tăng ta đã chiếm được một số mỏm đồi phía bắc và phía tây, tiêu diệt một loạt tổ chốt hỗn hợp bộ binh và xe tăng địch. Nhưng sau đó, địch phản kích nhiều lần quyết liệt hòng đánh bật ta khỏi những vị trí mới chiếm được. Trận đánh trở nên giằng co, Trung đoàn 36 phải điều phân đội xe tăng dự bị từ phía sau lên tổ chức đột phá. Nhưng, các chiến sĩ xe tăng có phần chủ quan nên bị xe tăng và súng chống tăng của địch bí mật mai phục trong công sự bắn cháy ba xe tăng của ta.
Ở phía tây ái Tử, 5 giờ sáng ngày 9 tháng 4, Trung đoàn 24, Sư đoàn 304 được xe tăng yểm trợ đánh chiếm căn cứ Phượng Hoàng. Chiều hôm đó, địch phản kích, đánh bật ta khỏi căn cứ.
Như vậy qua hai ngày chiến đấu, tiến công quân địch trên tuyến phòng thủ Đông Hà, ái Tử, Quảng Trị, các đơn vị của ta không những không làm chủ được các mục tiêu được giao, ngược lại còn bị tổn thất về sinh lực và phương tiện chiến đấu.
Nguyên nhân chủ yếu là chúng ta không nắm được sự thay đổi về chiến thuật phòng ngư của địch, một chiến thuật phòng ngư di động mà chúng gọi là "chiến thuật di tản". Tư tưởng chủ yếu của chiến thuật này là tận dụng khả năng chống đỡ của vỏ thép và sức cơ động lớn của xe tăng, thiết giáp trên địa hình đồi bằng, kết hợp với bộ binh thành từng cụm gồm một tiểu đoàn bộ binh và một chi đoàn thiết giáp. Trong từng cụm chúng chia thành từng tốp nhỏ. Các cụm liên hoàn yểm trợ cho nhau thành tuyến phòng ngư. Ở vòng ngoài chúng luôn luôn thay đổi vị trí, ngày ở chỗ này, đêm ở chỗ khác. Xe tăng được nguy trang nằm trong công sự nhô tháp pháo lên thành một hỏa điểm mạnh. Khi chưa phát hiện được ta, chúng bí mật nằm yên, nếu phát hiện được chúng sẽ thông báo cho nhau để hợp đồng chống cự hay phản công. Ở vòng trong, chúng dựa vào hệ thống công sự xi măng cốt thép, dựa vào cấu trúc nhà cửa của thị trấn, thị xã và địa hình phức tạp của đồi trống, làng xóm để tạo cho các tuyến phòng ngự có chiều sâu. Ngoài ra, địch còn dựa vào hỏa lực không quân chiến lược, chiến thuật, hệ thống pháo hạm từ ngoài biển và những trận địa pháo mặt đất để vừa ngăn chặn ta từ xa, vừa yểm trợ trực tiếp cho các trận đánh.
Bộ Tư lệnh chiến dịch chỉ đạo các đơn vị rút kinh nghiệm, đặc biệt là khắc phục tư tưởng chủ quan, nóng vội, không nắm chắc địch. Có một vấn đề là làm thế nào để tiêu diệt một lực lượng quân địch lớn đang tập trung cố thủ với chiến thuật "phòng ngư cứng"? Chưa tìm ra câu trả lời, thì chưa thể nói đánh thắng quân địch ở Đông Hà, ái Tử, La Vang và Quảng Trị được.
Tôi được biết, sau một vài ngày suy nghĩ, với kinh nghiệm chỉ huy tác chiến dày dạn, Tướng Lê Trọng Tấn đã đưa ra được cách giải quyết. Đối với các cụm Đông Hà, ái Tử không thể dùng lối đánh ồ ạt chớp nhoáng để đập tan các cụm phòng ngư bằng một đòn, mà phải đánh nhiều đòn liên tục, làm rạn vỡ từng đoạn, tiến tới đập tan nó bằng một đòn quyết định.
Thực hiện chủ trương của Tư lệnh chiến dịch, từ ngày 10 đến ngày 25 tháng 4, trên các cánh quân của ta, một mặt vừa chuẩn bị cơ sở vật chất cho một đợt chiến đấu lớn, mặt khác, tổ chức những trận đánh nhỏ và vừa nhằm tiêu hao sinh lực địch, giữ vững vị trí đứng chân.
Tại Đông Hà, Sư đoàn 308 chỉ thị cho Trung đoàn 36 đang giữ bàn đạp tại làng Tây Trị (phía bắc Đông Hà), tổ chức các bộ phận đánh phục kích tiêu hao, tiêu diệt lực lượng bộ binh và xe tăng địch.
Trung đoàn 102, khẩn trương chấn chỉnh lực lượng để cơ động tới cầu Lai Phước. Trung đoàn 48 (đơn vị tăng cường), nhanh chóng củng cố đội hình, tích cực hoạt động ở tây và nam Tân Vinh. Tại ái Tử, Sư đoàn 304, dùng Trung đoàn 9 đánh một số trận vào An Đôn, Nham Biều áp sát cầu Quảng Trị, vừa kéo địch ra ngoài để diệt, vừa thực hiện ý đồ chia cắt chiến dịch.
Đến ngày 26 tháng 4 năm 1972, lực lượng địch bố trí ở chiến trường Quảng Trị như sau: Ở hướng chủ yếu Đông Hà - Lai Phước, địch vẫn giữ nguyên trung đoàn 57 (sư đoàn 3) mới thất bại ở Cồn Tiên, Miếu Bái Sơn trở về giữ vai trò trọng yếu trong phòng ngự thị trấn Đông Hà. Đồng thời tăng viện hai liên đoàn biệt động quân số 4 và số 5 ở Trung Trung Bộ, hai thiết đoàn 17 và 20 được coi là thiện chiến, có nhiệm vụ ngăn chặn tiến tới đẩy lùi ta khỏi Đông Hà, sông Hiếu thu hồi những phần đất đã mất. Cả khu vực Đông Hà, Lai Phước, ái Tử được tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh quân khu 1 ngụy giao cho đại tá Nguyễn Trọng Luật (người đã "nướng" thiết đoàn 17 ở Bản Đông trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào xuân 1971) chỉ huy.
Ở nam sông Thạch Hãn, cụm La Vang, Long .Hưng, địch bố trí tiểu đoàn 1 biệt động quân, lữ đoàn 369 thủy quân lục chiến và hai chi đoàn thiết giáp, có nhiệm vụ ngăn chặn, đẩy lùi các đợt tiến công vào các điểm cao phía tây thị xã Quảng Trị, và bằng mọi giá phải bảo vệ bằng được trục đường số 1. Ngoài ra lữ đoàn 369 lính thủy đánh bộ còn giữ trọng trách nặng nề làm lực lượng cơ động cho toàn mặt trận. Tất cả các lực lượng ở mặt trận Quảng Trị được giao cho chuẩn tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh sư đoàn 3 ngụy chỉ huy.
Thông qua việc bài binh bố trận, ta thấy được chỗ mạnh cơ bản của địch lúc này là đã tăng cường được lực lượng, tổ chức được các cụm phòng ngự lớn, liên hoàn, có chiều sâu, chiều rộng thích hợp. Khi xảy ra tác chiến, địch có thể hỗ trợ cho nhau bảo vệ khu vực phòng thủ. Thêm nữa, cường độ và số lượng hoạt động của không quân và pháo hạm của địch gia tăng, đáp ứng yêu cầu tối đa của các đơn vị tham chiến phía trước. Nhưng, chỗ yếu cơ bản của địch là tinh thần hoang mang dao động, lực lượng lại bị thu hẹp trên một khu vực dọc đường số 1, nhiều sông lạch, đầm lầy, khi tác chiến dễ bị chia cắt tiêu diệt.
Về phía ta, sau đợt hoạt động tạo thế ta đã tìm ra được bí quyết sống còn của chiến thuật "phòng thủ cứng" hỗn hợp của. địch. Khí thế các đơn vị đang lên, lực lượng ta sung sức, chiếm ưu thế hơn hẳn quân địch về quân số, hỏa lực pháo binh. Những bàn đạp quan trọng có lợi cho ta vẫn được giữ vững.
Căn cứ tình hình đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch chủ trương tác chiến và sử dụng lực lượng như sau: Tập trung lực lượng tiến công tiêu diệt các cụm quân địch ở Đông Hà, ái Tử, La Vang hỗ trợ cho nhân dân hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng nổi dậy diệt ác phá kìm giành quyền làm chủ, giải phóng hoàn toàn thị xã Quảng Trị, nắm thời cơ phát triển giải phóng Thừa Thiên.
Hướng tiến công chủ yếu là Đông Hà, Lai Phước, hướng phối hợp quan trọng là ái Tử, đoạn cầu Nhùng đi Mỹ Chánh là hướng chia cắt chiến dịch.
Sư đoàn 308 được tăng cường Trung đoàn 48 và ba tiểu đoàn thiết giáp, đặc công, công binh tiến công địch ở Đông Hà, Lai Phước. Sư đoàn 304 được tăng cường hai tiểu đoàn thiết giáp và công binh tiến công cụm cứ điểm ái Tử, đồng thời chia cắt địch ở cầu Quảng Trị, đập tan các đợt phản kích, ứng cứu của quân địch ở Quảng Trị - La Vang sang. Sư đoàn 324 (thiếu) chia cắt địch ở đường số 1, đoạn Quảng Trị - Mỹ Chánh, sẵn sàng đánh bại các đợt giải tỏa ứng cứu của địch từ Huế đánh ra, Quảng Trị đánh vào.
Trung đoàn 27 cùng với Tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh được tăng cường một tiểu đoàn thiết giáp, một tiểu đoàn pháo binh, một tiểu đoàn đặc công, có nhiệm vụ thọc sâu vào đồng bằng ven biển Triệu Phong, Hai Lăng, với nhiệm vụ bao vây vu hồi, chia cắt chiến dịch, khóa đường rút về hướng đông của địch và hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ.
Phương thức tác chiến chiến dịch là hiệp đồng binh chủng chặt chẽ, phát huy sức mạnh của binh khí kỹ thuật, vừa bắn phá trên toàn tuyến vừa tập trung diệt từng điểm, từng cụm, kiên quyết bao vây chia cắt chiến dịch, kết hợp đánh vỡ từng mảng, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn 25 tiểu đoàn bộ binh, ba trung đoàn thiết giáp cùng các lực lượng bảo an và phòng vệ dân sự. Trong quá trình phát triển chiến dịch hết sức chú trọng tiến công quân sự với phát động phong trào nổi dậy của nhân dân.
Vào những ngày cuối tháng 4, thời tiết ở Quảng Trị bắt đầu oi ả. Trên dọc chiến tuyến từ tây bắc Đông Hà, Lai Phước đến những dải đồi ở phía tây ái Tử, La Vang, bộ binh, xe tăng ta nối tiếp nhau vào vị trí xuất phát tiến công. Trong khi đó, máy bay đủ loại của địch vẫn quần đảo trên không. Những chiếc C.130 bay nặng nề, dai dẳng suốt đêm, bắn như đổ đạn xuống vùng ngoại vi các cụm căn cứ Đông Hà, ái Tử, La Vang. Đèn dù, pháo sáng địch sáng rực, không lúc nào tắt Những loạt bom B.52, những loạt bom tọa độ của máy bay B.57 nổ dậy đất. Pháo từ các trận địa, hạm tàu ngoài khơi bắn lúc cầm canh, lúc cấp tập. Nhưng, đạn bom địch không cản được những đơn vị chủ lực ta vào chiếm lĩnh các khu vực theo kế hoạch và thời gian quy định.
Hướng Sư đoàn 308 Ở Đông Hà, Lai Phước, Trung đoàn 102 lặng lẽ tiến dọc theo sông Vinh Phước luồn tránh các điểm chốt của địch, hình thành thế bao vây điểm cao 26, điểm cao 23, Đồi Vuông (tây đường 1). Trung đoàn 88 chia thành hai cánh bí mật luồn sâu vào bên trong bao vây điểm cao 24 (điểm cao được mệnh danh là cánh cửa thép Đông Hà). Trung đoàn 36 từ hướng Tây Trì tiếp cận điểm cao 19 và điểm cao 28. Trung đoàn 48 (tăng cường) đã tiến vào Tân Vinh. Ở phía sau, từng tốp xe tăng, thiết giáp của ta vượt qua những dãy đồi rồi dừng lại cách bộ binh khoảng một đến hai cây số, sẵn sàng đợi lệnh xung trận.
Hướng Sư đoàn 304 ở ái Tử, Trung đoàn 9 và trung đoàn 24 đã tiến vào điểm cao 22, điểm cao 23, điểm cao 42.
Hướng Sư đoàn 324, các đơn vị đã tiến ra đường số 1 thực hiện chia cắt chiến dịch. Cán bộ, chiến sĩ sư đoàn đã chiến đấu quyết liệt với liên đoàn 1 biệt động quân và lữ đoàn 369 lính thủy đánh bộ.
5 giờ sáng ngày 27 tháng 4 năm 1972, các đơn vị trinh sát của bộ binh, các đài quan sát pháo binh được sự giúp đỡ của các tổ công tác địa phương đã xác định lại các mục tiêu lần cuối thật chính xác.
Hệ thống vô tuyến vẫn duy trì phát như thường lệ, không để địch nghi ngờ. Mạng điện thoại đường dây đã thông suốt từ Bộ Tư lệnh chiến dịch đến các trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh, có chỗ xuống tận đại đội làm nhiệm vụ đặc biệt.
5 giờ 30 phút, Tư lệnh chiến dịch Tướng Lê Trọng Tấn, sau khi kiểm tra toàn bộ công tác chuẩn bị chiến đấu của các cánh quân lần cuối cùng đã ra lệnh tiến công.
Mở màn đợt hai chiến dịch là các trận địa pháo hạng nặng 130 ly, Đ74, lựu pháo 155 ly, 122 ly, 105 ly, 100 ly súng cối 160 ly, 120 ly, đạn hỏa tiễn BM14, A12, H12, ĐKB trút bão lửa lên những vị trí quân địch nằm trên suốt chiều dài hàng chục cây số.
Sau 30 phút bắn phá bằng hỏa lực, Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho bộ binh các hướng xung phong.
Ở hướng Sư đoàn 308, Trung đoàn 88 sau khi cùng xe tăng thiết giáp vượt qua điểm cao 37, chia làm hai mũi: Mũi thứ nhất tiến xuống thung lũng tiếp giáp với điểm cao 24 và điểm cao 26. Tại đây, một trận đánh diễn ra ác liệt trên đồi Mâm Xôi.
Trước sự tiến công của ta, bộ binh và xe tăng địch vừa chống đỡ vừa rút về điểm cao 24 gần sân bay Đông Hà. Mũi thứ hai, luồn sâu chốt giữ Làng Mới, tiến công tiểu đoàn 30 biệt động quân, đẩy chúng vào tình thế bị uy hiếp từ nhiều phía. Trước tình thế nguy khốn địch ở Đông Hà liền cho một chi đoàn thiết giáp lên tăng cường và cho không quân, pháo binh yểm trợ tối đa, quyết đánh bật ta ra khỏi vị trí lợi hại này.
Được tăng viện, tiểu đoàn 30 biệt động quân cùng xe tăng dàn hàng ngang, hò hét xông lên. Các chiến sĩ Trung đoàn 88 chờ cho bộ binh và xe tăng địch vào thật gần mới nổ súng. Tên lửa chống tăng B72 điều khiển bằng hữu tuyến lẩn đầu xuất hiện ở chiến trường đã không cho một chiếc xe tăng, xe thiết giáp nào của địch chạy thoát. Kết hợp với.
Tên lửa B72 là súng ĐKZ, B40, B41 nhằm xe tăng địch nổ súng. Mười chiếc xe tăng, xe thiết giáp địch trúng đạn bốc cháy ngùn ngụt. Lính của tiểu đoàn biệt động không còn chỗ dựa là xe tăng, thiết giáp, bất chấp lệnh của chỉ huy chạy tháo thân. Đến 9 giờ, Trung đoàn 88 đã làm chủ các điểm cao 35, điểm cao 24 và điểm cao 37. Đồng thời đưa lực lượng bộ binh cơ giới thọc sâu bao vây sở chỉ huy trung đoàn 57 sư đoàn 3 nguy ở Đại áng, Trung Chỉ.
Trên hướng Trung đoàn 102, hướng tiến công chủ yếu của Sư đoàn 308, cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt. Sau khi pháo bắn yểm trợ, Trung đoàn 102 cho một lực lượng áp sát tiêu diệt địch ở Đồi Vuông, rồi nhanh chóng chuyển sang bao vây quân địch ở điểm cao 26 và điểm cao 23. Địch dựa vào thế cao, hào sâu có xe tăng chống trả ta quyết liệt Trung đoàn 102 đã ba lần tổ chức bộ đội xung phong chiếm các điểm cao nhưng đều bị địch đẩy lùi Trước tình hình đó, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 102 một mặt kiên quyết bám trụ giữ vững trận địa, mặt khác cho người quan sát hỏa lực địch. Sau chốc lát anh em phát hiện hỏa lực của hai xe tăng địch chôn ngầm. Chỉ huy trung đoàn ra lệnh phải tập trung tiêu diệt hai chiếc xe tăng lợi hại nàyt Các loại hỏa lực tập trung vào chiếc xe tăng nhả đạn. Hai chiếc xe tăng địch bị diệt, bộ binh ta tiến lên đánh chiếm và làm chủ các điểm cao 26, 23, 32.
Máy bay địch thi nhau gầm rú bắn phá. Hàng chục trận địa pháo cao xạ và tên lửa tầm thấp cửa ta đã khống chế bầu trời Đông Hà. Gần chục máy bay địch trúng đạn bốc cháy.
Trung đoàn 102 cho Tiểu đoàn 9 tràn xuống đường 1 chặn địch ở cầu Lai Phước. Trên đường tiến công địch ở Trung Chỉ, Trung đoàn 88 bị máy bay, pháo binh địch đánh trúng đội hình gây một số tổn thất nên phải tạm thời đừng lại giải quyết.
Đến 17 giờ, Trung đoàn 88 mới triển khai bao vây quân địch ở điểm cao 28 và tiến công diệt gọn một tiểu đoàn bộ binh và một chi đoàn thiết giáp. Trận đánh vừa kết thúc thì trời cũng đã tối, Trung đoàn 88
phải dừng lại củng cố chờ sáng hôm sau đánh tiếp
Suốt đêm 27 tháng 4 năm 1972, bầu trời Quảng Trị luôn sáng rực bởi đèn dù và pháo sáng. Pháo binh ta tiếp tục bắn phá căn cứ địch ở Đông Hà, ái Tử, La Vang, thị xã Quảng Trị. Kho xăng địch bốc cháy, kho đạn địch nổ tung, tạo ra những vụ nổ dây chuyền kéo dài suốt đêm. Tại Bộ Tư lệnh chiến dịch đêm 27 tháng 4, nét mặt ai cũng rạng rỡ vì thấy bộ đội ta trên các hướng phát triển nhịp nhàng, ăn ý, hoàn thành các mục tiêu được giao. Để chỉ đạo cuộc chiến đấu ngày 28 tháng 4, Tư lệnh chiến dịch Lê Trọng Tấn chỉ thị: Ngay trong đêm, và ngay lúc này Sư đoàn 308 phải trinh sát thật kỹ, luôn bám sát địch, không để một hoạt động nào của chúng thoát khỏi mắt ta. Phải tổ chức lại và tổ chức thật tốt mũi bộ binh cơ giới yểm trợ đột phá ra đường 1, chất giữ và phá sập cầu Lai Phước. Bọn địch xem cầu Lai Phước là mục tiêu rất quan trọng. Chúng cho rằng cầu Lai Phước còn, Đông Hà còn. Vì vậy, ta phải kiên quyết đánh chiếm được cầu Lai Phước.
Tư lệnh chiến dịch nhắc: Sư đoàn 304 khẩn trương chiếm các điểm cao 22, điểm cao 23, điểm cao 42 và điểm cao 46 ở phía tây để lấy đường vào đánh ái Tử và cầu Quảng Trị. Sư đoàn 324, phải đánh thật tốt ở cầu Nhùng, cầu Bến Đá, chốt giữ chặt đường số 1, kiên quyết thực hiện tốt chia cắt chiến dịch. 5 giờ 30 phút ngày 28 tháng 4 năm 1972, cuộc tiến công quy mô toàn diện của bốn cánh quân vào sào huyệt cuối cùng của địch ở Quảng Trị bắt đầu. Mở màn chiến dịch, pháo của ta nã đạn vào căn cứ địch ở Đông Hà, ái Tử, La Vang, thị xã Quảng Trị. Căn cứ địch chìm ngập trong chớp lửa của đạn pháo ta. Tại Đông Hà, Lai Phước, hướng chủ yếu của chiến dịch do Sư đoàn 308 đảm nhiệm. Khi đạn pháo chiến dịch chuyển làn, Trung đoàn 102 chia làm hai mũi đánh thẳng ra đường số 1, quyết chiếm cầu Lai Phước. Quân địch quyết giữ cầu, chứng tập trung hàng chục xe tăng thiết giáp yểm trợ cho bộ binh, bắn như đổ đạn vào đội hình quân ta. Trung đoàn tập trung súng chống tăng các loại cũng chỉ diệt được ba xe tăng và hai ổ đại liên. Số xe tăng, thiết giáp còn lại lợi dụng độ cao của đường sắt làm vật che khuất và che đỡ, nhô tháp pháo lên khống chế xe tăng và bộ binh ta. Trung đoàn 102 buộc phải dừng lại chiếm lĩnh địa hình có lợi, nên tốc độ phát triển chậm. Trung đoàn 88 được xe tăng chi viện tổ chức thành nhiều mũi đánh chiếm Trung Chỉ thuộc xã Triệu Lương, phía đông đường số 1. Quân địch ở đây khiếp đảm trước sự tiến công của ta nên tháo chạy về Đại áng. Quân ta truy kích theo. Cùng lúc đó, Trung đoàn 36 ở hướng bắc, thọc thẳng theo đường số 1 tiến vào Đông Hà. Trước sức tiến công của bộ binh và xe tăng ta, quân địch ở Đông Hà tháo chạy thục mạng. 8 giờ 30 phút, Tướng Lê Trọng Tấn ra lệnh cho Sư đoàn 308: nhanh chóng cắt đứt cầu Lai Phước; đồng thời lưu ý các hướng cần chú ý về sự đột biến tan vỡ của địch. 10 giờ pháo binh chiến dịch bắn phá khu vực cầu Lai Phước. Pháo vừa dứt, mũi bộ binh và cơ giới của Trung đoàn 102 ào ạt xung phong qua đường sắt Ta bắn cháy một lúc ba xe tăng địch, khống chế hai đầu cầu. Quân địch thấy nguy cơ mất cầu Lai Phước - một chiếc cầu sinh tử với quân địch ở Đông Hà, đã dồn sức phản kích điên cuồng, bắn như đổ đạn vào hai đầu cầu. Các chiến sĩ bộ binh và công binh tràn lên cầu. Chỉ trong vài phút, 120 ki-lô-gam thuốc nổ đặt giữa mặt cầu đã được liên kết xong. Anh em điểm hỏa. Khối bộc phá không nổ do nụ xòe gẫy núm và dây truyền lửa bị ẩm, mất tác dụng. Một chiến sĩ mưu trí cặp hai trái lựu đạn vào khối thuốc nổ, giật nụ xòe rồi chạy về đầu cầu. Một tiếng nổ dậy đất, phá huỷ hoàn toàn cầu Lai Phước. Cầu Lai Phước bị cắt đứt như một tiếng sét làm rung chuyển quân ngụy ở Đông Hà. Cùng lúc, trung đoàn 36 ở phía bắc, Trung đoàn 102 ở phía nam theo đường số 1 đánh ngược lên, Trung đoàn 88 ở phía tây đánh ép xuống. Toàn bộ cụm quân địch ở Đông Hà hoang mang cực độ, bỏ xe cộ khí giới chạy thoát thân. Chúng xông vào các xóm làng ven đường, ven sông tranh cướp quần áo của dân để mặc làm dân sự. Chúng lao bừa ra sông Thạch Hãn, tranh cướp thuyền ghe để vượt sang bờ nam. Hàng trăm tên đắm thuyền ghe bỏ mạng giữa sông. 15 giờ 30 phút ngày 28 tháng 4 năm 1972, toàn bộ Đông Hà, Lai Phước được giải phóng. Trên hướng Sư đoàn 304, lúc 5 giờ sáng, khi Trung đoàn 24 đang triển khai đội hình đánh vào ái Tử thì một cụm quân địch hỗn hợp cả bộ binh và xe tăng chết chặn sẵn ở vòng ngoài phát hiện được. |
Cùng lúc đó, Tiểu đoàn 2 và bộ đội địa phương huyện Triệu Phong áp sát vào khu tập trung. Chiến sĩ ta dùng loa kêu gọi binh lính địch ra hàng và kêu gọi nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ. Tiếng loa địch vận dõng dạc vang lên khắp các ấp. Du kích, bộ đội địa phương dẫn từng tổ chiến đấu của Tiểu đoàn 2 vào truy lùng lính nguy và tề điệp ẩn náu trong các ấp. Nhân dân đổ ra đường đón chào bộ đội mỗi lúc một đông. Cả khu tập trung Gia Đẳng tưởng như vỡ ra bởi tiếng reo hò của gần một vạn con người. Cờ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được bà con cất giữ từ lâu, nay được tung bay trên bầu trời tự do. Ai cũng tìm chỗ cao nhất để treo lá cờ cách mạng.
Khu tập trung Gia Đẳng đã được giải phóng, đồng bào trở về quê cũ làm ăn. Ban chỉ huy Trung đoàn 27 chủ trương đẩy mạnh tốc độ tiến công để dứt điểm các mục tiêu chủ yếu đưa lực lượng tiến sâu vào phía nam thực hiện thọc sâu, vu hồi, tạo bàn đạp mới cho chiến dịch phát triển. Cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1972, quận lỵ Hải Lăng là cứ điểm cuối cùng của địch vào loại mạnh nhất còn lại trên đồng bằng Quảng Trị. Tại đây, lính nguy từ Thừa Thiên ra ứng cứu cho Quảng Trị, lính từ thị xã Quảng Trị chạy về, chưa kể lính địa phương ở các nơi dắt díu cả gia đình vợ con đi di tản tắc nghẽn ở quận lỵ Hải Lăng. Bộ chỉ huy vùng 1 chiến thuật vội vã dựng thêm hàng loạt căn cứ mới dọc quốc lộ 1 và hai bên bờ sông ổ Khê để ngăn chặn và "tử thử". Sáng ngày 1 tháng 5 năm 1972, toàn bộ đội hình của Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 27 do tôi chỉ huy đã triển khai xong lực lượng đánh quân địch trong quận ly Hải Lăng. Bên trong quận ly lúc này dân và lính đều đông. Một vấn đề được đặt ra là phải đánh thắng quân địch nhưng cũng phải bảo vệ được tính mạng người dân. Tôi trao đổi với đại đội phó đại đội xe tăng Hoàng Thọ Mạc, quê Xuân Hùng, Xuân Thuỷ, Nam Định: - Để bảo vệ được dân khi nổ súng đánh vào quận lỵ ta cho xe tăng đột kích từ hướng bắc theo đường số 1 vào các cụm quân lớn của địch. Mục tiêu là chi khu quân sự Hải Lăng, uy hiếp tinh thần binh lính địch ngay từ đầu. Khi phát hiện được dân thì không được nổ súng mà dùng loa kêu gọi quân địch đầu hàng, kêu gọi người dân hãy vận động chồng con quay súng trở về với cách mạng. Hoàng Thọ Mạc nói: - Tôi sẽ cho xe tăng tiến nhanh, dùng tiếng nổ động cơ và xích sắt uy hiếp tinh thần chúng, nếu nó chạy cùng với dân thì súng 121y7 trên xe bắn cao làm cho chúng khiếp sợ. Kết hợp làm công tác binh vận và dân vận để đánh địch. Phương án tiến công quận ly Hải Lăng đã được thống nhất cao giữa bộ binh và xe tăng. 8 giờ ngày 1 tháng 5 năm 1972, tôi phát lệnh tiến công địch trong quận ly Hải Lăng. Đại đội 1 Đại đội 2 cùng xe tăng theo đường số 1 tiến vào quận ly Hải Lăng. Tôi và Hoàng Thọ Mạc mỗi người chỉ huy một xe tăng T54 dẫn đầu đội hình ầm ầm tiến thẳng vào quận ly. Đại đội 3 đánh chia cắt địch ở phía cầu Nhi. Cuộc chiến đấu của Đại đội 3 diễn ra ác liệt. Quân địch cố giữ chiếc cầu sinh tử đối với chúng. Năm chiến sĩ của đại đội đã hy sinh tại đây là: Phạm Văn Lân, quê Đội 20, Bắc Thuận, Vĩnh Thành, Yên Thành, Nghệ An; Hồ Văn Tuyền, quê Đội 8, Hợp tác xã Đồng Tâm, Quỳnh Hậu, Quỳnh Lưu, Nghệ An; Nguyễn Như Tư, quê Đội 8, Thanh Văn, Thanh Chương, Nghệ An; Trần Văn Vỵ, quê Đội 7, Thanh Văn, Thanh Chương, Nghệ An và Nguyễn Xuân Lam, quê Đội 6, Thanh Văn, Thanh Chương, Nghệ An. Khi thấy xe tăng và bộ binh ta xuất hiện giữa quận lỵ Hải Lăng, lính ngụy trong các vị trí chống trả quyết liệt. Chúng tôi lệnh cho xe tăng hạ nòng pháo bắn vào các ổ đề kháng. Đạn pháo l00 ly của xe tăng ta bắn thẳng làm quân địch kinh hoàng, bỏ chạy về phía Diêm Thanh. Nhiều tên bơi dọc con sông nhỏ Cửa Sát chạy qua quận lỵ để thoát thân. 10 giờ ngày 1 tháng 5 năm 1972, quận ly Hải Lăng hoàn toàn giải phóng. Chúng tôi đã thực hiện được kế hoạch đánh tiêu diệt địch, không một người dân nào bị thiệt mạng. Mũi tiến công bằng bộ binh cơ giới này Đại đội 1 có một chiến sĩ hy sinh là: Vi Văn Quang, quê Bản Thịnh, Châu Đình, Quỳ Hợp, Nghệ An, Đại đội 2 có một chiến sĩ hy sinh là Phạm Đức Trừ, quê Nghĩa Quang, Nghĩa Đàn, Nghệ An. Chiều cùng ngày Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 27 từ phía thị xã Quảng Trị tiến thẳng theo quốc lộ 1 vào phía tây quận ly Hải Lăng. Ngay từ ngày 28 tháng 4 năm 1972, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 324 đã bí mật vào chiếm lĩnh những vị trí trọng yếu nhất trên đường 1 nam Quảng Trị. Hàng chục trận đánh đã diễn ra ở cầu Nhùng, cầu Dùi, bến Đá, Thượng Xá, Mai Động... 10 giờ ngày 28, một loạt bom B.52 cắt qua đội hình Trung đoàn 1, hai chiến sĩ hy sinh. Một trong ba nữ du kích dẫn đường cũng bị hy sinh. Ngày 29 tháng 4, địch đã phát hiện chủ lực ta chia cắt đường số 1 nên đã cho một tiểu đoàn thuộc liên đoàn biệt động quân số 1 cùng một chi đội xe bọc thép từ Long Hưng vào quyết đè bẹp quân ta. Pháo binh địch bắn phá dữ dội hai bên cầu Nhùng và đầu làng Mai Động. 9 giờ 30 phút, khi các chiến sĩ của Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 1 đã vào vị trí chiến đấu phát hiện một đoàn 30 xe GMC chở đầy lính biệt động quân và công binh bắc cầu dã chiến để thông đường. Ngay từ loạt đạn đầu, Tiểu đoàn 3 đã diệt bốn xe GMC, hai xe M113, số còn lại quay đầu tháo chạy. Cùng thời gian đó, Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 2 Sư đoàn 324 đánh bật tiểu đoàn 8 thuộc lữ đoàn 869 lính thủy đánh bộ ngụy ở khu vực Tường Phước, Tân Điền mở đường cho Tiểu đoàn 4 cơ động xuống đánh địch ở cầu Bến Đá. Bị mất ái Tử và quận ly Hải Lăng đường số 1 phía nam bị cắt đứt, đến 11 giờ ngày 1 tháng 5 năm 1972, quân địch ở La Vang và thị xã Quảng Trị bắt đầu rút chạy. Quân ta tiến vào thị xã Quảng Trị. Đó là một ngày chiến đấu dữ dội, ác liệt nhất và cũng gây cho quân đội tay sai ở Quảng Trị nỗi kinh hoàng nhất. Suốt cả ngày chúng mở hàng chục đợt tiến công, tập trung tất cả những gì chúng có thể tập trung được để khai thông đường. Nhưng chúng đi đến đâu cũng bị đánh, chạy đến đâu cũng bị chặn. Cả đoạn đường gần 30 ki-lô-mét từ thị xã Quảng Trị đến Mỹ Chánh trở thành đoạn đường máu, trở thành "đại lộ kinh hoàng" đối với quân ngụy. Quân địch vô cùng hoảng sợ, vội vã vứt bỏ xe pháo, lột quẩn áo lính, cải trang thành thường dân vượt tắt qua đường, lội ngang sông tháo chạy thục mạng về phía nam, khiến cho địch đóng ở căn cứ Tân Điền, Mỹ Chánh hoảng loạn, bỏ đồn chạy qua Thừa Thiên. Du kích và nhân dân các xã Triệu Thượng, Triệu Lễ, Triệu ái sát cánh với bộ đội trong những trận chiến đấu ác liệt với địch ở xã Triệu ái và thị xã Quảng Trị. Nhân dân xã Triệu Trạch tự dỡ nhà mình làm công sự cho bộ đội, tham gia tiếp tế đạn, thức ăn, nước uống cho cán bộ, chiến sĩ ta. Ngư dân ven biển, ven sông đưa hết thuyền bè, chặt tre, chuối kết mảng giúp bộ đội vượt sông. Nhân dân và du kích ở xã Hải Vĩnh chủ động chiếm đồn Thi ông. Du kích xã Hải Quế đánh chiếm đồn Đa Nghi. Nhân dân và du kích xã Hải Thượng do chị Lê Thị Tám chỉ huy đã gọi hàng và bắt hàng chục tên địch. Du kích xã Hải An phối hợp cùng bộ đội chiếm cảng Mỹ Thủy. Chị Bích La, Thị ủy viên thị xã Quảng Trị dẫn đường cho Sư đoàn 304 đánh chiếm thị xã. Sáng ngày 2 tháng 5 năm 1972, cả Trung đoàn 27 đã có mặt ở bờ bắc sông Mỹ Chánh, cùng các đơn vị bạn giữ vững vùng đồng bằng, phối hợp các hướng khác của chiến dịch tiến vào phía bắc tỉnh Thừa Thiên - Huế, trực tiếp uy hiếp quân địch ở đây. Cũng vào thời gian này, trên các hướng chiến lược ta mở hàng loạt cuộc tiến công quy mô lớn đánh vào các trung tâm phòng ngự của địch. ở Đông Nam Bộ, quân dân ta phá vỡ tuyến phòng ngự biên giới của địch, tiêu diệt ba chiến đoàn bộ binh và hai trung đoàn thiết giáp, giải phóng ba huyện Lộc Ninh, Bù Đốp, Thiện Ngôn và thị xã An Lộc, giải phóng một khu vực rộng lớn ở các tỉnh Tây Ninh, Bình Long và Phước Long. Khối chủ lực của ta đã phá vỡ được các khu vực phòng ngự mạnh nhất của địch, đã chiếm và đứng vững trên các địa bàn cơ động vùng rừng núi, giáp ranh và một số vùng quan trọng ở đồng bằng. ở Tây Nguyên, lần đầu tiên ta mở chiến dịch tiến công quy mô lớn vào tuyến phòng thủ cơ bản mạnh nhất của địch ở Bắc Tây Nguyên, tiêu diệt một sư đoàn địch, nhiều trung đoàn, thiết đoàn trong một cụm phòng ngự kiên cố và dày đặc. Và, cũng là lần đầu tiên ta giải phóng một khu vực rộng lớn, gần hết tỉnh Kon Tum và đã đánh bại liên tiếp các đợt phản kích, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng. ở đồng bằng Khu 5, ta đánh chiếm Hiệp Đức, tiến công địch và làm chủ Bồng Sơn, Tam Quan, bắc Bình Định. Quần chúng nổi dậy hình thành sự phối hợp giữa đòn tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng. Trước tình hình nguy khốn của quân ngụy Sài Gòn, chính quyền Ních-xơn đã phải tiến hành chủ trương có ý nghĩa chiến lược vượt ra khỏi khuôn khổ "Việt Nam hóa chiến tranh", tức là "Mỹ hóa" trở lại cuộc chiến. Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đã huy động một lực lượng lớn không quân, hải quân để chi viện cho quân nguy phản kích và cho hệ thống cố vấn Mỹ trở lại hoạt động đến cấp trung đoàn, nắm quyền chỉ huy trực tiếp cuộc chiến tranh. Đối với miền Bắc, ngày 6 tháng 4 năm 1972, tổng thống Mỹ Ních-xơn huy động một lực lượng không quân và hải quân cao nhất từ trước đến lúc bấy giờ đánh phá trở lại để trả đũa các cuộc tiến công của ta ở miền Nam. Theo số liệu tôi nắm được, máy bay chiến thuật lúc cao nhất là 1.400 chiếc, chiếm tới 40% lúc lượng không quân chiến thuật Mỹ. Máy bay chiến lược B.52 lúc cao nhất 193 chiếc, chiếm 45% B.52 của cả nước Mỹ. Tàu chiến 14 chiếc, chiếm 3/4 tàu chiến của Hạm đội 7, trong đó có sáu tàu sân bay, chiếm 50% số tàu sân bay của Mỹ. Chỉ tính riêng lực lượng không quân đánh Việt Nam của Mỹ đã bằng lực lượng không quân ba nước mạnh nhất Tây âu lúc đó cộng lại là: Anh 600 chiếc, Pháp 475 chiếc, Tây Đức 500 chiếc (số lượng năm 1972). |
Ngày 9 tháng 5 năm 1972; Ních-xơn ra lệnh phong tỏa các cảng và vùng biển miền Bắc Việt Nam, tăng cường ném bom hệ thống giao thông trên bộ và đánh phá tất cả các cơ sở kinh tế và quốc phòng của ta. Ních-xơn tuyên bố: "Thà thất bại trong cuộc bầu cử tổng thống còn hơn thua trong cuộc chiến tranh này". Âm mưu của Mỹ là bóp nghẹt miền Bắc, cắt đứt nguồn tiếp tế từ ngoài vào nước ta và từ miền Bắc vào miền Nam. Với thủ đoạn thâm độc này, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc tính toán rằng, chậm nhất trong vòng 3 tháng ta sẽ kiệt quệ và buộc phải thương lượng với Mỹ trên thế yếu.
Cuộc chiến đấu của quân và dân ta ở miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ ác hệt hơn, quy mô lớn hơn lần trước. Trở lại chiến trường Trị - Thiên, sau hai đợt tiến công và nổi dậy từ 30 tháng 3 đến 1 tháng 5 năm 1972, quân và dân Quảng Trị đã quét sạch hệ thống phòng ngự kiên cố nhất và đập tan bộ máy kìm kẹp của Mỹ - nguy từ sông Bến Hải đến sông Mỹ Chánh, từ Lao Bảo đến Cửa Việt. Trong bài xã luận đăng trên báo Quảng Trị giải phóng có đoạn: "Ngày 1 tháng 5 năm 1972, Quảng Trị hoàn toàn giải phóng, đánh dấu cái mốc vẻ vang trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của tỉnh"... "Quảng Trị là tỉnh đầu tiên của miền Nam được giải phóng. Đó là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng, thắng lợi này tỏ rõ sự trưởng thành vượt bậc, sức mạnh to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, làm cho thế ta càng thắng, lực ta càng mạnh. Ta đang thuận lợi, địch đang khó khăn. Thế và lực của địch đã suy yếu lại càng suy yếu thêm và không tránh khỏi ngày thất bại hoàn toàn". Ngày 12 tháng 5 năm 1972, ủy ban mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh Quảng Trị ra thông cáo Mười chính sách đối với vùng giải phóng, nội dung như sau: - Chính quyền cách mạng tuyên bố xóa bỏ chế độ thống trị của đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu, kiên quyết cùng đồng bào đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn. - Chính quyền cách mạng thi hành chính sách đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc, không phân biệt đối xử giàu nghèo, tôn giáo, xu hướng chính trị và những người trong quá khứ có sai lầm mà nay đã hối cải trở về cùng toàn dân kháng chiến. - Cương quyết trừng trị mọi âm mưu phá hoại những thành quả cách mạng, phá hoại khối đoàn kết toàn dân để bảo vệ cách mạng và giữ gìn trật tự - an ninh. - Bảo vệ tài sản và chăm lo việc làm ăn sinh sống của nhân dân, khuyến khích và giúp đỡ nhân dân đẩy mạnh sản xuất. - Bảo vệ cơ sở văn hóa giáo dục, y tế xã hội và các cơ sở phục vụ công tác khác. - Bảo đảm quyền tự do dân chủ, tôn trọng tự do tín ngưỡng, thực hiện đoàn kết và bình đẳng giữa các tôn giáo. - Thực hiện quyền bình đẳng, đoàn kết và tương trợ giữa các dân tộc. - Sẵn sàng tha thứ và sử dụng những viên chức trước đây làm việc trong bộ máy ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu nay tự nguyện trở về với cách mạng. - Sẵn sàng khoan hồng cho các sĩ quan và binh lính trong quân đội ngụy nay đã thực sự hối cải trở về với chính nghĩa, cùng toàn dân tiếp tục kháng chiến. - Bảo vệ quyền lợi chính đáng của ngoại kiều, kể cả kiều dân Mỹ làm ăn lương thiện trên đất nước Việt Nam. Bằng những chính sách cụ thể, rõ ràng, bản thông cáo đã có tác dụng to lớn, kịp thời cổ vũ các tầng lớp nhân dân tự giác tham gia công cuộc bảo vệ, xây dựng thực lực cách mạng, sẵn sàng đối phó với âm mưu thủ đoạn mới của Mỹ - nguy, huy động đông đảo nhân dân, nhất là thanh niên, phụ nữ và dân quân du kích, xây dựng chính quyền cách mạng. Ngày 5 tháng 6 năm 1972, ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Quảng Trị được thành lập gồm 13 người do ông Lê Bổ (Lê San) làm chủ tịch, ông Nguyễn Thư (Nguyễn Sanh) làm Phó Chủ tịch. Mười một ủy viên gồm các ông, bà: Nguyễn Tập, Phan Văn Khánh, Hùng Sơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Phố, Lê Ngọc Uynh, Trần Quang Huy, Hồ Văn Côi, Nguyễn Hoành, Hồ Văn Xinh, Nguyễn Thị Bảo. Ngày 9 tháng 6 năm 1972, ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Quảng Trị làm lễ ra mắt tại thị xã. Các cấp chính quyền từ huyện đến xã cũng được thành lập. ủy ban nhân dân cách mạng các cấp tỉnh Quảng Trị được thành lập là một thắng lợi có ý nghĩa to lớn trong đời sống chính trị của Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị.. Khắp vùng giải phóng từ Hướng Hóa, Cam Lộ đến Triệu Phong, Hải Lăng đâu đâu cũng phấp phới cờ sao, tưng bừng không khí chiến thắng. Giữa tháng 5 năm 1972, quân dân Mặt trận Trị - Thiên đã được lệnh mở tiếp những cuộc tiến công xuống huyện Phong Điền, Thừa Thiên - Huế, chọc thủng tuyến phòng thủ của địch ở nam sông Mỹ Chánh bắt liên lạc với lực lượng vũ trang Thừa Thiên nhằm thọc sâu vào tuyến sông Bồ. Phong Điền là huyện cửa ngõ phía bắc của Thừa Thiên tiếp giáp với tỉnh Quảng Trị. Nhân dân Phong Điền thuần phác, có lòng yêu nước nồng nàn, ý chí căm thù giặc sâu sắc. Thời Mỹ - Diệm, Ngô Đình Cẩn tàn ác, bắt các chiến sĩ cách mạng ở đây cho vào bao tải quăng xuống sông Bồ. Nhưng nhân dân Phong Điền vẫn hướng về cách mạng, che giấu cán bộ, bộ đội. Dẫu khó khăn đến nhường nào nhân dân cũng mua lương thực, giấu dưới các trảng cát, đêm đêm giao cho bộ đội đưa lên chiến khu. Nhiều nhà tự đào hầm bí mật trong vườn nuôi giấu cán bộ. Tháng 5 năm 1972, sau khi Quảng Trị giải phóng trên có lệnh đưa lực lượng đánh địch vào Thừa Thiên. ở phía tây sông Mỹ Chánh, Sư đoàn 304 và Trung đoàn 48 đã chiếm giữ khu vực núi Cái Mương. ở phía đông, Trung đoàn 27 và Tiểu đoàn 66 xe tăng tiếp tục tiến công địch ở Thanh Hương, Đại Lộc Thời gian này, anh Võ Nguyên Quảng, quê Hải Thủy, Hương Thủy, Thừa Thiên làm Huyện đội trưởng kiêm Chính trị viên huyện đội Phong Điền, được lệnh đưa một đại đội bộ đội địa phương và một trung đội đu kích ra bắt liên lạc và dẫn đường cho Trung đoàn 27. Anh Quảng cho tôi biết: "Tối 19 tháng 5, chúng tôi đến Diên Khánh, gặp dân Quảng Trị chạy vào Thừa Thiên, tưởng chúng tôi là lính ngụy, họ bảo: Lo mà quay lại Thừa Thiên đi, quân Việt cộng nhiều lắm ở ngoài đó". Thông tin này rất cần cho chứng tôi, chúng tôi biết đại quân ta đã tiến vào Thừa Thiên rồi. Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 27 do tôi làm tiểu đoàn trưởng gặp lực lượng do anh Quảng chỉ huy. Mới lần đầu gặp nhau nhưng sao mà thân thiết đến thế. Anh tự giới thiệu tên và giới thiệu mấy anh chị em du kích: Nguyễn Thị Nghệ, Nguyễn Thị Dung, Lê Thị Duyên, Hoàng Ngọc Hồng, Huỳnh Văn Phận, Lê Thị Nhân, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Lực, Nguyễn Thị Yến, Lê Viết Huy, Nguyễn Thị Bốn, Trương Văn Truyền... Chúng tôi thống nhất phương án: bộ binh và xe tăng sẽ đi dọc bờ biển về Thuận An rồi đánh thốc ra đường số 1. Đêm 20 rạng 21 tháng 5 năm 1972, chúng tôi bắt đầu xuất kích. Được lực lượng vũ trang huyện Phong Điền dẫn đường và phối hợp chiến đấu, chúng tôi lần lượt phá các ổ co cụm của lính ngụy dọc sông Ô Lâu để tiến sang khu vực Thanh Hương, Kế Môn. Chúng tôi đánh địch trong hành tiến, gặp địch là đánh, đánh xong lại tiếp tục hành quân. Các trận đánh diễn ra ở khu vực này gần như không có thời gian chuẩn bị. Sáng ngày 21 tháng 5, chúng tôi đến Thanh Hương, Kế Môn, Đại Lộc. Ba địa danh này nằm trên trục đường liên tỉnh nối Quảng Trị với Thừa Thiên ở hướng đông, chạy song song với đường quốc lộ 1 Trước đây địch đóng hàng chục đồn bốt dọc theo trục đường, nhưng sau khi Quảng Trị giải phóng, số lính nguy sống sót chạy về và số lính ngụy mới được điều từ Thừa Thiên ra để cố thủ vùng này, nên Thanh Hương, Kế Môn, Đại Lộc trở thành những căn cứ chứa đủ các sắc lính. Riêng Thanh Hương do tiểu đoàn 100 bảo an chiếm đóng, có thêm các loại xe pháo vừa đổ ra để lập tuyến phòng thủ mới. Cuộc chiến đấu đánh vào căn cứ Thanh Hương lúc đầu diễn ra giằng co quyết liệt. Sau đó, chúng tôi đưa xe tăng vào đột kích. Thấy pháo 100 ly của xe tăng ta bắn thẳng, quân địch hốt hoảng giẫm đạp lên nhau tháo chạy. Lực lượng vũ trang địa phương đón lõng chặn đánh buộc chúng phải hạ vũ khí đầu hàng. Tiểu đoàn 100 bảo an bị diệt gọn. Thừa thắng, chúng tôi phát triển tiến công về Đại Lộc. Để ngăn chặn đường tiến quân của ta, địch đổ một tiểu đoàn và một đại đội thủy quân lục chiến xuống Kế Môn, Đại Lộc. Vừa chân ướt chân ráo xuống Kế Môn, Đại Lộc bọn địch đã bị bộ binh, xe tăng cùng lực lượng vũ trang địa phương chặn đánh tiêu diệt gần hết. Số sống sót tháo chạy về phía nam. Các xã Phong Hòa, Phong Bình, Phong Chương, Phong Hiền được giải phóng. Có một chuyện để lại ấn tượng sâu sắc trong tôi, đó là khi Phong Hòa được giải phóng, anh Đoàn Thúy Bí thư Đảng ủy xã bao năm bám trụ vùng địch, thấy bộ đội chủ lực vào đã hăng hái nhảy lên một chiếc xe tăng dẫn đầu một phân đội thọc sâu đánh vào quận lỵ Phong Điền. Xe tăng và bộ binh ta chiến đấu dũng cảm, nổ súng diệt được một số địch, bắn cháy một xe tăng địch. Nhưng, vì đơn thương độc mã, xe tăng ta bị địch tập trung súng chống tăng bắn, chiếc xe bốc cháy. Anh Đoàn Thúy và các chiến sĩ xe tăng đều hy sinh. Riêng Tiểu đoàn 3 và xe tăng cùng lực lượng vũ trang do anh Võ Nguyên Quảng chỉ huy vừa giải phóng xã Phong Hòa, Thanh Hương, Đại Lộc, Lương Mai đã đánh vào cụm thủy quân lục chiến chiếm đóng ở Kế Môn, Đại Lộc... và chốt giữ ở đây. Chúng tôi tiến thẳng về quận lỵ Phong Điền. Thấy bộ binh và xe tăng ta dũng mãnh tiến vào, quân địch bỏ chạy. Quận Phong Điền được giải phóng. |
| |||||||||||||||||||||||||||||
Kết thúc đợt hoạt động, anh Võ Nguyên Quảng được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì.
Tiểu đoàn 3 của tôi có bốn cán bộ, chiến sĩ hy sinh khi đánh vào ấp Lương Mai ngày 22 tháng 5 năm 1972, đó là: Trung đội phó Bùi Văn Lợi, quê Kỳ Giang, Kỳ Anh, Hà Tĩnh; Trung đội phó Đặng Xuân Ninh, quê Tân Sơn, Thạch Lâm, Thạch Hà, Hà Tĩnh; Tiểu đội phó Trần Văn Kỳ, quê Trung Tiến, Thạch Môn, Thạch Hà, Hà Tĩnh; Tiểu đội phó Lê Văn Lập, quê Thanh Lâm, Cẩm Quang, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. Lực lượng vũ trang địa phương huyện Phong Điền có 10 anh chị em hy sinh, có người tôi chỉ nhớ tên, còn quê thì tôi không nhớ. Đó là: Chị Nguyễn Thị Xoa, anh Nguyễn Văn Luật, anh Trần Văn Trường, chị Quế, o Yến, o Con, o Gái, anh Trai, anh Luật, anh Sang (ở Quảng Ninh). Một dải đất chạy dọc sông Ô Lâu phía bắc tỉnh Thừa Thiên đã được giải phóng. Trung đoàn 27 đã thực hiện thắng lợi nhiệm vụ thọc sâu trong giai đoạn hai của chiến dịch Quảng Trị. Cuối tháng 5, tôi được bổ nhiệm chức vụ Trung đoàn phó Trung đoàn 27. Trước tình hình cả tỉnh Quảng Trị về tay cách mạng, ngày 4 tháng 5, Nguyễn Văn Thiệu - tổng thống ngụy quyền Sài Gòn và đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng quân ngụy vội vã bay ra căn cứ quân sự Mang Cá (Huê) họp bàn với các cố vấn quân sự Mỹ và các tướng tá chỉ huy quân đội ngụy để cứu xét tình hình Trị - Thiên. Nguyễn Văn Thiệu cho rằng: Sở dĩ Quảng Trị rơi vào tay cộng quân quá nhanh như vậy là do hạ cấp quá chủ quan không tiên lượng được lực lượng của đối phương. Cái quan trọng hơn là quân sĩ ngoài chiến trường thiếu tinh thần dũng cảm hy sinh... ông ta chỉ trích thẳng thừng Vũ Văn Giai, tư lệnh sư đoàn 3 vì đã tự động cho lui quân phòng tuyến phía bắc và đến khi được tăng quân thì không chịu "tử thủ" vì danh dự quốc gia; bỏ Đông Hà, ái Tử mà chạy. Trước thảm bại Quảng Trị thất thủ, Thừa Thiên bị uy hiếp nặng nề, Nguyễn Văn Thiệu cách chức Hoàng Xuân Lãm, đưa tướng Ngô Quang Trưởng lên làm tư lệnh quân khu 1, bỏ tù tướng Vũ Văn Giai sư đoàn trưởng sư đoàn 3 và giải thể luôn sư đoàn này. Ngày 13 tháng 6 năm 1972, sau khi được Mỹ hứa tăng viện trợ, Nguyễn Văn Thiệu quyết định mở cuộc hành quân "Tái chiếm Quảng Trị" lấy tên là "Lam Sơn 72". Để ăn chắc, Thiệu huy động 4 sư đoàn mạnh nhất trong quân đội ngụy, trong đó có sư đoàn dù và sư đoàn lính thủy đánh bộ thuộc lực lượng tổng dự bị quốc gia với lực lượng tương đương 13 trung đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo binh, 5 thiết đoàn được nhiều đơn vị không quân, pháo hạm Mỹ hỗ trợ cho cuộc hành quân tái chiếm này. Bộ chỉ huy quân đội ngụy chia cuộc hành quân làm ba giai đoạn: Giai đoạn 1, từ cuối tháng 5 đến trung tuần tháng 6: nhanh chóng điều động lực lượng từ các nơi ra nam sông Mỹ Chánh lập tuyến phòng thủ ngăn chặn cuộc tiến công của ta. Giai đoạn 2, từ cuối tháng 6 đến giữa tháng 7: thực thi tái chiếm huyện Hải Lăng, Triệu Phong và thị xã Quảng Trị. Quân ngụy xem đây là giai đoạn quan trọng nhất của cuộc hành quân. Muốn chiếm lại phần đất còn lại ở phía bắc nhất thiết phải chiếm bằng được bàn đạp phía nam sông Thạch Hãn, trong đó có Thành Cổ - thủ phủ tỉnh Quảng Trị để tạo sức nặng mặc cả với ta tại Hội nghị Pa-ri. Giai đoạn 3, từ cuối tháng 7 đến giữa tháng 8: chiếm lại toàn bộ ái Tử, Đông Hà, Cam Lộ, Gio Linh. Về phía ta, sau khi giải phóng toàn bộ tỉnh Quảng Trị, khí thế bộ đội rất cao. Bộ Tư lệnh chiến dịch đã điều động lực lượng, chuẩn bị vật chất, làm đường cơ giới xuống Cái Mương (tây Mỹ Chánh) để triển khai lực lượng, kết hợp với lực lượng Quân khu Trị - Thiên tiến công từ đường 12 xuống giải phóng Thừa Thiên - Huế. Nhưng do công tác bổ sung quân số, bảo đảm vật chất, tiếp tế hậu cần gặp nhiều khó khăn (chỉ thực hiện được 30% kế hoạch) nên sức chiến đấu của ta giảm sút. Trong khi địch tăng thêm lực lượng và tăng cường phòng thủ, chuẩn bị tiến hành phản kích trên quy mô lớn, ta vẫn tiếp tục thực hiện quyết tâm mở đợt tiến công mới vào tuyến nam sông Mỹ Chánh. Lực lượng ta bị tổn thất lớn hơn hai đợt tiến công trước. Sau khi nắm được ý đồ tập trung lực lượng phản công tái chiếm tỉnh Quảng Trị của địch, Bộ Tư lệnh chiến dịch một mặt tổ chức lực lượng, điều động các đơn vị chặn đánh địch bảo vệ vùng giải phóng, một mặt thông báo cho Tỉnh ủy và lệnh cho tỉnh đội Quảng Trị tổ chức các lực lượng vũ trang, các tổ chức quân, dân, chính, Đảng ở địa phương khẩn trương sơ tán dân, chuẩn bị chiến đấu, phối hợp với bô đội chủ lực đánh bại cuộc tiến công lớn của địch nhằm chiếm lại toàn bộ tỉnh Quảng Trị, trong đó có âm mưu chiếm cho được Thành Cổ và thị xã làm con bài chính trị phục vụ cho Hội nghị Pa-ri. Thực hiện chủ trương của. Bộ Tư lệnh chiến dịch và nhiệm vụ của Tỉnh ủy, Tỉnh đội Quảng Trị giao, trong một thời gian ngắn, các cấp ủy, cán bộ, bộ đội đã khẩn trương đưa được tám vạn dân của thị xã và của hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng (những địa bàn địch đánh phá ác liệt nhất) đến các nơi an toàn sau đó đưa phần lớn đồng bào ra Vĩnh Linh. Quán triệt quyết tâm của Quân ủy Trung ương: "Chỉ có một khả năng giữ vững Quảng Trị là đánh bại cuộc hành quân của địch", Bộ Tư lệnh chiến dịch chủ trương tăng cường và chi viện cho lực lượng giữ thị xã, đồng thời liên tục tổ chức những trận phản kích hai bên sườn, chủ yếu là từ hướng tây từng bước đánh bại ý đồ của địch nhằm chiếm thị xã nhanh chóng. Quyết tâm và chủ trương của trên được quân và dân Quảng Trị nghiêm túc thực hiện. Hướng chủ yếu là Thành Cổ và thị xã Quảng Trị. Thành Cổ nằm phía đông thị xã Quảng Trị, còn gọi là Thành Đinh Công Tráng. Thành xây bằng gạch từ năm 1827 có hình gần vuông mỗi cạnh 500 mét, phía ngoài có hào rộng 15 mét bao quanh. ở đây, dưới thời ngụy có nhà tỉnh trưởng, tòa thị chính, khu cố vấn Mỹ và một số cơ quan dân sự ngụy. Tại khu vực thị xã, ngoài lực lượng nòng cốt là Trung đoàn 48, tỉnh đã biên chế đầy đủ cho Tiểu đoàn 8, Tiểu đoàn 3 và Đại đội 32 của thị xã Quảng Trị cùng một số du kích tập trung, cán bộ các ngành để phối hợp chiến đấu với bộ đội chủ l.ực. Cuộc chiến đấu, chốt giữ thành Quảng Trị thực sự diễn ra gay go, quyết liệt từ ngày 3 tháng 7 trở đi Sư đoàn dù. sau khi tiến ra đường số 1 đã ra sức đánh phá các chốt nhỏ lẻ của ta, hòng tái chiếm thị xã Quảng Trị. Tiểu đoàn 7 lữ dù 3 vượt qua làng An Thái, định vượt ngã ba Long Hưng thì gặp bức tường lửa của Đại đội 1 Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48 buộc phải chùn lại. Địch cho máy bay giội bom và pháo binh bắn nát những vườn cây trái ở ngã ba Long Hưng. Sau đợt bắn phá dữ dội, tiểu đoàn 7 lại xông lên. Nhưng chúng lại vấp phải sự chống trả quyết liệt của quân ta. Cứ thế, suất 3 ngày tiểu đoàn 7 dù cạn quân phải lùi về phía sau, để liên đội biệt kích thế chân đánh tiếp. Sự vững chắc của các chốt thép kiên cường ở đây không thể tính bằng ngày bằng giờ mà tính bằng tuần bằng tháng. Thực tế chiến đấu của chốt thép Đại đội 11 Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48 đã chứng minh một đại đội chốt, tổ chức chỉ huy chặt chẽ, có công sự vững chắc sẽ đánh bại một tiểu đoàn địch. ở hướng thị xã, Thành Cổ, Trung đoàn 48, Tiểu đoàn 8 và Tiểu đoàn 3 tỉnh đội Quảng Trị đã chặn đứng hàng chục đợt tiến công của quân dù vào khu vực La Vang, Long Hưng, ngã ba làng Thạch Hãn. Địch phải điều lữ đoàn 369 từ Gia Đẳng đánh lên Trâm Lý, Quy Thiện, Tri Bưu... Nhưng tất cả các đơn vị chúng tung ra đều bị thiệt hại nặng, phải dừng lại củng cố. Trên hướng đông, các Trung đoàn 27, Trung đoàn 64 và Trung đoàn 18, Tiểu đoàn 47, sau khi đã đề ra quyết tâm và chủ trương chiến đấu là: "Kiên quyết giữ vững tuyến trận địa ở hướng đông Quảng Trị. Tổ chức chặn đánh địch ở phía trước, luồn sâu đánh mạnh vào sau lưng địch, bắt chúng lui về đối phó với ta. Sử dụng đơn vị cỡ tiểu đoàn, trung đoàn thiếu hiệp đồng cùng xe tăng và pháo binh tiến công vào những điểm quân địch co cụm, lấy tiêu diệt sinh lực địch làm chính". Thực hiện kế hoạch tác chiến của Mặt trận cánh đông, Trung đoàn 27 cùng một đại đội xe tăng được lệnh luồn sâu vào làng Ngô Xá, với nhiệm vụ giữ vững và mở rộng địa bàn Thanh Lê. Ban chỉ huy trung đoàn phân công anh Cao Uy - Trung đoàn phó Tham mưu trưởng đi sát, theo dõi và cùng ban chỉ huy Tiểu đoàn 1 triển khai kế hoạch chiến đấu. Làng Ngô Xá và Thanh Lê nằm bên đường số 4, nếu địch vượt qua được Ngô Xá và Thanh Lê, chúng sẽ đánh vào thị xã phía đông bắc qua Quy Thiện, Tri Bưu và đánh dọc theo trục đường số 4 ra quận ly Triệu Phong. Ban chỉ huy Trung đoàn 27 điều Tiểu đoàn 1 vào khu vực Ngô Xá, Thanh Lê mở ra một địa bàn và một cụm chốt ở phía đông bắc thị xã Quảng Trị. Tiểu đoàn 1 triển khai đội hình chiến đấu xong thì trời vừa sáng. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Viết Giáp đến trận địa Đại đội 1 nằm ngoài làng Ngô Xá. Đây là hướng chủ yếu khống chế toàn bộ đoạn đường số 4 chạy qua làng. Tiểu đoàn trưởng Giáp hài lòng về kế hoạch hiệp đồng giữa Đại đội 1 và phân đội xe tăng mà anh vừa nghe đại đội trưởng báo cáo. Đến với tổ chiến đấu nào tiểu đoàn trưởng cũng thấy anh em đang khẩn trương chuẩn bị chiến đấu Họ hành động với một tinh thần chu đáo và tự giác. Hơn hai trăm con người cùng xe tăng luồn vào đây mà vẫn giữ được bí mật an toàn. Tôi được anh em Tiểu đoàn 1 kể lại, sáng ngày 17 tháng 7, sau khi dùng bom pháo dọn đường, địch cho xe tăng, thiết giáp cùng bộ binh tiến vào làng Ngô Xá, Thanh Lê. Chúng tiến quân chậm chạp, xe và lính tưởng như quấn lấy nhau. Ngay lúc đó, các chiến sĩ trận địa chốt Đại đội 1 phát hiện gần hai trăm người dân. Một số người đi trước đội hình xe và lính, một số ngồi cả lên xe bọc thép. Lại thêm một thủ đoạn thâm độc của kẻ thù, bắt những người dân vô tội đi trước làm bia đỡ đạn. Vào gần làng Ngô Xá, địch dồn dân đi trước, lính ngụy bám phía sau. Trung đội trưởng Trung đội 1 Đại đội 1 Hoàng Trọng Bảo len lỏi giữa chiến hào, đến từng tổ chiến đấu nhắc nhở anh em: - Trong bất cứ tình huống nào cũng phải bảo vệ dân. Tất cả giương lê sẵn sàng đánh gần! Trận địa vẫn im lặng.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét