CHƯƠNG II
DANH NGHĨA PHÁP LÝ
CỦA TRUNG QUỐC VỀ TÂY SA VÀ NAM SA
Mặc dầu khi đi ngược dòng lịch sử 2000 năm các tác giả Trung Quốc không nói đến vấn đề phát hiện và chiếm hữu hai quần đảo Tây Sa, Nam Sa, họ cố chứng minh rằng Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện quyền quản hạt từ xưa tại các đảo đó.
Năm 1932, Trung Quốc đặt mốc thời gian về chủ quyền đối với quần đảo Tây Sa là năm 1909 khi đô đốc Lý Chuẩn đổ bộ chớp nhoáng lên vài đảo của quần đảo này; năm 1956 - 1959, khi quân đội Trung Quốc chiếm phần phía Đông của quần đảo Tây Sa, họ lại đẩy lùi thời gian chủ quyền về thế kỷ XV; năm 1975 họ đặt mốc chủ quyền vào thế kỷ X; năm 1988 họ lại đẩy ngược lên thế kỷ IV. Điều làm người ta ngạc nhiên là đối với một lịch sử thực hiện quản hạt dài 2000 năm Bộ Ngoại giao Trung Quốc chỉ đưa ra được 3 sự kiện để chứng minh chủ quyền đối với các đảo Nam Hải. Và 3 sự kiện ấy cũng chỉ liên quan tới các đảo Tây Sa, hoàn toàn không có sự kiện nào liên quan tới các đảo Nam Sa. Để bổ sung chỗ yếu đó, ông Hàn và ông Phan nêu thêm một số sự kiện sản xuất khác, kể cả những “văn vật” được lưu lại trên đảo Bắc Tử (tức North East Cay) như mộ của hai ngư dân đời Thanh.
Những bằng chứng mà Bộ Ngoại giao Trung Quốc và các tác giả Trung Quốc đưa ra tóm tắt như sau:
1 - Quần đảo Nam Sa đã được sáp nhập vào đảo Hải Nam từ năm 789
Khi chú giải phần giới thiệu đảo Hải Nam trong cuốn Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát, ông Hàn Chấn Hoa viết: “Thiên lý Trường Sa, Vạn lý Thạch Đường ngay từ đời Tống đã thuộc phạm vi quản hạt của Quỳnh Quân (Hải Nam), Quảng Nam Tây Lộ, các đảo Nam Hải từ năm Trinh Nguyên thứ 5 đời Đường (789) trở đi thuộc phạm vi quản hạt của Trung Quốc”. Ông Phan Thạch Anh thì viết: “Sử liệu tỏ rõ thời gian sớm nhất Trung Quốc thực hiện việc quản hạt quần đảo Nam Sa có thể ngược dòng tới năm Trinh Nguyên thứ 5 triều Đường. Triều đình bấy giờ đặt quần đảo Nam Sa dưới sự quản hạt của phủ Quỳnh Châu”. Thật ra Chư phiên chí chỉ nói sau khi quân Đường đánh chiếm và bình định xong đảo Hải Nam, họ đã sắp xếp lại các huyện thuộc đảo Hải Nam, tách Quỳnh Sơn ra khỏi Châu Nhai và lập thành quận. Sử liệu chỉ có thế thôi, không có chuyện nhập các đảo Nam Hải vào Hải Nam.
2 - Đời Tống đã cử thủy quân đi tuần tiễu quần đảo Tây Sa.
Văn kiện năm 1980 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc và ông Hàn Chấn Hoa đều nêu sự kiện này.
Để chứng minh việc này, văn kiện Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã đưa ra một đoạn trích từ cuốn Vũ kinh tổng yếu, một cuốn sách về chính sách quân sự của nhà Tống và do vua Tống Nhân Tổng (1023 - 1063) đề tựa:
“Triều đình Bắc Tống lệnh cho quân nhà vua ra trấn giữ, đặt dinh lũy thủy sư tuần biển” ở Quang Nam (tức Quảng Đông ngày nay), “đóng tàu chiến đao ngư”, “từ Đồn Môn Sơn dùng gió Đông đi về hướng Tây Nam 7 ngày thì đến Cửu Nhũ Loa Châu”. Sau đoạn trích này, họ khẳng định: “Cửu Nhũ Loa Châu tức quần đảo Tây Sa ngày nay. Điều đó chứng tỏ triều đình Bắc Tống đã đặt quần đảo Tây Sa vào phạm vi cai quản của mình” và “Hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra vùng quần đảo Tây Sa”. Toàn văn đoạn này trong Vũ kinh tổng yếu như sau:
“Quận Nam Hải thuộc Quảng Châu, là đất Bách Việt xưa, đều do người Man, người Đản cư trú. Từ đời Hán về sau được sáp nhập vào quận huyện. Đời Đường đặt làm Thanh hải quân tiết độ. Bản triều dẹp Lưu Sương rồi đặt làm phương trấn thành một nơi đô hội, nắm binh giáp, dẹp giặc mười sáu châu, khống chế các nước ngoài, có lợi về việc thuyền buôn đến tụ hội, người Man người Hán ở lẫn lộn.
“Sai quân nhà vua ra trấn giữ. Đặt dinh lũy thủy sư tuần biển ở hai cửa biển Đông và Tây, rộng 280 trượng cách Đồn Môn Sơn 200 dặm. Đóng tầu chiến đao ngư. Nơi đó, phía Đông nam đến biển cả 40 dặm, phía Đông đến Huệ Châu 420 dặm, phía Tây đến Đoàn Châu 240 dặm, phía Nam đến An Châu 750 dặm, Bắc đến Thiều Châu 250 dặm. Đường biển về phía Đông Nam 400 dặm, đến Đồn Môn Sơn 20 dặm, nước nông ngày có thể đi 50 dặm, rộng 200 dặm.
“Từ Đồn Môn Sơn dùng gió Đông đi về hướng Tây Nam bảy ngày thì đến Cửu Nhũ Loa Châu, đi ba ngày đến Bất Lao Sơn (địa giới Hoàn Châu), lại đi về hướng Nam 300 dặm đến phía Đông Lăng Sơn (có nước ngọt). Về hướng Tây Nam đến các nước Đại thực, Phật Sư Tử, Thiên Trúc, không thể tính được hành trình”.
Chỉ cần so sánh đoạn trích dẫn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc và toàn văn đoạn này của Vũ Kinh Tổng yếu cũng dễ dàng nhận thấy:
- Việc đặt dinh lũy thủy sư tuần biển ở hai cửa biển Đông và Tây, do cắt xén và sắp xếp lại, đã được gắn với hành trình đi Cửu Nhũ Loa Châu để kết luận rằng “hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra đến vùng quần đảo Tây Sa” (người ta giải thích Cửu Nhũ Loa Châu như thế). Sự thật nguyên văn hoàn toàn không nói gì đến việc đi Cửu Nhũ Loa Châu.
- Hành trình nêu trong nguyên văn là từ Đồn Môn Sơn theo ven biển đến Việt Nam, Chiêm Thành và các nước Ấn Độ Dương, Nhưng người ta đã cắt đoạn đuôi đi để coi như là hành trình chỉ đến Cửu Nhũ Loa Châu.
Như vậy không có chuyện nhà Bắc Tống đặt Cửu Nhũ Loa Châu (mà Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho là quần đảo Tây Sa) dưới quyền quản hạt của mình và việc “tuần tra quần đảo Tây Sa” của hải quân Trung Quốc. 3 - Thời nhà Nguyên, Trung Quốc đã đo đạc thiên văn “quá Chu Nhai”, tức phía Nam đảo Hải Nam.
Đúng là Nguyên Sử có viết về vấn đề “đo đạc thiên văn” của đế quốc Nguyên:
“Việc đo đạc thiên văn bốn biển gồm 27 nơi, phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam quá Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc, là một việc mà cổ nhân chưa từng làm được”.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho rằng đây là một hành động thực hiện chủ quyền. Ông Hàn cho rằng “cương vực đời Nguyên bao gồm các đảo Nam Hải không những phái quan chức đến quần đảo Tây Sa đo đạc mà còn đặt cơ sở thiên văn, thực hiện chủ quyền ở đây”.
Theo bản đồ Nguyên quốc trong cuốn Lịch đại cương vực biểu của Duan Changyi đời Thanh, cương giới Trung Quốc thời Nguyên phía Đông đến bán đảo Liêu Đông, phía Tây đến đầu nguồn sông Hoàng Hà, phía Bắc đến sa mạc Go-bi, phía Nam đến đảo Hải Nam. Cao Ly, Thiết Lặc, Nam Hải đều nằm ngoài biên giới của Trung Quốc thời bấy giờ. Điều đó hoàn toàn phù hợp với lời tâu của Quách Tử Kính là bờ cõi nay đã rộng lớn hơn đời Đường cần phải quan trắc thiên văn bốn biển để làm lịch mới. Bốn biển là vượt ra ngoài bờ cõi, không phải là Thiên hạ, là trong bờ cõi.
Sự việc rành rành như vậy nhưng các tác giả Trung Quốc cho rằng nơi nhà Nguyên đã quan trắc thiên văn là thuộc cương vực nhà Nguyên. Đo đạc theo một chương trình khoa học đâu phải là xác lập chủ quyền lãnh thổ! Từ 1873 đến 1876, tầu hải dương của Anh Challenger đã đi 69.000 hải lý trên tất cả các biển trên thế giới. Theo quan điểm của Trung Quốc, có lẽ tất cả các biển đó đều là của Anh. Ông Hàn còn khẳng định sau đó Trung Quốc đã “đặt cơ sở thiên văn” 1. Không biết các ông quan được phái đến cơ sở này đã làm những gì? Hàng ngày vác gậy đo bóng mặt trời hay theo dõi tình hình địa chấn với cái máy động đất của Trương Hành? Khi sự thật được miêu tả quá cả bản thân sự thật thì đó là sự dối trá!
4 - Sử Bật đời Nguyên đã đi qua Thất Châu Dương, Vạn lý Thạch Đường.
Nguyên Sử chép Sử Bật được phái đi đánh Gia-va năm 1293:
“Tháng 12 Bật mang 5.000 người, hội chư quân, xuất phát từ Tuyền Châu, gió to sóng lớn, thuyền chòng chành, quân sĩ mấy ngày không ăn được. Qua Thất Châu Dương, Vạn lý Thạch Đường đến địa giới Giao Chỉ, Chiêm Thành.
Tháng Giêng năm sau (1294) đến các cù lao Đông Đổng, Tây Đổng, Sơn Ngưu rồi qua đại dương mênh mông, đến đóng quân ở đảo Kan-lan, Ka-ri-ma-ta, Kou-lan, đẵn gỗ, đóng xuồng để đi vào”. Lúc trở về Bật đi mất 68 ngày thì về đến Tuyền Châu, quân sĩ chết hơn 3.000 người.
Năm 1975 ông Sử Lệ Tổ đã nêu tên Sử Bật và coi đây là một bằng chứng chứng minh từ thời Tống, Nguyên, vùng biển phụ cận các đảo Nam Hải đã được đặt vào phạm vi cương giới biển của Trung Quốc. Như vậy cuộc viễn chinh của Sử Bật đã được biến thành một cuộc tuần tra trên biển. Ông Phan Trạch Anh cũng nói “từ đời Nguyên trở đi thủy quân Trung Quốc đã đặt quần đảo Nam Sa vào phạm vi tuần phòng của mình”, nhưng chỉ nói chung chung, không căn cứ, rằng Sư Bật đã dẫn Thủy quân đến Vạn lý Thạch Đường.
Còn nếu muốn chứng minh con đường của Sử Bật thì đó là làm việc thừa vì Chính Nguyên Sử đã chỉ rõ con đường đó đi qua Thất Châu Dương, Vạn lý Thạch Đường rồi đến Giao Chỉ, Chiêm Thành theo con đường ven biển. Ông Hàn Chấn Hoa chỉ muốn mượn chuyện Sử Bật để khẳng định lại rằng Thất Châu Dương là Tây Sa, Vạn lý Thạch Đường là Nam Sa. _______________________________________
1. Ngã quốc Nam hải chư đảo sử liệu hội biên của Hàn Chấn Hoa, Sđd.
5 - Tướng Ngô Thăng đời Thanh đã đi tuần vùng biển Tây Sa.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc, - và ông Hàn Chấn Hoa nhắc lại, - nêu sự kiện tướng Ngô Thăng “đi tuần biển” vùng Tây Sa.
Cuốn Tuyên Châu phỉ chí viết:
“Từ Quỳnh Nhai, qua Đông Cổ, Thất Châu Dương, Tứ Canh Sa, vòng quanh ba ngàn dặm, đích thân đi tuần”.
Trong thời gian làm Phó tướng Quảng Đông 1710 - 1712, tướng Ngô Thăng đã đặt quan tổng binh về biển, tìm cách bắt cướp, chống giặc ở vùng Kim Môn, Hạ Môn, Bành Hồ, Đài Loan. Đoạn trích trên đây là con đường tuần tra do đích thân ông tiến hành. Các nơi ông đi qua đều là những điểm nằm ở vùng duyên hải đảo Hải Nam và cuộc tuần tra đó là chung quanh đảo Hải Nam.
Cuốn “Quảng Đông dư địa đồ thuyết” của Lý Hàn Chung in năm 1909 nói càng rõ hơn nhiệm vụ và giới hạn của những cuộc tuần tra đó: “Biên giới trên biển ngày nay lấy phía Nam đảo Hải Nam làm giới hạn, bên ngoài là Thất Châu Dương, Đô đốc thủy quân Quảng Đông đi tuần đến đó là quay trở về”.
6 - Năm 1909, đô đốc Lý Chuẩn đã đổ bộ lên vài đảo của quần đảo Tây Sa để khẳng định chủ quyền của Trung Quốc.
Theo lệnh của Tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Nhân Tuấn, đô đốc Lý Chuẩn dẫn ba chiếc pháo thuyền Phục Ba, Thám Hăng, Quảng Kim đi “thị sát” vùng biển quần đảo Tây Sa. Ngày 6 tháng 6-1909, đoàn tầu đến quần đảo, đổ bộ lên đảo Phú Lâm (Trung Quốc gọi là Vĩnh Hưng), treo cờ, bắn súng, thăm một vài đảo khác rồi về thẳng Quảng Châu.
Khi đó Triều đình nhà Thanh sắp suy sụp, bên ngoài bị các cường quốc chèn ép đòi thêm quyền lợi, bên trong bị phong trào cách mạng tăng cường hoạt động nhằm giành lấy chính quyền. Năm 1907, Nhật Bản chiếm mất quần đảo Đông Sa. Cuộc biểu dương chớp nhoáng lực lượng ở vài đảo Tây Sa nhằm xoa dịu tinh thần quần chúng đang sôi sục đòi một chính sách kiên quyết đối với các cường quốc. Vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam cho đến trước khi đô đốc Lý Chuẩn đến Tây Sa, trong suốt mấy trăm năm Chính phủ Trung Quốc mặc nhiên thừa nhận Tây Sa (tức Hoàng Sa) là của Việt Nam, thậm chí có lần cứu giúp đội viên đội Hoàng Sa đi khai thác Hoàng Sa bị nạn năm 1753 và quan huyện Văn Xương thuộc Quỳnh Châu (Hải Nam) đã làm công văn trao trả Chúa Nguyễn ở Phú Xuân.
Việc đột nhiên thay đổi thái độ về Tây Sa và cuộc hành quân của đô đốc Lý Chuẩn chứa đựng một âm mưu lâu dài: chiếm lấy Tây Sa và cả Nam Sa khi Trung Quốc có thời cơ. Thời cơ đó là năm 1956 khi Pháp rút khỏi Đông Dương, và quân Việt Nam ở Sài Gòn chưa kịp ra thay thế quân Pháp ở phần Đông của quần đảo Hoàng Sa. Thời cơ đó là năm 1974 sau khi Mỹ ký với Trung Quốc thông cáo chung Thượng Hải, để Trung Quốc rảnh tay chiếm nốt phần còn lại của quần đảo Hoàng Sa. Thời cơ đó là năm 1988 khi Việt Nam đang phải đối phó với cuộc chiến tranh bằng pháo binh ở biên giới phía Bắc và cuộc bao vây của các lực lượng thù địch quốc tế, mở đầu sự phát triển xuống Biển Đông.
Như vậy, thực chất cuộc hành quân năm 1909 là một sự xâm phạm chủ quyền Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực khi quần đảo Hoàng Sa từ lâu đã thuộc chủ quyền của Việt Nam. 7 - Chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa, Nam Sa đã được sự công nhận rộng rãi trên quốc tế.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho rằng chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa đã được sự công nhận của:
- Nhiều Chính phủ (kể cả Việt Nam),
- Các tổ chức chuyên môn quốc tế,
- Nhiều bách khoa toàn thư và bản đồ nhiều nước1.
Không cấn thiết đi sâu vào vấn đề công nhận của các tổ chức chuyên môn quốc tế, của các bách khoa toàn thư và các bản đồ vì đây không phải là vấn đề chính. Các điều lệ của các tổ chức chuyên môn quốc tế như Hàng Không, Khí Tượng, Bưu Điện... đều quy định rõ ràng rằng các quyết định của họ tuyệt đối không bao hàm ý nghĩa công nhận chủ quyền của một nước đối với một lãnh thổ nào. Có một vài bách khoa toàn thư, một vài bản đồ ghi Tây Sa, Nam Sa là của Trung Quốc nhưng cũng có những sách, bản đồ khác ghi là của Việt Nam hay không ghi về nước nào cả. Riêng về bản đồ, các luật gia coi trọng trước hết những bản đồ đính theo hiệp ước, còn các bản đồ khác chỉ có giá trị tham khảo.
Phần này chủ yếu nhằm đi sâu vào vấn đề sự công nhận của các Chính phủ có liên quan.
Cho đến năm 1939, các đảo Hoàng Sa, Trường Sa vẫn do Pháp, thay mặt nước Việt Nam, thực hiện chủ quyền. Chính phủ Trung Quốc đôi lần nêu chủ quyền của họ nhưng khi Pháp đề nghị đưa vấn đề ra Tòa án trọng tài họ lại khước từ. Từ 1939, quân đội Nhật Bản đã chiếm cả hai quần đảo cho đến khi họ buộc phải rút đi.
Trong thời gian chiến tranh thế giới thứ hai, các nhà lãnh đạo Mỹ, Liên Xô, Anh (Franklin D. Roosevelt, Stalin, Winston Churchill) đã ba lần gặp nhau tại Téhéran, Yalta, Potsdam đề bàn về những vấn đề chỉ đạo chiến tranh, vấn đề hợp tác trong và sau chiến tranh. Tổng thống F.D. Roosevelt, Thủ tướng W.Churchill và Thống chế Tưởng Giới Thạch cũng đã bí mật họp tại Cairo để bàn về kết thúc chiến tranh với Nhật Bản và việc giải quyết những vấn đề lãnh thổ Châu Á bị Nhật Bản chiếm đóng. Đây là những cuộc họp cấp cao cực kỳ quan trọng để chiến thắng chủ nghĩa phát xít, và chuẩn bị tiến tới một thế giới tốt đẹp hơn.
Đối với các nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á, đặc biệt quan trọng là vấn đề những lãnh thổ bị Nhật Bản chiếm đóng. Tại Cairo, Mỹ, Anh, Trung Quốc đã ra một bản Tuyên bố trong đó có đoạn nói rõ ràng:
“Mục đích của ba nước này là Nhật Bản phải bị loại khỏi tất cả các quần đảo ở Thái Bình Dương mà Nhật Bản đã cướp đoạt, chiếm đóng từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1914 và tất cả các lãnh thổ mà Nhật Bản đã chiếm đoạt của Trung Hoa như là Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ sẽ được trả lại Trung Hoa dân quốc” (Tuyên cáo Cairo ngày 26-11-1943).
Các nhà quan sát nhận thấy ngay rằng Bản Tuyên bố hoàn toàn không đề cập đến số phận của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc nhận là lãnh thổ của họ. Thống chế Tưởng Giới Thạch đích thân tham dự cuộc họp thượng đỉnh này và cùng Tổng thống Mỹ, Thủ tướng Anh bàn bạc trong bốn ngày, không thể không nêu vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa khi nêu vấn đề các lãnh thổ khác bị mất về tay Nhật Bản. Nhưng trong bản Tuyên bố Cairo mà ba vị lãnh đạo đã nhất trí thông qua, không có bảo lưu hay tuyên bố riêng nào của Trung Quốc về hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Điều đó chứng tỏ không có vấn đề trao hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc.
Trong Tuyên cáo Postdam ngày 26-7-1945, các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ, Anh và Trung Quốc đã khẳng định rằng “các điều khoản của Tuyển bố Cairo sẽ được thi hành” và Liên Xô sau khi tuyên chiến với Nhật, đã tham gia bản Tuyên cáo Potsdam.
Trong bản Tuyên bố ngày 4-12-1950, Ngoại trưởng Chu Ân Lai cho rằng căn bản chính cho một hòa ước với Nhật Bản là Tuyên bố Cairo, Thỏa ước Yalta, Bản Tuyên cáo Potsdam và cách chính sách căn bản đối với Nhật Bản sau khi nước này đã đầu hàng2.
______________________________________
1. Văn kiện ngày 30-1-1980 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Sđd.
2. Tuyên bố ngày 4-12-1950 của Ngoại trưởng Chu Ân Lai, People’ Chian số 12 ngày 16-12-1950.
Ngày 12-7-1951 Anh - Mỹ đưa đề nghị dự thảo Hòa ước với Nhật Bản. Cả Bắc Kinh và Đài Bắc đều không được mời dự hội nghị San Francisco. Ngày 15-8-1951, Ngoại trưởng Chu Ân Lai sau khi bình luận về từng vấn đề một của dự thảo Hiệp ước đã tuyên bố: “quần đảo Tây Sa, Nam Sa, Đông Sa, Trung Sa và đảo Nam Uy lúc nào cũng là lãnh thổ Trung Quốc” 1.
Tại San Francisco 51 đại biểu các nước đều đòi giải quyết vấn đề Hoàng Sà và Trường Sa theo đúng Tuyên bố Cairo và thỏa ước Potsdam. Đại biểu Liên Xô A.Gromyko đưa ra đề nghị trao cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhưng đề nghị này bị bác đi bởi 48 phiếu và 1 phiếu trắng. Đại biểu Việt Nam, Thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên bố: “Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu là lãnh thổ Việt Nam”, không một đại biểu nào phản đối hay bảo lưu. Cuối cùng Hòa ước với Nhật Bản được ký ngày 8 tháng 9 năm 1951 trong đó điều 2, điểm 7 nêu rõ:
“Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa hay đòi hỏi đối với Paracels và Spraly” (tức Hoàng Sa và Trường Sa).
Ngày 28-4-1952, Nhật Bản và Đài Loan ký hòa ước trong đó điều 2 nêu rõ:
“Điều 2: - Hai bên nhìn nhận là theo điều 2 hòa ước với Nhật Bản ký ngày 8-9-1951 tại San Francisco ở Hoa Kỳ, Nhật Bản đã từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa hay đòi hỏi liên quan tới Đài Loan (Formose) và Bành Hồ (Pescadores) cũng như quần đảo Spraly và Paracels”.
Như vậy trong chiến tranh thế giới thứ hai cũng như sau đó, các cuộc họp quốc tế quan trọng nhất có nhiệm vụ giải quyết vấn đề lãnh thổ Châu Á bị Nhật Bản đoạt được hoặc chiếm đóng, trong đó có sự tham gia của người lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc đều không trao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Đương nhiên nó phải trở lại Pháp và Việt Nam, những người chủ đã quản lý nó cho đến khi Nhật chiếm đóng.
Rõ ràng không có cái gọi là “sự công nhận quốc tế rộng rãi”. Chính vì Tuyên bố Cairo quá rõ ràng mà trong văn kiện ngày 30-1-1980 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc người ta hoàn toàn không nói gì đến tuyên bố đó, và cũng không có gì để nói về nội dung Hòa ước San Francisco ngoài câu chuyện vô vị ông cựu ngoại trưởng Nhật Bản Otarakicaxuô không xác nhận trong văn bản chính thức quốc tế mà xác nhận trong một tập bản đồ thế giới rằng 4 quần đảo là của Trung Quốc.
*
* *
Các nhà chức trách Trung Quốc đã đưa ra nhiều sách cổ trải dài trên 2000 năm, trong đó có vài cuốn là chính thức, còn là sách địa chí, hàng hải. Cái kết quả đầu tiên họ đạt được là gây một ấn tượng sâu sắc về sự phong phú, đa dạng, nhưng cái kết quả mà họ mong muốn là thuyết phục người đọc lại chưa đạt. Có thể rút mấy nhận xét sau đây:
1 - Trong một vụ tranh chấp về đất vô chủ nhiều và rải rộng như hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, việc xác định địa danh và vị trí mỗi đảo bãi là cần thiết, những số tư liệu của Trung Quốc và các kết luận của các tác giả Trung Quốc không cho phép rút một kết luận nào có sức thuyết phục.
2 - Tư liệu nói nhiều đến những hiểu biết về biển, về đi biển của nhân dân Trung Quốc, nhưng không cung cấp được những tài liệu chắc chắn, cụ thể về việc Trung Quốc đã phát hiện được hai quần đảo hay một số đảo của hai quần đảo, đặc biệt là không cho biết họ đã chiếm hữu đảo nào, thế nào, lúc nào.
3 - Những bằng chứng về việc cai quản các đảo đã đưa ra chủ yếu là liên quan đến Tây Sa, và mấy sự kiện gọi là “tuần tra biển”, “thực hiện chủ quyền” là do sự cắt xén, sắp xếp tài liệu do đó không có giá trị. Về Nam Sa chỉ có vài chi tiết lặt vặt.
4 - Ba Hội nghị lớn trong và sau chiến tranh thế giới thứ hai (Hội nghị Cairo, Hội nghị Potsdam, Hội nghị San Francisco) đã bác bỏ một cách có hệ thống việc trao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.
5 - Cuộc “thị sát” của đô đốc Lý Chuẩn năm 1909, việc chiếm Hoàng Sa năm 1956 và 1974 và các đảo bãi trong quần đảo Trường Sa năm 1988, 1992, 1993 chỉ là những hành động dùng vũ lực trong quan hệ với các nước khác, trái với luật pháp quốc tế và các nguyên tắc của Liên Hợp quốc Theo luật quốc tế hiện hành, việc chiếm đóng bằng vũ lực như thế là bất hợp pháp và không mang lại thẩm quyển lãnh thổ.
______________________________________
1. Tuyên bố ngày 15-8-1951 của Ngoại trưởng Chu Ân Lai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét