THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THI VÂN YÊN TỬ

SỚM CHIỀU DU NGOẠN CÙNG MÂY NÚI
HOA TRÁI QUA NGÀY TA VỚI TA

Thứ Tư, 23 tháng 5, 2012

Nhiếp ảnh ở Việt Nam từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 (Phần 3)

Người thành cổ Quảng trị\

Nguyễn Đức Hiệp


Quand je prends des photos, ce n’est pas moi
qui photographie, 
c’est quelque chose en moi qui appuie
sur le déclencheur sans que je décide vraiment...”
Pierre Verger (1902-1996)


Alexandre Francis Decoly


Ông Decoly có xuất bản các hình ảnh ở Saigon từ năm 1905 đến 1924. Ông biên tập các ảnh cartes postales, và trú ngụ ở số 10 đại lộ Charner cùng chỗ với nhà nhiếp ảnh Planté. Decoly và Planté là hai người cùng thời nhưng ông Decoly không phải là nhà nhiếp ảnh mà chỉ là một nhà thương mại. Một vài ảnh cartes postales có ký hiệu tháp ngôi chùa (pagode) ở góc ảnh là của công ty ông Decoly, sau đó ngôi chùa trở thành thương hiệu "Edition La Pagode Saigon". Theo niên giám Đông Dương 1910 (25) thì Decoly cư trú tại số 36 đường Legrand de la Liraye, “Decoly, employé de commerce” (nay là đường Điện Biên Phủ)
Ông biên tập và in ảnh đen trắng và màu. Ông có in ảnh về nước Lào, đặc biệt là các ảnh của ông Raquez, cũng như ảnh về Cam Bốt và tất cả các nơi khác ở Đông Dương. Trong những năm đầu, có thể là các ảnh cartes postales có ký hiệu A.F.D. là những ảnh của Decoly. Ở những ảnh xuất bản tương đối mới hơn, đằng sau có ghi: B.Frey et Cie., Saigon et Phnom-Penh (1920-1924).
Ảnh của Decoly vẫn còn được bán cho đến các năm đầu của thập niên 1930, nhưng địa chỉ số 10 đại lộ Charner sau năm 1922 không còn là phòng ảnh nữa mà là trụ sở của công ty "Compagnie commerciale et industrielle de l'Indochine", nên ta có thể cho rằng những ảnh cartes postales này là những ảnh cuối cùng của Decoly (1).

hinh-37
Hình 37: Alexandre Decoly - Bồn nước Saigon, nay là Hồ con rùa

hinh-38
Hình 38: Palais du Gouvernement de la Cochinchine - Dinh thống đốc Nam Kỳ (trước đó là Palais de Lieutenant-Gouverneur - Dinh phó sứ). Ngày nay là Viện Mỹ Thuật thành phố. Cổng gác ở cửa ra vào và hai tượng hai bên cửa vào dinh không còn. (“Edition La pagoda Saigon” của Alexandre Francis Decoly)

hinh-39
Hình 39: Những người "mọi" ở cao nguyên Lang Bian - Di Linh (“Edition La pagode Saigon” của Alexandre Francis Decoly). Những người trong hình có lẽ là người Mnong, thuộc hệ ngôn ngữ Mon-Khmer. Họ hiện diện nhiều ở Lâm Đồng, Dak Lak

hinh-40
Hình 40: Chùa người Hoa ở Chợ Lớn. Có thể đây là chùa Bà Thiên Hậu
và Hội quán Tuệ Thành của bang Quảng Đông
(“Edition La pagode Saigon” của Alexandre Francis Decoly)

Poujade de Ladevèze


Ông Poujade de Ladevèze được biết đến qua các hình ảnh Saigon từ 1908-1922 với bộ sưu tập "Collection Poujade de Ladevèze". Poujade de Ladevèze có tên trong niên giám các địa chỉ thương mại ở Saigon năm 1922, kế tục thương gia C. David, sản xuất ảnh cartes postales rất sớm và đặc biệt bằng màu.
Ông Poujade de Ladevèze chắc chắn cũng không phải là nhà nhiếp ảnh; ông thâu thập nhiều ảnh mà ông in ra nhưng không bao giờ ghi tên tác giả thực sự của các ảnh này (1). Niên giám Đông Dương năm 1909 (25) ghi như sau: Poujade de Ladevèze, 7 rue Vannier, commerçant (số 7 đường Vannier tức Ngô Đức Kế ngày nay và làm nghề buôn bán) và niên giám năm 1910 ghi địa chỉ là 173bis rue Catinat, marchand (cũng là nghề buôn).

hinh-41
Hình 41: Câu lạc bộ sĩ quan – nay là trụ sở của Ủy ban nhân dân quận 1 (Collection Poujade de Ladevèze)

hinh-42
Hình 42: Hình trạm hai rồng (song long) với ngọc ở trong sân trước cửa đền
chùa Bà Thiên Hậu trong Chợ Lớn (Collection Poujade de Ladevèze)


Ludovic Crespin (1873-?)


Ludovic Crespin là nhà nhiếp ảnh có cơ sở, gọi là “Photo studio”, tại số 136-138 rue Catinat (đường Đồng Khởi ngày nay) vào năm 1910. Trước đó, số 136 rue Catinat là của bà Verray, một nhà nhiếp ảnh nghệ thuật, mà trong niên giám Đông Dương 1908 và 1909 có ghi như sau: “136 rue Catinat, Mme Verray, photographe artistique”. Như vậy có lẽ bà Verray đã sang lại cơ sở nhiếp ảnh này cho ông Crespin.
Sau thế chiến thứ nhất, ông sở hữu thêm một phòng phim ở số 10 Boulevard Charner. Điều này có nghĩa là có thể ông đã mua lại cơ sở của nhà nhiếp ảnh Pestel (trước đó) và Planté (sau này). Vì vậy có thể ông sở hữu các di sản của nhiều nhà nhiếp ảnh, kể cả các ảnh của ông Pestel. Điều này giải thích nhiều sản phẩm rất phong phú và đa dạng mà ông phát hành sau này. Ông tự biên tập nhiều ảnh cartes postalesnhưng ông cũng mướn nhiều người, trong đó có Joseph Brignon, người biên tập trong những năm 1925-1930 một bộ cartes postales (1).
Ông Crespin cũng xuất bản các sách in lại các ảnh đã có, như bộ ảnh về thành phố Chợ Lớn năm 1909. Năm 1921, Crespin chụp buổi lễ hạ thủy tàu hơi nước “Albert Sarraut” do toàn quyền Maurice Long chủ tọa. Ông xuất bản bộ ảnh tên là “Souvenir de Cochinchine et du Cambodge”, do Phòng Thương mại Saigon biên tập, trong đó có các ảnh của thống tướng (marechal) Joffre khi ông này viếng Đông Dương chính thức vào năm 1923. Sau đây là vài hình trong bộ ảnh “Souvenir de Cochinchine et du Cambodge”

hinh-43
Hình 43: Ludovic Crespin - Saigon đầu thập niên 1920: Place de l'hôtel de ville, boulevard Bonnard, boulevard Charner. Quảng trường tòa đô chính, góc đại lộ Bonnard (Lê Lợi) và Charner (Nguyễn Huệ). Chính giữa đường Lê Lợi là công viên, và có tượng của Francis Garnier nhìn về phía nhà hát thành phố. Bên phải hình là tiệm “Auto-Hall” bán các loại xe hơi. Bên trái hình là nhà hàng Pancrazi mở đến tối khuya (5). Những người kéo xe, phía phải hình, đang nhìn về phía người chụp ảnh (Crespin).

hinh-44
Hình 44: Ludovic Crespin - Saigon đầu thập niên 1920: Rond point entre le boulevard Charner et le boulevard Bonnard. Vòng xoay giữa đại lộ Nguyễn Huệ (Charner) và đại lộ Lê Lợi (Bonnard). Giữa vòng xoay là vòng bệ nơi chiều thứ bảy, có đoàn nhạc chơi nhạc giao hưởng hay quân nhạc chơi kèn giải trí cho dân chúng. Người Việt gọi ngã tư này là ngã tư “Bồn Kèn”. Để ý xe buýt chở khách giữa hình và trên đầu xe có biển quảng cáo coiffre-art “Le Gaulois”. Bên phải hình là “auto-hall” nơi bán các loại xe hơi (kể cả xe hãng Citroen) và garage xe. Đối diện với “auto-hall”, bên kia đường là nhà hàng Pancrazi (5). Đằng xa phía trái hình là tòa thị sảnh.

Crespin và vợ cũng là chủ đồn điền cao su ở Tam May (Biên Hòa). Do ông Crespin là giám đốc xưởng nhiếp ảnh và có nhiều kinh nghiệm hoạt động từ nhiều năm, nên nghị viên đại diện Nam Kỳ ở Quốc hội Pháp, ông Ernest Outrey năm 1921 có đề nghị ông Crespin là người có trách nhiệm trưng bày và truyền bá những hình ảnh ở Nam Kỳ trong Hội chợ các xứ thuộc địa ở Marseilles năm 1922.
Mặc dù được sự ủng hộ của Phòng thương mại Saigon, Hội đồng quản hạt, Hội đồng thành phố Saigon và mặc dù tất cả chi phí ông Crespin sẽ bỏ ra cho các hình ảnh phóng lớn, các bộ ảnh, cũng như sẽ phân phát miễn phí 1 triệu ảnh cartes postales ở hội chợ; nhưng có sự ngần ngại và chống đối trong chính quyền và Bộ thuộc địa ở Pháp về tư cách ông Crespin đại diện chính thức thay thế cơ quan Sở nhiếp ảnh và phim ở Đông Dương (Service photo-cinématographique de l’Indochine) (1).
Tuy không được đại diện tổ chức trưng bày hình ảnh, nhưng năm 1922, ông cũng có mặt với tư cách cá nhân ở Hội chợ triển lãm Marseilles và có bộ 16 hình ảnh tổng quan về lục tỉnh đặt trong trong nhà triển lãm Nam Kỳ. Theo ông thị trưởng thành phố Saigon thì Crespin là nhà nhiếp ảnh duy nhất có một bộ sưu tập đầy đủ tất cả những tòa nhà, tượng và những địa điểm đầu tiên xưa nhất của thành phố.

Nguyễn Đức Hiệp



Chú thích:


(5) Theo ông Vương Hồng Sển thì nhà hàng Pancrazi này là một trong bốn nhà hàng ở gần ngã tư đường Nguyễn Huệ và Lê Lợi, và ông đã tả như sau: “Góc Bồn Kèn tứ diện có bốn nhà hàng rượu tây, ăn khách từ sáu giờ chiều đến hai giờ khuya, sau dẹp dần chỉ còn lại quán Pancrazi là giỏi chịu đựng nhứt. Quán Café de la musique ở góc đường Tự Do và Lê Lợi ngang Nhà Hát Tây, năm 1905 sang cho lão quán Pancrazi, kế biến thành nhà thuốc tây Solirène, rốt lại là nhà bán kem Givral” (17). Ông và bà Pancrazi còn là chủ khách sạn Grand-Hôtel des Nations ở 104-106 Boulevard Charner trên lầu ở ngay tại nhà hàng này.


Tham khảo


  1. Marie-Hélène Degroise, Photographes en Outre-Mer (1840-1944),
    http://photographesenoutremer.blogspot.com/
  2. Daniel, Malcolm. "The Daguerreian Age in France: 1839–1855". In Heilbrunn Timeline of Art History. New York: The Metropolitan Museum of Art, 2000–.
    http://www.metmuseum.org/toah/hd/fdag/hd_fdag.htm (October 2004).
  3. Daniel, Malcolm. "The Rise of Paper Photography in 1850s France". In Heilbrunn Timeline of Art History. New York: The Metropolitan Museum of Art, 2000–. http://www.metmuseum.org/toah/hd/frph/hd_frph.htm (September 2008)
  4. Nguyễn Đình Đầu, Tìm lại cầu tàu nơi Bác Hồ rời cảng Sài Gòn, Báo Lao Động ngày 4/6/2011,
    http://laodong.com.vn/Tin-Tuc/Tim-lai-cau-tau-noi-Bac-Ho-roi-cang-Sai-Gon/45151
  5. Xavier Guillaume, La terre du Dragon, Tome 1, Publibook, Paris, 2004.
  6. Phạm Phú Thứ, Tây hành nhật ký, Tô Văn Nguyễn Đình Diệm và Văn Vĩnh, Nxb Văn Nghệ, Tp HCM, 2001.
  7. Voyage d'exploration en indochine: par les lieutenants Francis Garnier et Delaporte, Le Tour du Monde - Volume XXII -1870-2nd semestre - Pages 305-321,
    http://collin.francois.free.fr/Le_tour_du_monde/Frame7_textes/TdM_frame7.htm
  8. La Conquête du delta du Tong-King, Romanet du Caillaud, Le Tour du Monde, Volume XXXIV – 1877 – 2nd semestre,
    http://collin.francois.free.fr/Le_tour_du_monde/Frame7_textes/TdM_frame7.htm
  9. Malcolm Daniel, Daguerre (1787–1851) and the Invention of Photography, The Metropolitan Museum of Art,
    http://www.metmuseum.org/toah/hd/dagu/hd_dagu.htm
  10. Kho lưu trữ Bộ ngoại giao Pháp , 
  11. Victor Goloubew, V.-T. Holbé, Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient, Année 1927, Volume 27, Numéro 27, p. 525.
  12. Chronique, Cochinchine, Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient, Année 1933, Volume 33, Numéro 33, p.1110-1111.
  13. Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1991.
  14. Barbara Creed and Jeanette Hoorn, Memory and History: Early Film, Colonialism and the French Civilising Mission in Indochina, in “French History and Civilization”, Papers from the George Rudé Seminar Volume 4, 2011, Edited by Briony Neilson and Robert Aldrich, http://www.h-france.net/rude/rudevoliv/CreedHoornVol4.pdf.
  15. John Keay, The Mekong Exploration Commission 1866-68: Anglo-French rivalry in South East Asia, Asian Affairs, vol. XXXVI, no. III, November 2005,
    http://end-of-empires-south-east-asia.wikispaces.com/file/view/THE+MEKONG+EXPLORATION+COMMISSION.pdf
  16. Làng nhiếp ảnh Lai Xá, http://langnghenhiepanhlaixa.com/
  17. J. Y. Claeys, Martin Hurlimann: Ceylan et l’Indochine, architecture, paysages, scènes populaires, Bulletin de l’École francaise d’Extrême-Orient, 1930, Vol. 30, no. 30, pp. 180-181
  18. Doig Simmonds, Obituary: Pierre Verger, The Independent Sat. 2 March 1996,
    http://www.independent.co.uk/news/people/obituary-pierre-verger-1339851.html
  19. Peter Cohen, Pierre Fatumbi Verger as social scientist, Cahiers du Brésil Contemporain, 1999, n° 38/39, p. 127-151.
  20. Annuaire général Administratif, Commercial et Industriel de l'Indo-Chine, 1908, 1909, 1910, 1911, Imprimerie F.-H. Schneider, Hanoi

Nhiếp ảnh ở Việt Nam từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 (Phần 4 - và hết)

Người thành cổ Quảng trị

Nguyễn Đức Hiệp


Quand je prends des photos, ce n’est pas moi
qui photographie, 
c’est quelque chose en moi qui appuie
sur le déclencheur sans que je décide vraiment...”
Pierre Verger (1902-1996)


Fernand Nadal


Ông Nadal là người Ả Rập, sinh ở Algérie (Hussein-Dey năm 1898 ? hay El Affroun năm 1902?). Ông Nadal đến Đông Dương trong năm đầu của thập niên 1920. Năm 1921, thì ông trú ngụ ở số 150 đường Catinat, Saigon (1). Có thể ông là người Algérie đầu tiên đến và lập nghiệp ở Saigon.
Một vài ảnh của ông được đăng trong báo "Le Monde colonial illustré" giữa các năm 1929 và 1931, và chính phủ toàn quyền ở Đông Dương cũng dùng ảnh của ông. Ông thực hiện nhiều phóng sự ảnh chính thức cho chính quyền Pháp ở Nam Kỳ như ảnh của trung đoàn 11 bộ binh thuộc địa, các tòa nhà công sở, tượng đài ở Saigon.
Trong các địa chỉ thương mại ở Saigon năm 1922, cơ sở của ông là nơi chụp hình, bán các dụng cụ và phụ tùng nhiếp ảnh. Ông Nadal mướn một người Âu và 6 người Việt cho công ty ông. Ông làm việc nhiếp ảnh có lúc cho chính quyền, còn lúc khác thì chụp hình cho các chủ những biệt thự, cho các khách sạn ở các nơi du lịch như Angkor, chụp những loạt hình quảng cáo cho các thương gia ở Saigon. Ngoài ra ông còn in các album ảnh, các cartes postales, và là chủ một cơ sở nhiếp ảnh ở Phnom Penh tương tự như ở Saigon.

hinh-45
Hình 45: Fernand Nadal, trong “album Nadal” năm 1926 – Rue de Canton. Đường Canton (nay là Triệu Quang Phục), hình này cũng có in lại trên carte postale. Có lẽ đây là ngày lễ quốc khánh của Cộng hòa Trung quốc (10 tháng 10). Ở đầu đường và cuối đường có cổng chào mừng, trên cổng có đề hàng chữ “cung chúc dân quốc vạn tuế” (6). Bên phía trái cổng, có treo cờ “tam tài” của Pháp.

Ông có chụp ảnh những cơ sở kỹ nghệ thương mại lớn ở Saigon và vùng phụ cận, và trong năm 1923-1924 các ảnh "La Bien-Hoa Industrielle" của công ty gỗ “La Société forestiere”, lúc đó có độc quyền xuất khẩu gỗ ở Đông Dương. Năm 1930, ông làm phóng sự ảnh cuộc viếng thăm chính thức của thống đốc Philippines (lúc này vẫn còn là thuộc địa của Mỹ), ông Dwight Davis, ở Hà Nội.
Năm 1935, các ảnh cartes postales của ông đề địa chỉ là số 120 đường Catinat. Trong những năm của thập niên 1950, ông vẫn còn sản xuất in các cartes postales.

Võ An Ninh (1907-2009) (12)


Võ An Ninh, tên thật là Vũ An Tuyết, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1907 tại phố Hàng Gai, Hà Nội. Ngay từ hồi còn trẻ, Võ An Ninh đã mê chụp ảnh. Đạp xe đạp khắp Hà Nội chụp ảnh. Dưới thời Pháp thuộc, ông làm phóng viên nhiếp ảnh của Sở Kiểm Lâm. Năm 1935, bức ảnh “Buổi sáng trên đê sông Hồng” đoạt Giải ngoại hạng trong cuộc thi do Hội khuyến khích Mỹ thuật và Kỹ nghệ Việt Nam SADAEI (Société Annamite d’encouregement à l’Art et l‘Industrie) tổ chức. Năm 1938, ảnh “Đẩy thuyền ra khơi” được giải thưởng ngoại hạng triển lãm ảnh Paris – Pháp.
Võ An Ninh đi khắp mọi miền đất nước Bắc-Trung-Nam để chụp ảnh với cái camera của Đức hiệu Zeiss Ikon (1928) và ngay mãi tới gần cuối đời (2000) ông vẫn dùng độc chiếc máy này trong tay với phim đen trắng.
Ở Hà Nội, ông có nhiều ảnh nổi tiếng về Hồ Gươm như Hồ Gươm buổi sương mai (1935), Hồ Gươm trong bốn ảnh "Hà Nội bốn mùa". Ngoài ra ông có những bức ảnh gợi nhớ về Hà Nội của những ngày thanh lịch xa xưa: Trong vườn si đền Voi Phục (1942), Gió nồm (Đê sông Hồng, 1948), Nhớ xưa (1944), Cúc Nghi Tàm (1956), Thiếu nữ Hà Nội (1960), Bậc đá đền Voi Phục (1956), Chùa Láng (1941), Cụ đồ viết câu đối Tết (1940), Tranh Tết làng Hồ (1941), Phố Hàng Buồm (1940), Mái nhà cổ phố Hàng bạc (1956), Cửa Ô Quang Chưởng (1940), Gò Đống Đa (1942), Lầu Khuê Văn và bia Tiến sĩ ở Văn Miếu (1945), Bình Minh trên bãi Phúc Xá (1944), Xe tay ngoại thành (1935), Thu hoạch vụ chiêm (1935), Đông về (Từ Liêm, 1935), Bến thuyền cầu đất (1935), Chợ bán nồi đất (Bưởi, 1935), Chợ Đồng Xuân (1956), Sen Tây Hồ (1941),

hinh-46
Hình 46: Võ An Ninh - Chiều hè ở Hồ Tây, Hà Nội (1954). Lúc này khu vực Hồ Tây vẫn còn hoang vắng. Các thiếu nữ mặc áo dài đi hóng mát vào buổi chiều hè. Một nét thanh lịch của Hà Nội đầu thập niên 1950.

Một số những bức ảnh nghệ thuật ở Saigon có giá trị về nghệ thuật và tư liệu xã hội như "Chợ bến thành và bến xe thổ mộ" (1949), "Cụ đồ viết câu đối Tết" (Saigon, 1950), "Lăng ông ngày tết" (1952), "Nhà thờ Hồi giáo" (1950), "Khói hương chùa Bà, Chợ Lớn" (1953), “Thiếu nữ Saigon” (1951), “Qua Cầu” (Thủ Đức, 1953), "Lẻ loi" (1941), "Sóng đôi" (1942), "Vườn Tầm Vông ngoại thành" (1950), "Ngày xá lợi" (1951), "Đêm phục sinh" (1950), "Bình minh trên sông" (1952).
Một bộ tư liệu quí giá khác trong bộ sưu tập ảnh của cụ là những cảnh trong nạn đói năm Ất Dậu 1945 mà cụ ghi lại như một chứng nhân những gì mà thực dân Nhật-Pháp đã gây nên ở miền bắc nước ta. Cảnh người chết đói ở đường phố Hà Nội, trên đường từ các tỉnh (mà nặng nhất là Thái Bình)
vào thủ đô, xác người đầy hốt trên xe đẩy. Đây là bộ sưu tập duy nhất và đầy đủ ở Việt Nam về nạn đói năm 1945.

Pierre Verger (1902-1996)


Người gốc Bỉ-Hòa Lan, Pierre Verger, sinh năm 1902 ở Paris, và mất năm 1996 ở Salvador (Ba Tây), nơi ông định cư và được ông xem như là quê hương thứ hai của mình. Ông là nhà nhiếp ảnh và dân tộc học nổi tiếng và là một trong những người sáng lập ra “Alliance Photo” năm 1935 ở Pháp, một tổ chức của các nhà nhiếp ảnh tự do, trong đó có những nhà nhiếp ảnh huyền thoại sau này như Henri Cartier-Bresson, Pierre Boucher và Robert Capa.
Bị đuổi học lúc 17 tuổi vì thiếu kỷ luật, ông làm việc trong cơ sở thương mại in ấn của gia đình, nhưng lúc nào ông cũng cảm thấy nhàm chán. Sau khi ông được Pierre Boucher giới thiệu về nghệ thuật nhiếp ảnh vào năm 1932, ở tuổi 30, ông cho rằng mình chỉ sống đến tuổi 40 nên ông quyết định sống một cuộc đời đầy hứng khởi, tận hưởng mỗi phút giây trong cuộc sống. Cũng năm này, mẹ ông mất, ông và nhà nhiếp ảnh Pierre Boucher đã đi bộ toàn bộ chu vi đảo Corse dài 1500 km để chụp ảnh và suy nghĩ về cuộc sống (24).
Sau đó, ông rời Pháp đi khắp thế giới chụp ảnh với chỉ rất ít đồ trong va ly và máy ảnh Rolleiflex. Ở Nhật (1934) và kế đó Trung Hoa, ông chụp nhiều hình ảnh ở Kyoto, Nara, Tokyo, Bắc Kinh, Thượng Hải, Sán Đầu, Hồng Kông, Nam Kinh,... Ông đạp xe đạp khắp các nước Pháp, Tây Ban Nha, Ý và vượt sa mạc Sahara bằng lạc đà đến vùng mà ngày nay là các nước Mali, Burkana Faso, Niger, Benin. Ở đây ông chụp ảnh và có liên hệ sâu đậm với sắc dân Yoruba, đây là khởi đầu của sự đam mê của ông về văn hóa Phi châu da đen.
Ông viếng Mỹ, Mexico và các đảo ở Trung Mỹ. Và trong dịp thứ hai băng qua Liên Xô đến Trung Hoa, ông đã chứng kiến và chụp hình ảnh cuộc chiến tranh Trung-Nhật (1937). Sau đó ông đến Đại Hàn, Phi Luật Tân và đến Đông Dương (1938). Ông chụp nhiều hình về con người cảnh sinh hoạt ở Saigon, Hà Nôi, Ban Mê Thuột, Hội An, Huế, Đà Nẵng, Kontum, Pleiku, Mỹ Sơn, Nha Trang, Qui Nhơn, Lai Châu, Mộc Châu, Hòa Bình... nhiều hình ảnh ở Cam Bốt như Angkor, Phnom Penh, Battambang, ở Thái Lan, và ở Lào (Vietiane, Luang Prabang, Savanakhet).
Trong lúc ở Đông Dương năm 1938, vẫn còn lo nghĩ là mình chỉ sống đến 40 tuổi và tính lại là chỉ còn 1500 ngày nữa để sống. Ông vội đi mua ngay một dây thước dài đúng 1.5 mét. Quyết định là mỗi ngày ông sẽ cắt đi 1 mm để nhắc nhở là khi dây thước hết cũng là lúc mình không còn trên cõi đời này nữa. Và khi dây thước càng gần hết thì phải quyết sống cho mỗi ngày thật trọn, kích thích mình phải làm gì hay nhất, đam mê, sáng tạo và hữu ích nhất trong mỗi giây phút còn lại (23). Ông là người tự học, đọc nhiều và ham muốn học hỏi chìm sâu vào nhiều vấn đề và trở thành chuyên gia về phim, ảnh, âm nhạc, lịch sử, nghệ thuật, dân tộc học... Sau này các nhà nghiên cứu xem ông là ‘”l’homme de Renaissance” (người của thời Phục Sinh, biết và tìm hiểu mọi vấn đề tri thức).
Các hình ảnh của ông không những có giá trị nghệ thuật mà còn mang nhiều thông tin về con người, phong tục ở các xứ sở ông đến. Ông có những triển lãm và hợp tác nhiều lần với Viện bảo tàng Con người (Musée de l’Homme) ở Paris từ những năm của thập niên 1930 đến thập niên 1980.

hinh-47hinh-48
Hình 47: Saigon (1938) – Nguồn Pierre Verger Foundation (22)
Hình 48: Saigon (1938) – Nguồn Pierre Verger Foundation (22)

hinh-49
Hình 49: Ban Mê Thuột (1938) – Người Rhadé – Nguồn Pierre Verger Foundation (22)
Sau Đông Dương, năm 1939 ông đến Trung Mỹ (Mexico, Guatemala) và khi chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra, ông trở lại Dakar (Phi châu) qua các nước Nam Mỹ (Peru, Brazil, Argentina, Bolivia) nhập ngũ vào quân đội trong đội nhiếp ảnh. Tại đây ông gặp Théodore Monod, giám đốc Viện nghiên cứu Phi Châu da đen của Pháp (Institute Francais de l’Afrique Noir, IFAN) và từ đó say mê nghiên cứu một tôn giáo Phi châu - Ba Tây đặc biệt của người da đen thuộc sắc dân Yoruba ở Tây Phi và Ba Tây (Bahia, Salvador, Sao Paulo) gọi là Condomblé khi họ di dân qua Nam Mỹ.
Giải ngũ, ông trở lại Nam Mỹ và làm nhiếp ảnh (1942-1946) cho Viện bảo tàng quốc gia ở Lima (Peru). Ở Peru, cũng chính là lúc đoạn milimét cuối cùng của thuớc dây “đời sống” của ông hết, lúc ấy ông đọc quyển “The Importance of Living” (Sự quan trọng của cuộc sống) của nhà văn và triết gia Lâm Ngữ Đường (Lin Yu Tang). Lâm Ngữ Đường đã thay đổi tư duy của ông về tiếp tục cuộc sống (23).
Ông trở thành chuyên viên về văn hóa Phi Châu - Ba Tây và định cư ở Salvador. Ông dạy ở các đại học Ba Tây và năm 1971 là Giám đốc nghiên cứu Phi châu ở Trung tâm nghiên cứu quốc gia Pháp (CNRS) (24). Mặc dầu không được biết tiếng nhiều ở Pháp, nhưng ông là người trở thành huyền thoại trong giới nghiên cứu và người dân ở Salvador, Bahia và Tây Phi, nhất là từ khi ông mất. Vào đạo của người Yoruba, ông có tên là “Fatumbi”, và trong đạo Ifa, ông có chức vụ cao “Babalawo” (“cha của bí mật”) mang trọng trách không bao giờ tiết lộ bí mật của đạo cho người ngoại đạo (23).
Pierre Fatumbi Verger cũng là một nhà nhiếp ảnh huyền thoại với hơn 65,000 tấm ảnh quí giá chụp ở khắp nơi trên thế giới vào thế kỷ 20.

Tổng Luận


Bài này chỉ nêu lên sơ lược về lịch sử nhiếp ảnh và sự cống hiến về tư liệu của các nhà nhiếp ảnh ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Họ là các nhà nhiếp ảnh Pháp, Hoa, Việt và các nước khác; chỉ với mục đích ban đầu là say mê nhiếp ảnh và sống với nghề chụp ảnh nhưng những gì họ để lại là những tư liệu không những có giá trị nghệ thuật, như đa số họ ước muốn, mà còn có giá trị lịch sử, văn hóa và xã hội mà hiện nay chúng ta chưa khai thác hết.
Tác giả bài biên khảo này cho rằng còn có rất nhiều tư liệu ảnh rải rác ở các sưu tập tư nhân nhiều nơi trên thế giới cũng như các kho ảnh như kho ảnh của Pháp ở “Archives nationales d’outre mer” (ANOM) hay ở Việt Nam hiện nay chưa được để ý đến đúng mức. Một viện bảo tàng nhiếp ảnh nếu được thành lập ở Việt Nam sẽ là nơi hội tụ các tư liệu ảnh mà các nhà sưu tập tư nhân có thể đóng góp sẽ rất bổ ích cho các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước về những vấn đề và đề tài lịch sử, văn hóa và xã hội ở Việt Nam vào thế kỷ 19 và 20.

Nguyễn Đức Hiệp



Chú thích:


(6) Lúc này trong Chợ Lớn người Hoa (trừ người Minh Hương) được coi là ngoại kiều và có các chi nhánh của Quốc Dân đảng hoạt động công khai. Thời này, đường Triệu Quang Phục là một trong những trung tâm thương mại ở Chợ Lớn, người Hoa ở đây đa số là gốc Quảng Đông. Góc đường Triệu Quang Phục và Nguyễn Trãi (rue de Cay-mai) có chùa Bà Thiên Hậu, một trong những ngôi chùa cổ nhất ở Chợ Lớn, và cũng là Hội quán của bang Quảng Đông (Tuệ Thành Hội quán).

Tham khảo


  1. Marie-Hélène Degroise, Photographes en Outre-Mer (1840-1944),
    http://photographesenoutremer.blogspot.com/
  2. Daniel, Malcolm. "The Daguerreian Age in France: 1839–1855". In Heilbrunn Timeline of Art History. New York: The Metropolitan Museum of Art, 2000–.
    http://www.metmuseum.org/toah/hd/fdag/hd_fdag.htm (October 2004).
  3. Daniel, Malcolm. "The Rise of Paper Photography in 1850s France". In Heilbrunn Timeline of Art History. New York: The Metropolitan Museum of Art, 2000–.
    http://www.metmuseum.org/toah/hd/frph/hd_frph.htm (September 2008)
  4. Nguyễn Đình Đầu, Tìm lại cầu tàu nơi Bác Hồ rời cảng Sài Gòn, Báo Lao Động ngày 4/6/2011,
    http://laodong.com.vn/Tin-Tuc/Tim-lai-cau-tau-noi-Bac-Ho-roi-cang-Sai-Gon/45151
  5. Xavier Guillaume, La terre du Dragon, Tome 1, Publibook, Paris, 2004.
  6. Phạm Phú Thứ, Tây hành nhật ký, Tô Văn Nguyễn Đình Diệm và Văn Vĩnh, Nxb Văn Nghệ, Tp HCM, 2001.
  7. Voyage d'exploration en indochine: par les lieutenants Francis Garnier et Delaporte, Le Tour du Monde - Volume XXII -1870-2nd semestre - Pages 305-321,
    http://collin.francois.free.fr/Le_tour_du_monde/Frame7_textes/TdM_frame7.htm
  8. La Conquête du delta du Tong-King, Romanet du Caillaud, Le Tour du Monde, Volume XXXIV – 1877 – 2nd semestre,
    http://collin.francois.free.fr/Le_tour_du_monde/Frame7_textes/TdM_frame7.htm
  9. Malcolm Daniel, Daguerre (1787–1851) and the Invention of Photography, The Metropolitan Museum of Art,
    http://www.metmuseum.org/toah/hd/dagu/hd_dagu.htm
  10. Victor Goloubew, V.-T. Holbé, Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient, Année 1927, Volume 27, Numéro 27, p. 525.
  11. Chronique, Cochinchine, Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient, Année 1933, Volume 33, Numéro 33, p.1110-1111.
  12. Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1991.
  13. Barbara Creed and Jeanette Hoorn, Memory and History: Early Film, Colonialism and the French Civilising Mission in Indochina, in “French History and Civilization”, Papers from the George Rudé Seminar Volume 4, 2011, Edited by Briony Neilson and Robert Aldrich, http://www.h-france.net/rude/rudevoliv/CreedHoornVol4.pdf.
  14. John Keay, The Mekong Exploration Commission 1866-68: Anglo-French rivalry in South East Asia, Asian Affairs, vol. XXXVI, no. III, November 2005, 
    http://end-of-empires-south-east-asia.wikispaces.com/file/view/THE+MEKONG+EXPLORATION+COMMISSION.pdf
  15. Làng nhiếp ảnh Lai Xá, http://langnghenhiepanhlaixa.com/
  16. J. Y. Claeys, Martin Hurlimann: Ceylan et l’Indochine, architecture, paysages, scènes populaires, Bulletin de l’École francaise d’Extrême-Orient, 1930, Vol. 30, no. 30, pp. 180-181
  17. Doig Simmonds, Obituary: Pierre Verger, The Independent Sat. 2 March 1996,
    http://www.independent.co.uk/news/people/obituary-pierre-verger-1339851.html
  18. Peter Cohen, Pierre Fatumbi Verger as social scientist, Cahiers du Brésil Contemporain, 1999, n° 38/39, p. 127-151.
  19. Annuaire général Administratif, Commercial et Industriel de l'Indo-Chine, 1908, 1909, 1910, 1911, Imprimerie F.-H. Schneider, Hanoi