THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THI VÂN YÊN TỬ

SỚM CHIỀU DU NGOẠN CÙNG MÂY NÚI
HOA TRÁI QUA NGÀY TA VỚI TA

Thứ Năm, 31 tháng 12, 2009

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ HÔM NAY


Người thành cổ Quảng trị


 

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ NĂM 1972

















Người thành cổ Quảng trị

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ NHÌN TỪ TRÊN KHÔNG


THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ NGÚT NGÙN BOM ĐẠN


 
CHIẾNĐẤU BẢO VỆ THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ




NHÀ THỜ LAVANG BỊ BOM ĐẠN HỦY HOẠI

Thứ Tư, 30 tháng 12, 2009

Vị tướng hồi hương với một tấn tài liệu về vũ khí

Người thành cổ Quảng trị


Năm 1946, nhân dịp Bác Hồ sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau về nước, Tướng Trần Đại Nghĩa (khi đó có tên gọi là Phạm Quang Lễ) đã theo Bác về nước. Hành trang hồi hương của ông là hơn 1 tấn tài liệu về vũ khí mà ông sưu tập được trong hơn chục năm làm việc tại Pháp.
Từ Paris hoa lệ theo Bác hồi hương


GS Trần Đại Nghĩa

Hè năm 1946, Phạm Quang Lễ cùng đông đảo bà con Việt kiều ở Paris ra sân bay Le Bourget đón Cụ Hồ sang thăm theo lời mời của Chính phủ Pháp. Nghe tên Nguyễn Ái Quốc đã lâu nhưng nay được thấy “một cụ già hơi gầy, có bộ râu đen và thưa, trang phục giản dị với bộ ka-ki màu vàng nhạt, trên ngực không đeo huân chương. Đặc điểm hấp dẫn nhất với tôi là Người có đôi mắt sáng, vầng trán rộng, cử chỉ nhanh nhẹn, hoạt bát, luôn chủ động” – ông Lễ ghi lại trong hồi kí của mình khi vào tuổi 80.
Thời gian này, phái đoàn Chính phủ ta do ông Phạm Văn Đồng là trưởng đoàn cùng các ông Tạ Quang Bửu, Phan Anh... tham gia Hội nghị Fontainebleau với Chính phủ Pháp. Chỉ là khách mời danh dự nhưng Bác thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với đoàn.
Cũng dịp này, ông chủ tịch Hội Việt kiều ở Paris đã giới thiệu một số trí thức yêu nước với Bác. Vậy là ông Lễ được gặp và trò chuyện với Người, thậm chí được tháp tùng Bác đi thăm một số nơi ở nội, ngoại thành Paris. Nhân cách, đức độ của Nguời đã thu phục ông.
Cuộc đàm phán ở Hội nghị bị phía Pháp cố tình kéo dài. Ngày 10/9/1946, Bác cho gọi ông Lễ tới thông báo: “Hội nghị Fontainebleau không thành công, Bác sắp về nước. Chú chuẩn bị vài ngày nữa chúng ta lên đường. Chú đã sẵn sàng chưa?”. “Thưa Bác, cháu đã sẵn sàng về nước”, ông Lễ trả lời.
Lúc đó, ông đang làm việc tại xưởng sản xuất máy bay, chỉ cần viết đơn xin nghỉ việc. Hơn chục năm học và làm việc tại Pháp (1935-46), ông âm thầm say mê nghiên cứu chế tạo vũ khí. Bằng quan hệ và khả năng của mình, ông bí mật gom góp hơn 3 vạn trang tài liệu về vũ khí và công nghệ. Hơn 1 tấn tài liệu được đóng gói, dán nhãn “ngoại giao” theo ông về nước.

Chuyến hải trình căng thẳng
Tháp tùng Bác trên Thông báo hạm quân sự Dumont d’Urville theo đường biển về nước còn có ông Đỗ Đình Thiện (Thư kí của Bác), Đại tá cận vệ Vũ Đình Huỳnh cùng 4 Việt kiều (Kỹ sư đúc - luyện kim Võ Quý Huân, Bác sĩ Trần Hữu Tước, Kỹ sư mỏ Võ Đình Quỳnh và ông Lễ).
AHLĐ Trần Đại Nghĩa (thứ 3 từ trái qua) cùng Bác Hồ và các đại biểu tại Đại hội AHCSTĐ lần thứ nhất ở Việt Bắc, 1/5/1952.


AHLĐ Trần Đại Nghĩa (thứ 3 từ trái qua) cùng Bác Hồ và các đại biểu tại Đại hội AHCSTĐ lần thứ nhất ở Việt Bắc, 1/5/1952.

Ngày 19/9/1946, tầu rời cảng Toulon. Sau Hội nghị Fontainebleau, quan hệ Việt - Pháp trở nên rất căng thẳng, ai cũng lo chuyến đi lênh đênh trên biển dài ngày, lỡ ở nhà xảy ra chiến tranh thì cả đoàn rơi vào cảnh “cá chậu, chim lồng”. Nhưng riêng Bác vẫn tỏ ra bình thản. Người bàn bạc với các thành viên thống nhất cách thức sinh hoạt, nghỉ ngơi, đọc sách báo, giữ nếp sống trật tự cho chuyến đi.
Khi tàu vào Địa Trung Hải, phía Pháp cho 150 binh lính, sĩ quan trên tầu “tập trận”. Còi báo động rú lên, sàn tầu rung chuyển rồi súng pháo nổ ầm ỹ, khói đạn mù trời... Phía Pháp có ý uy hiếp đoàn. Nhưng Bác vẫn tỉnh táo chỉ đạo giữ thái độ như không có gì xảy ra. Từ thế mạnh áp đảo, nhưng do ta khéo léo trong ứng xử giao tiếp làm họ phải thay đổi thái độ. Cũng có tập trận lần 2 cho phải phép rồi thôi.
Theo đề nghị của Bác, Thông báo hạm dừng tại 4 điểm: Kênh đào Suez, Ceyland (nam Ấn Độ), Nha Trang và ngoài khơi Hải Phòng. Tại đó, chỉ Bác cùng thư kí và cận vệ lên bờ.
Chuyến đi dài ngày là dịp may hiếm có được sống gần Bác, một môi trường thuận lợi để Kĩ sư Phạm Quang Lễ chuẩn bị đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm trước khi bước vào cuộc đời mới. Gần 3 tháng gần Người, ông Lễ như được qua 1 lớp huấn luyện mà nội dung rất sinh động, được đúc kết từ tinh hoa, truyền thống dân tộc, từ các đạo lí, cả của phương Đông và phương Tây, 1 phương pháp luận khoa học...
Ngày 20/10/1946, tầu cập Cảng Hải Phòng. Ra đón tiếp đoàn cùng nhân dân Hải Phòng và đại diện Pháp còn có mặt ông Phạm Văn Đồng (rời Paris sau nhưng về bằng máy bay), ông Võ Nguyên Giáp...
Vị Tổng tư lệnh xúc động ôm ông Lễ trong vòng tay, nói: “Ở nhà nghe tin anh về với Bác mừng lắm!”. Còn ông thì cảm động: “Cảm ơn anh! Tôi mới về nước, chưa làm được gì. Các anh ở nhà chắc vất vả lắm?”.

Được Bác đặt tên là Trần Đại Nghĩa
Vừa về tới Hà Nội, ông được Thứ trưởng Quốc phòng Tạ Quang Bửu đón ngay lên Thái Nguyên thử đạn Bazooka của cánh tình báo Mỹ tặng Bác. (Bazooka lúc đó là vũ khí mới, quân đội Mỹ vừa dùng khi đổ bộ lên Normandi (Pháp) đầu năm 1944).
Khi trở về, Bác gọi ông đến giao nhiệm vụ Cục trưởng Cục Quân giới: “Kháng chiến rất cần bí mật các công xưởng. Chú cũng cần có tên bí mật với kẻ thù và giữ an toàn cho gia đình, họ hàng chú ở trong Nam”. (Quê ông ở tỉnh Vĩnh Long, Nam Bộ). Kĩ sư Phạm Quang Lễ xin Bác đặt tên cho. Bác vui vẻ nói: “Phục vụ nhân dân là nghĩa lớn. Vậy Bác đặt bí danh cho chú là Trần Đại Nghĩa!”. Cái tên đó đã gắn với ông suốt cả cuộc đời.
Ngay sau ngày Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, sắt thép vụn, đường ray xe lửa được chuyển về các xưởng quân giới, chế tạo những khẩu Bazooka.
Ngay sau Tết Đinh Hợi, sáng 5/3/1947, khi cánh quân Pháp từ thị xã Hà Đông có xe tăng yểm trợ tấn công ra vùng chùa Trầm. Đang lừ tiến, huơ nòng pháo bắn đì đòm thị uy thì “oành! oành”, 2 quầng lửa bất ngờ trùm lên 2 chiếc đi đầu. Rồi đạn trong xe nổ dữ dội. Cuộc hành quân tấn công Chương Mỹ, Quốc Oai bị dừng lại. Giặc Pháp phải hốt hoảng lui quân.
Không chỉ xe tăng, mà tất cả cả lô cốt, ụ xạ kích, các nhà cửa kiên cố cũng bị đạn Bazooka xuyên thủng, lính trong căn cứ cháy thành than... gây bao nỗi kinh hoàng.
Đặc biệt, hàng chục tầu chiến Pháp bị bộ đội ta bắn chìm trên sông Lô (trong Chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947), bẻ gãy “1 gọng kìm” của cuộc tấn công lên Căn cứ địa cách mạng.
Với chiến công này của bộ đội, đầu năm 1948, Hồ Chủ tịch đã kí quyết định phong quân hàm cấp tướng cho 11 cán bộ cao cấp. Trong số đó, ông Trần Đại Nghĩa nhận hàm thiếu tướng.

Chế tạo thành công súng SKZ
Trong những năm tháng gian khổ ấy, ta chưa có đạn Ca-chiu-sa, ông Nghĩa luôn mơ ước làm sao chế tạo cho được loại súng mà bộ đội ta có thể vác vai nhưng có sức công phá ngang cỗ đại bác nặng 6 tấn. Ông đã cùng các kĩ sư Hoàng Đình Phu, Bùi Minh Tiêu, Nguyễn Trinh Tiếp, Phạm Đồng Điện, Nguyễn Văn Hường... nghiên cứu loại vũ khí tương đương của Mỹ dùng tấn công lên đảo Okinawa (Nhật Bản).
Thế rồi, SKZ (viết tắt “súng không giật”) của Việt Nam ra đời. Đầu năm 1950, trong Chiến dịch Lê Hồng Phong, ngay trận đầu Phố Lu, bộ đội ta đã dùng SKZ phá tan các lô cốt có tường bê tông dày hơn 1m. Tiếp sau đó là công trình nghiên cứu đạn bay. Và, cứ thế, cứ thế...
Tại Đại hội Anh hùng CSTĐ năm 1952, ông là trí thức Việt Nam đầu tiên được tặng danh hiệu AHLĐ. Những năm sau này, Nhà nước phong tặng ông Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 cho Cụm các công trình nghiên cứu và chỉ đạo kĩ thuật chế tạo vũ khí trong thời kì chống Pháp.
Trần Đại Nghĩa tên thật là Phạm Quang Lễ, sinh năm 1913 trong một gia đình nhà giáo. Giữa 1933, thi đỗ đầu hai bằng tú tài: Việt và Tây. Nhưng vì nhà nghèo, không có tiền đi Hà Nội học, ông đi làm giúp mẹ, chờ thời cơ.

1935, đi du học Pháp. Tốt nghiệp kỹ sư và cử nhân các trường: Bách khoa Paris, Mỏ, Điện, Sorbonne, Cầu đường. Sau đó ở lại làm việc tại Viện Nghiên cứu máy bay. Năm 1942, sang Đức làm việc trong xưởng chế tạo máy bay và Viện Nghiên cứu vũ khí.

Từng giữ chức vụ: Cục trưởng Cục Pháo binh, Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Phó chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật, Chủ nhiệm Ủy ban Kiến thiết Cơ bản, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật, Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Công thương, Chủ tịch đầu tiên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kĩ thuật Việt Nam, Hiệu trưởng đầu tiên Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại biểu Quốc hội khoá II, III. Năm 1966, ông được bầu làm Viện sỹ nước ngoài của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.

Được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu Anh hùng lao động. Ông mất vào 16 giờ 20 phút ngày 9/8/1997, hưởng thọ 85 tuổi.

(Theo Wikipedia)
  • Trần Kiến Quốc

Lời cầu hôn của Đại tướng Văn Tiến Dũng

Người thành cổ Quảng trị

- "Năm 1943, đang là Bí thư Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh, ông bị ốm. Tôi ở lại chăm sóc, mua lá về xông, đọc sách báo cho ông nghe. Một hôm, bất ngờ, ông nói "Thôi cậu ở đây rồi cậu lấy tớ đi". Ông ấy là vậy, hiền lành, thẳng thắn, cầu hôn mà nói y như ra lệnh".

Vợ chồng Đại tướng Văn Tiến Dũng. Ảnh do gia đình Đại tướng cung cấp.

Ngay đầu buổi trò chuyện, bà Nguyễn Thị Kỳ, vợ Cố Đại tướng Văn Tiến Dũng đã nói trước rằng, nếu tôi muốn tìm hiểu về cuộc đời Đại tướng, tôi có thể đọc rất nhiều quyển sách về ông. Còn nếu muốn hỏi những kỷ niệm riêng, bà sẽ kể cho nghe, dù ở tuổi gần 90, trí nhớ của bà không còn được như trước.
Và trong căn phòng ở 34 Trần Phú, đã được bà cơi nới thêm làm chỗ tưởng niệm ông, chúng tôi đã được nghe những kỷ niệm rất riêng của ông bà.

Đám cưới chung với vợ chồng ông Hoàng Quốc Việt
Sau khi ông ngỏ lời, tôi đã không đồng ý vì "mới đi hoạt động là đã lấy nhau sợ các anh trên mắng cho" (bà Kỳ bắt đầu đi làm giao liên từ năm 1943). Chúng tôi tìm hiểu thêm khoảng 3 tháng nữa rồi làm đám cưới cũng vào năm đó.
Chúng tôi và vợ chồng ông Hoàng Quốc Việt cùng tổ chức đám cưới một ngày. Đám cưới giản dị lắm. Ngày đó, bữa ăn của nhà chủ thường chỉ có rau muống và nước mắm. Hôm đó, nhà chủ thịt thêm con vịt.
Chúng tôi cùng ngồi ăn cơm và người của TƯ tuyên bố tổ chức đã đồng ý để hai đôi chúng tôi thành vợ chồng.
Đêm tân hôn, ông ấy ở lại với tôi. Hôm sau, ông lại sang bên kia sông chỉ đạo kháng chiến. Mỗi tuần tôi đi lấy tài liêu 2 - 3 lần, nhờ thế cũng được gặp ông.
Cưới nhau rồi nhưng vẫn mỗi người mỗi bờ sông. Tôi nhớ, có lần, nước sông rất to. Đã khuya lắm rồi mà tôi mới đi đến bến đò Tiếu, làng Sen Hồ (Bắc Ninh), phải sang sông mới về đến nhà.
Tôi gọi mãi mà đò không sang, ông bảo, thôi kệ, cứ ở lại (lúc đó làm như vậy là sai nguyên tắc). Thế là hai vợ chồng rải áo tơi ra ngồi và che lưng, đầu che bằng chiếc ô của ông, cứ như vậy cho đến sáng.
Năm 1944, ông bị bắt lần thứ 3, bị tra tấn rất dã man. Năm 1945, Pháp chuyển ông về nhà tù Bắc Ninh, trong khi đó, chúng đã bí mật kết án tử hình ông. Ông đã vượt ngục thành công nhưng sau đó bị ốm một trận rất nặng, phải tạm lánh tại các cơ sở cách mạng ở Đông Anh (Hà Nội). Nhờ sự giúp đỡ của ông Trường Chinh (lúc đó, đang là Tổng Bí thư), vợ chồng tôi mới được gặp nhau.

59 năm, 2 lần cao giọng
Tính ra, tôi và ông ấy sống chung với nhau được 59 năm. Ông rất thương vợ, điềm tĩnh, ít nói, có khách đến nhà cũng để vợ nói, vợ nói sai mới sửa lại. Cả cuộc đời, chỉ có hai lần ông cao giọng với tôi.
Lần thứ nhất vào năm 1946, khi đó ông đang làm việc ở Ban chỉ huy chiến khu 2 đóng ở Sơn Tây. Tôi là Trưởng ban Kinh tế của tỉnh này. Tôi làm sổ sách kế toán bị thiếu 5 đồng, có người phát hiện được báo với ông.
Ông cho gọi tôi đến gặp, rút súng để lên bàn và hỏi: “Cô biết cô có tội gì không?”. Lúc đó, tôi cũng đã biết lý do ông gọi tôi đến nên bảo: “Ông lấy tôi ông không biết hay sao? Tôi trình độ “I tờ”, học hết lớp 7, cộng trừ chưa quen nên mới bị nhầm. Thiếu thì tôi trả”. Vậy mới xong chuyện.
Lần thứ hai là do ông ghen. Vào khoảng năm 1949, tôi đang hoạt động ở Việt Bắc, gần nơi học của lớp cán bộ cấp trung đoàn, trường Võ bị Trần Quốc Tuấn. Ông ấy ở Liên khu 3, đang tổ chức thành lập Đại đoàn 320.
Hồi đó, chỗ tôi ở có nhiều su su, trong khi anh em cán bộ thức ăn rất hạn chế. Vì vậy, tôi mới muối su su rồi mang cho các anh cải thiện.
Một cán bộ tình báo, khi về đồng bằng mới trêu ông ấy rằng: “Anh ở đây, chị ở trên đó, mà chị đẹp như vậy, cẩn thận anh mất vợ”. Ngay lập tức ông ấy cho người đón tôi về, rồi cũng cao giọng hỏi: “Cô biết cô có tội gì không?”
Tôi bảo, tôi chẳng có tội gì cả. Rồi cậu cán bộ kia phải ra giải thích, cậu chỉ đùa ông thôi chứ thực ra không có chuyện gì, ông mới xuôi.

Ông Tướng dốc hết tiền mua sách
Giá sách của ông ấy hiện nay vẫn còn cả trăm cuốn, tôi vẫn giữ y nguyên như ngày ông còn sống. Hồi chuyển nhà từ 26 Hoàng Diệu sang chỗ này, sách của ông đã bị thất lạc nhiều nên mới còn chừng đó.
Ông đọc cả sách truyện như Sông Đông êm đềm, Những người khốn khổ…, cả những cuốn sách lý luận chính trị, triết học, lịch sử… Hai đợt ông đi học chính trị cao cấp ở Nga (từ tháng 3 đến tháng 9, hai năm 1961 - 1962), tiền công tác phí còn được chút nào, ông ấy dành hết để mua sách mang về.
Ông cũng đọc báo hàng ngày, khi ông tuổi cao rồi, ông nhờ chú thư ký đọc cho nghe. Tôi để ý thấy, ông thường gạch chân những tin tức ông quan tâm, rồi ông trầm ngâm suy nghĩ.
Ngày còn ở Hoàng Diệu, chiều chiều nếu không đi công tác là ông lại giục anh em thư kí, bảo vệ cùng hai con Trình, Huấn ra đánh bóng chuyền trên sân nhà. Ông ấy là cây đập chủ công của đội. Có khi còn mời cả anh em trong cơ quan Bộ Tổng sang đánh giao hữu.
Khi đã 70-80 tuổi, ngày nào cũng như ngày nào, ông đạp xe thể thao hai lần, vào sáng và chiều mỗi lần 15 phút. Chiếc xe đạp của ông hiện đã được chuyển sang Bảo tàng Quân Đội.
Năm 2002, 85 tuổi, ông phải nhập viện 108, bác sĩ yêu cầu mổ. Ông ấy đã nói với bác sĩ rằng, cố cho ông thêm một năm nữa để ông sống được cùng tôi tròn 60 năm. Vậy mà không được.
Sau khi ông mất, mấy đứa con trai cũng đi theo ông ấy. Tôi có 5 con mà giờ chỉ còn hai cô con gái.
...
Bà Kỳ kết thúc câu chuyện như vậy. Lúc ấy, giọng bà trùng xuống, đôi mắt bà như hồi tưởng lại quãng thời gian mất mát. Bà nói tiếp với chúng tôi rằng, đó là nỗi buồn lớn nhất trong cuộc đời bà.
Hoàng Hạnh (ghi)

Người trở về từ Thành Cổ Quảng Trị

Người thành cổ Quảng trị

Một sáng mùa hè năm 2005, sau ba mươi tư năm, kể từ ngày những sinh viên trẻ măng rời Hà Nội vào chiến trường máu lửa, có một người cựu chiến binh - thương binh đến trồng bên mộ liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc hai cây bạch đàn.
Đây loài cây mà Nguyễn Văn Thạc yêu thích, được nhắc tới nhiều lần trong những trang nhật kí Mãi mãi tuổi hai mươi. Anh là đồng đội, nhập ngũ cùng ngày với Nguyễn Văn Thạc (6/9/1971), nhưng may mắn hơn, anh đã có cơ hội đi tiếp vào “chảo lửa” Quảng Trị, có mặt trong 81 ngày đêm khốc liệt và bi tráng của Thành Cổ trong mùa hè đỏ lửa năm 1972.
Người cựu chiến binh đó là ông Nguyễn Quốc Triệu, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Y tế, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đấu tranh thống nhất đất nước, Quảng Trị là chảo lửa tiếp tuyến giữa hai miền Nam - Bắc, nơi đụng độ quyết liệt giữa ta và địch. Người ta ước tính rằng, cứ mỗi mét vuông đất ở Quảng trị phải hứng chịu 250 kg bom pháo. Số lượng đạn bom của kẻ thù dội xuống Quảng Trị có sức công phá bằng 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Nhật Bản năm 1945.
Tính riêng ở Thành Cổ, trung bình một chiến sĩ giải phóng phải hứng chịu 100 quả bom, 200 quả đạn pháo. Có ngày địch xả vào Thành Cổ 5.000 quả đại bác, vài chục lượt B52 quần đảo.
Cho đến nay, chưa có con số thống kê chính xác bao nhiêu người lính đã nằm lại Thành Cổ Quảng Trị. Có tài liệu ghi hơn một vạn, có  tài liệu ghi hơn một vạn rưỡi, nhưng tại nghĩa trang Thành Cổ chỉ quy tập được chưa đầy một ngàn nấm mộ, hầu hết là vô danh.
Biết bao chiến sĩ trẻ vừa rời giảng đường đại học đã mãi mãi nằm lại trong đống đổ nát của Thành Cổ và cả dưới dòng sông Thạch Hãn. Lê Bá Dương đã viết những câu thơ yêu thương máu ứa: “Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm”.
Máu xương của hơn một vạn người lính đã nằm xuống Thành Cổ ngày ấy đã góp phần vào thắng lợi của Hiệp định Paris 1973 và Đại thắng Mùa xuân năm 1975. Nhiều người trong lớp sinh viên vào tuyến lửa năm ấy may mắn được trở về cứ mãi đau đáu với nghĩa tình đồng đội, lao vào cuộc chiến đấu mới trong công cuộc xây dựng đất nước, gánh cả phần việc của những đồng đội đã hy sinh.
Cùng với ông Nguyễn Quốc Triệu, đồng đội năm ấy nhiều người hôm nay cũng đang nắm giữ các trọng trách khác nhau như ông Đinh Thế Huynh, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam, Tổng Biên tập báo Nhân dân và hàng ngàn kỹ sư, bác sĩ, tiến sĩ, nhà khoa học, nhà văn hoá… hoạt động trên nhiều lĩnh vực công tác.
Ông Nguyễn Trọng Bường, một cựu chiến binh Thành Cổ người Quảng Trị đã rưng rưng hồi tưởng lại trong lễ trao Kỉ niệm chương bảo vệ thị xã Thành Cổ ngày 22/12/2006 tại Hà Nội: “Hồi đó, thấy mấy anh từ Bắc vô, anh nào cũng trắng trẻo, thư sinh, đẹp trai, nhìn mấy anh tụi tui thấy tiếc, cứ nghĩ những người như mấy anh phải đi học,  phải là bác sĩ, kỹ sư để xây dựng đất nước chứ răng lại vô đây cầm súng chiến đấu?”.
Vậy đó, chính lớp chiến sĩ - sinh viên ấy đã làm nên trang sử hào hoa trong khúc ca bi tráng của Thành Cổ Quảng Trị. Đúng như nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, khi nói về những người lính Thành Cổ đã viết: “Những người chết không phải vì để trở thành anh hùng mà chính là để đằng sau họ những người khác được tiếp tục sống trong tự do và hoà bình, chết cho nhân loại sống còn và thức tỉnh”.
Không có may mắn đi hết cuộc chiến tranh, không được tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, nhưng trong những thời khắc máu lửa, trong những giờ phút đối mặt với cái chết, đối mặt với thử thách khốc liệt ấy, người lính trẻ Nguyễn Quốc Triệu cùng đồng đội Trương Xuân Hương đã vinh dự được kết nạp Đảng tại trận (ngày 25/8/1972). Đó là 2  chiến sĩ tiêu biểu của cả Đại đội quân y, được chọn lựa sau thử thách  một chiến dịch ác liệt.
Lễ kết nạp Đảng tổ chức ngay trong một căn hầm dã chiến ở thôn An Khê, xã Hải Thượng, huyện Hải Lăng, Quảng Trị. Giờ phút thiêng liêng trước Đảng kỳ năm đó mãi in sâu trong tâm trí ông: “Đồng đội ơi, sao đồng đội không về/ Vinh dự thế mà lòng son máu ứa/ Trên nóc hầm vẫn gầm gào đạn nổ/ Ôm súng xông lên sau phút thiêng này”(thơ Lê Cảnh Nhạc).
Về cuộc pháo kích dữ dội khiến ông Nguyễn Quốc Triệu bị thương năm ấy, ông Ngô Thản - nguyên Chủ nhiệm hậu cần Trung đoàn18 chiến đấu ở phía Nam Thành Cổ Quảng Trị và ông Dung- nguyên là chiến sĩ y tá, quê Thái Bình kể lại: Đó là một ngày khốc liệt. Khi C24 vừa được điều động đến địa điểm tập kết thì địch nã pháo dồn dập vào trúng đội hình đại đội quân y. Căn hầm chữ A của ông Triệu và một đồng đội khác bị quả đạn pháo gần kề cắt đứt nóc.
Cả “cái mũ” chữ A bay đi. Ngớt tiếng bom pháo, ông Ngô Thản cùng Đại đội trưởng Phan Ngọc Sơn đi kiểm tra thì thấy ông Triệu bị thương nặng ở ổ bụng,  máu tuôn trào. Đại đội trưởng Phan Ngọc Sơn và y tá Trương Xuân Hương cõng ông Triệu xuống xuồng máy, cho chở ngay ra bệnh viện mặt trận ở Cam Lộ. Xuồng chở ông Triệu đi được nửa chừng thì chết máy.
Tình hình hết sức nguy cấp. Vết thương ở ổ bụng càng ra máu nhiều, nếu không nhanh thì tính mạng khó qua khỏi. Vậy là các chiến sĩ quân y phải bỏ xuồng máy, khiêng ông Triệu và các đồng chí thương binh chạy bộ 3 cây số mới tới bệnh viện mặt trận đặt tại Cùa. Hôm đó may mắn là bệnh viện vừa được tăng cường đội điều trị của  quân y viện 103 từ miền Bắc nên anh Triệu đã được cứu sống...
Đã ba mươi sáu năm trôi qua, trang sử bi tráng của 81 ngày đêm máu lửa ở Thành Cổ Quảng Trị vẫn trào dậy trong kí ức những Cựu chiến binh- Người lính - Sinh viên hào hoa mà trung kiên năm ấy. Hằng năm, cứ đến ngày 6/9 - ngày lớp sinh viên trẻ rời giảng đường đại học vào tuyến lửa, các anh Nguyễn Quốc Triệu, Đinh Thế Huynh, Trịnh Quân Huấn, Trương Xuân Hương, Đỗ Hán, Dương Cao Tường, Nguyễn Văn Khanh, Trần Sỹ Lập, Hoàng Văn Dung ... và nhiều đồng đội cũ lại gặp nhau để ôn lại những kỷ niệm chiến trường, gắng làm điều gì đó cho đồng đội, cho những người đã hy sinh.
Mãi ba mươi lăm năm sau, ông Nguyễn Quốc Triệu mới tìm lại được đại đội trưởng Phan Ngọc Sơn của mình, cũng là người giới thiệu ông vào Đảng, hiện đang công tác ở Hội Chữ thập đỏ Cần Thơ. Ông Bộ trưởng tóc hoa râm khiêm nhường chào Thủ trưởng như đang đứng giữa hàng quân ba mươi lăm năm về trước.
Người đại đội trưởng năm nào nay tóc mây mướt gió, tâm hồn nghệ sĩ, thấp thoáng bóng dáng của tài tử hào hoa, sống chan hòa vào cỏ cây hoa trái của bình dị đời thường. Họ đều trở về từ Thành Cổ Quảng Trị, mỗi người một vị trí khác nhau nhưng cùng có một điểm chung, đó là tuổi tác và thời gian không thể xoá nhòa được dư âm hào sảng của năm tháng chiến trường gắn bó bên nhau, vào sinh ra tử, với tâm hồn trong sáng, vô tư và tình yêu cuộc sống thiết tha của một thời Sinh viên - Chiến sĩ.


Thành cổ Quảng Trị

Người thành cổ Quảng trị


Thành cổ nằm ngay trung tâm thị xã Quảng Trị, cách quốc lộ 1A khoảng 2km về phía đông và cách dòng sông Thạch Hãn khoảng 500m về phía nam.
Ban đầu Thành cổ được đắp bằng đất, đến năm 1827 được vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Thành có hình vuông, chu vi tường thành 2.000m, cao 9,4m, bao quanh có hệ thống hào, có bốn cửa Đông Tây Nam Bắc. Sau này Thành cổ vừa là công trình quân sự, vừa là trụ sở chính của nhà Nguyễn trên đất Quảng Trị (1909-1945). Năm 1972, trải qua 81 ngày đêm Thành cổ như một túi bom của kẻ thù. 81 ngày đêm, từng giờ từng phút trôi đi là biết bao mất mát, biết bao máu xương trộn lẫn với từng nắm đất nơi đây Thành cổ bị san bằng, chỉ còn sót lại một cửa phía đông.
Đến nay, trên những bức tường thành vẫn còn chi chít mảnh bom đạn. Qua một chiếc cầu bắc qua con sông nhỏ dẫn chúng tôi đến cổng thành vào bên trong. Khác với tưởng tượng của tôi, Thành cổ không có một ngôi mộ riêng nào cả. Sừng sững trước mắt tôi là một đài tưởng niệm duy nhất giữa bốn bề cỏ non và cây xanh mơn mởn.
Tượng đài được xây dựng khá cao, hình tròn tượng trưng nấm mồ chung cho những người con đã vĩnh viễn nằm lại nơi đây. Bước lên đài tưởng niệm, du khách có thể nhìn được toàn cảnh Thành cổ. Tượng đài tạo ra một thế lưỡng nghi, trên là phần dương, dưới là phần âm. Phần dương có một lỗ thông từ dương xuống âm và hai nửa vầng trăng khuyết. Nó như diễn tả triết lý kinh Dịch: Trong âm có dương và trong dương có âm.
Phía bên dưới là phần âm, bên trong phần âm có đặt hành trang người lính (mũ và balô). Phần dương hướng lên trời với một cây Thiên mệnh. Nó có ý nghĩa đưa linh hồn các chiến sĩ đến sự siêu thoát trên thiên đường. Cây thiên mệnh đó xuyên qua ba áng mây tượng trưng cho: thiên, địa, nhân.
Phía trên cây thiên mệnh có một ngọn nến, tượng trưng cho ánh hào quang tỏa sáng nơi nơi. Và cũng là để nhắc nhở thế hệ sau luôn nhớ đến công lao trời biển của cha ông mình. Dưới tầng mây cuối cùng có hình tượng trưng cho ba bát cơm cúng người đã khuất. Điều đặc biệt là ngoài vòng tròn có gắn 81 tờ lịch, thể hiện 81 ngày đêm chiến đấu ác liệt giữ Thành cổ của quân giải phóng.
Từng đoàn người bước lên dâng hương, hoa tưởng niệm. Khúc mặc niệm vang lên là lúc thiêng liêng nhất, không ai cầm nổi nước mắt.
Khi cô hướng dẫn viên đưa chúng tôi đến Bảo tàng Thành cổ, tôi không khỏi xúc động trước những di vật còn lại nơi đây. Là thế hệ trẻ, chưa một lần biết đến khói lửa chiến trường. Nơi đây còn minh chứng cho quá khứ hào hùng của dân tộc.
Những lá thư nặng lòng của người con gửi về quê mẹ, tinh thần lạc quan của các chiến sĩ trẻ với những nụ cười ngời lên trong bom đạn... Những dòng nhật ký của liệt sĩ Nguyễn Kỳ Sơn viết trước lúc hi sinh khoảng một tuần: "19-8-1972: Ngày mai tôi giáp trận. Ác liệt, đấy là một điều tất nhiên của chiến trận. Rất có thể rồi đây tôi sẽ ngã xuống.
Không can gì, đấu tranh là phải đổ máu. Có máu mới có màu đỏ, có chiến thắng. Không sợ chết, không sợ hi sinh, gian khổ. Cái chủ yếu là phải sống. Cuộc sống đẹp nhất là sống trong chiến trận. Cuộc đời đẹp nhất là cuộc đời được tôi rèn". Thiết nghĩ trong thời bình hôm nay, đó vẫn là lý tưởng sống mà tuổi trẻ hôm nay nên noi theo: "Cuộc đời đẹp nhất là cuộc đời được tôi rèn".
Nhìn làn khói hương nghi ngút lan tỏa ở đài tưởng niệm, tôi chợt nhớ đến những câu thơ của cựu chiến binh Lê Bá Dương, khi ông trở lại chiến trường xưa rải những bông hoa trắng xuống dòng Thạch Hãn:

"Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Những tuổi đôi mươi thành sóng nước
Giữ yên bờ bãi mãi ngàn năm...". 

ĐỔ HUYỀN ANH
(K9 ĐH Văn hóa Hà Nội)/ www.tuoitre.com.vn


Thành cổ Quảng Trị

Người thành cổ Quảng trị
Vị trí

Thành Cổ Quảng Trị nằm ngay ở trung tâm thị xã Quảng Trị, cách quốc lộ 1A khoảng 2km về phía Đông, cách bờ sông Thạch Hãn 500m về phía Nam.

Đây vừa là công trình thành luỹ quân sự, vừa là trụ sở hành chính của nhà Nguyễn trên đất Quảng Trị từ năm 1809 đến năm 1945. Theo các nguồn tài liệu thì vào đầu thời Gia Long, thành được xây dựng tại phường Tiền Kiên (Triệu Thành - Triệu Phong), đến năm 1809, vua Gia Long cho dời đến xã Thạch Hãn (nay là phường 2 thị xã Quảng Trị).

Kiến trúc

Lúc đầu, thành được đắp bằng đất, đến năm 1827, vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Khuôn viên Thành Cổ Quảng Trị có dạng hình vuông với chu vi tường thành là 481 trượng 6 thước (gần 2000m), cao 1 trượng 94m), dưới chân dày 3 trượng (12m). Bên ngoài thành có hệ thống hào rộng bao quanh. Bốn góc thành là 4 pháo, đài cao, nhô hẳn ra ngoài. Các cửa: Tiền, Hậu, Tả, Hữu xây vòm cuốn, rộng 3,4m, phía trên có vọng lâu, mái cong, lợp ngói, cả 4 cửa đều nằm chính giữa 4 mặt thành.
Nội thành có các công trình kiến trúc như Hành cung, cột cờ, dinh Tuần Vũ, dinh án Sát, dinh Lãnh Binh, Ty Phiên, Ty Niết, kho thóc, nhà kiểm học, trại lính … Trong đó, Hành cung được xem là công trình nổi bật nhất: bao bọc xung quanh là hệ thống tường dày, chu vi 400m, có hai cửa. Hành cung là một ngôi nhà rường, kết cấu 3 gian, 2 chái, mái lợp ngói liệt, trên có trang trí các hoạ tiết: rồng, mây, hoa, lá… Đây là nơi để vua ngự và thăng quan cho các quan cấp tỉnh ở Quảng Trị hay tổ chức các lễ tiết trong năm.

Lịch sử

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp đặt chính quyền bảo hộ thì Thành Cổ lại có thêm nhà lao, toà mật thám, trại lính khố xanh, cơ quan thuế đoạn... Từ năm 1929 đến năm 1972, nhà lao Quảng Trị là nơi giam cầm các chiến sĩ cộng sản và những người yêu nước và chính nơi đây đã trở thành trường học chính trị, để rèn luyện ý chí son sắt, đấu tranh trực diện với kẻ thù của những người yêu nước.
Thành Cổ Quảng Trị còn được thế giới biết đến và kính phục bởi cuộc đấu tranh anh dũng để bảo vệ Thành Cổ suốt 81 ngày đêm của các chiến sĩ giải phóng quân và nhân dân Quảng Trị
Hai phần ba tỉnh Quảng Trị được hoàn toàn giải phóng vào đầu năm 1972 là sự quyết định thắng lợi tại bàn Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Vì vậy, để làm thay đổi hội nghị, Mỹ - ngụy đã âm mưu huy động tối đa lực lượng và phương tiện nhằm tái chiếm thị xã Quảng Trị mà trong đó mục tiêu đánh phá hàng đầu là Thành Cổ.
Tại thị xã nhỏ bé chưa đầy 2Km2 này, địch đã tập trung vào đây mỗi ngày 150 - 170 lần máy bay phản lực, 70 - 90 lần máy bay B52, 12 - 16 tàu khu trục, tuần dương hạm, 2 sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến, 1 liên đoàn biệt động, 4 trung đoàn thiết giáp (với 320 xe tăng, xe bọc thép) và hàng chục tiểu đoàn pháo cỡ lớn...
Chỉ trong vòng 81 ngày, Mỹ- ngụy đã ném xuống đây gần 330.000 tấn bom đạn, tương đương sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Nhật Bản năm 1945. Riêng ngày 25/7, chúng xả vào Thành Cổ hơn 5000 quả đại bác.
Trước cuộc tấn công cực kỳ dã man đó, quân và dân ta dù số lượng không đông (các đơn vị của sư 320, 308, 325 là chủ yếu) song với ý chí quyết tâm cao độ, tinh thần chiến đấu kiên cường đã đánh địch bật ra khỏi Thành Cổ và cả thị xã mà có khi "mỗi mét vuông đất là cả một mét máu".
Chiến công ở Thành Cổ Quảng Trị đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam những trang hào hùng. Thành Cổ là nơi hi sinh cao quý của biết bao chiến sĩ giải phóng quân và nhân dân Quảng Trị anh hùng.
Thành Cổ Quảng Trị được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng di tích Quốc gia theo quyết định số 235/VH - QĐ ngày 12/12/1986. Năm 1994, Thành Cổ Quảng Trị lại được xếp vào danh mục những di tích Quốc gia đặc biệt quan trọng.
Do phải gánh chịu một khối lượng bom đạn khổng lồ trong chiến tranh nên từ sau hoà bình lập lại, Thành Cổ chỉ còn dấu vết của một số đoạn thành, lao xá, cổng tiền, hậu...
Từ năm 1993 - 1995, hệ thống hào, cầu, cống, một số đoạt thành, cổng tiền đã được tu sửa, hàng nghìn cây dừa đã mọc lên phía trong thành. Đặc biệt một đài tưởng niệm lớn đã được xây dựng ở chính giữa Thành Cổ. Đài tưởng niệm được đắp nổi bằng đất có hình một nấm mồ chung, bốn phía gia cố xi măng tạo thành hình bốn cửa của Thành Cổ, phía trên là nơi để mọi người thắp hương tưởng niệm.
Hiện nay Thành Cổ được Nhà nước đầu tư để tôn tạo các khu vực:
- Khu ghi dấu ấn về cuộc chiến đấu 81 ngày đêm ở góc Đông Nam, tái toạ lại chiến trường năm 1972 với hầm hào, công sự, hố bom… Tại đây sẽ đặt 81 khối đá tự nhiên tạc văn bia mô tả cuộc chiến đấu phi thường của quân và dân ta.
- Khu phục dựng Thành Cổ nguyên sinh: ở phía Đông bắc, thu nhỏ kiến trúc các công trình cổ, trồng một rừng mai vàng để gợi biểu tượng non Mai sông Hãn.
- Khu công viên văn hoá: ngoài tượng đài và nhà trưng bày bổ sung hai tầng, tại phía tây và tây nam này xây dựng một công viên có nhiều lối đi, ghế đá, cây cảnh, hồ nước, sân chơi,...
Thành Cổ Quảng Trị là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống yêu nước và là điểm thu hút hấp dẫn khách tham quan trong nước và bè bạn quốc tế

Theo www.dostquangtri.gov.vn

Thứ Hai, 28 tháng 12, 2009

BÍ MẬT CỦA MỘT CHIẾN DỊCH PHẢN GIÁN BẮT TRỌN 126 GIÁN ĐIỆP MỸ VÀO NĂM 1983 (VII)

Người thành cổ Quảng trị

Lợi dụng Lê Quốc Túy đã cho người móc nối liên lạc với Hồ Tấn Khoa, người của ta đóng vai liên lạc của Túy và đã thực hiện thành công việc “móc nối” với Hồ Tấn Khoa. Chính vì vậy, Hồ Tấn Khoa đã bộc lộ lực lượng bí mật mà ông ta cho tổ chức thành lập để chống phá cách mạng.

Cuối tháng 12/1981, Bộ trưởng Phạm Hùng gọi Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm từ miền Nam ra Hà Nội để họp về Kế hoạch CM-12 trong hai ngày 29 và 30. Cùng dự cuộc họp quan trọng này có đồng chí Thứ trưởng Trần Đông, phụ trách công tác an ninh.

Tại cuộc họp, Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm báo cáo tình hình diễn tiến của Kế hoạch CM-12 gồm các vấn đề đối phó với hoạt động xâm nhập mới của địch, hoạt động của các tổ chức địch trong nội địa có liên quan đến tổ chức của Lê Quốc Túy – Mai Văn Hạnh, và dự kiến một số tình hình tiếp theo. Thứ trưởng Trần Đông nêu một số ý kiến về chủ trương đối phó với địch, nhất là đối với hai tên đầu sỏ này.

Đặc biệt, các đồng chí lãnh đạo Bộ Nội vụ rất chú trọng đến việc bóc gỡ các tổ chức phản cách mạng ở trong nước. Về chủ trương này, Bộ trưởng Phạm Hùng nhắc lại ý mà ông đã báo cáo với Bộ Chính trị và được Bộ Chính trị nhất trí.

Bộ Chính trị nhận định rằng, các thế lực đế quốc và phản động quốc tế câu kết với nhau chặt chẽ và có ý đồ chống phá cách mạng nước ta. Tuy nhiên, họ cũng thấy “lấy lại” Việt Nam là khó nên cố tình gây rối loạn, xáo động ở Đông Dương, âm mưu lâu dài của họ vẫn là tổ chức bạo loạn, lật đổ bằng hoạt động gián điệp biệt kích và kết hợp với bọn phản động ở trong nước. Đây là cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch đối với cách mạng Việt Nam thời bấy giờ.

Bộ trưởng Phạm Hùng nhấn mạnh: "Muốn giải quyết tốt Kế hoạch, trước hết phải đánh giá tình hình cho đúng rồi mới quyết định. Phải quan sát các đầu mối khác, giải quyết các ẩn số đặt ra và phải làm sao cho “nó” thấy là chưa đến lúc mở chiến dịch hoạt động. Tiếp tục đấu tranh có hiệu quả chống địch xâm nhập, chống địch phá hoại kinh tế. Đặc biệt phải sử dụng CM-12 với tần suất tối đa nhằm biết được âm mưu, tổ chức, chủ trương hoạt động cụ thể của địch. Phải “cắt” cho được những tổ chức có dính líu đến CM-12. “Nó” muốn làm cho ta rối thì ta cũng phải cho “nó” thấy là không phải dễ...

Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ, Tổ An ninh phối hợp với công an các tỉnh tổ chức đấu tranh bóc gỡ bọn phản động ở trong nội địa có liên quan đến Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh. Sau khi bắt Lê Quốc Quân, ta phá án TQ-42 một cách có hiệu quả. Đóng góp rất lớn vào kế hoạch này là Công an TP HCM.

Nắm được kế hoạch của địch, ta chủ động phá tổ chức phản động “Mặt trận quốc gia Việt Nam” do Lê Quốc Quân cầm đầu (Chuyên án TQ42). Thông qua Huỳnh Vĩnh Sanh, tác động y báo cáo với trung tâm địch ở nước ngoài để chúng tự thấy do tổ chức của Quân bị phá vỡ nên không thể tiến hành sử dụng “hàng đặc biệt” cũng như kế hoạch đã định.

Kết quả là Sanh đã nhân danh “Chủ tịch quốc nội” yêu cầu và trung tâm địch đã chính thức ra lệnh tạm hoãn việc sử dụng “hàng đặc biệt”, tạm hoãn việc phá hoại vào cuối năm 1982. Huỳnh Vĩnh Sanh đã ra lệnh cho bọn bên dưới “án binh bất động” để bảo toàn lực lượng. Vì vậy ta chủ động ngăn chặn các hoạt động phá hoại của địch, bảo vệ được an ninh chính trị ở TP HCM và các tỉnh miền Nam.

* * *

Trong số các chuyên án ở trong nước có liên quan đến CM-12 có hai chuyên án lớn mang bí số TK-90 và H-82. Chuyên án TK-90 đấu tranh với bọn phản động lợi dụng đạo Cao Đài mà chúng có tổ chức cái gọi là “Thiên khai huỳnh đạo”. Còn Chuyên án H-82 chính là tổ chức trong nội địa do Huỳnh Vĩnh Sanh cầm đầu.

Trong các đầu mối của Lê Quốc Túy xây dựng ở trong nước, Hồ Tấn Khoa, Bảo đạo Cao đài Tây Ninh có vai trò rất quan trọng. Hồ Tấn Khoa, sinh năm 1898, quê quán ở xã Bình Lập, huyện Châu Thành, tỉnh Long An. Khoa được thực dân Pháp tin dùng và cho làm nhiều chức tước.

Năm 1939 được thăng phẩm Đốc phủ sứ, một chức ngang với tỉnh trưởng sau này. Năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, đưa Hồ Tấn Khoa làm tỉnh trưởng Châu Đốc. Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Tấn Khoa vẫn được cách mạng sử dụng và bố trí làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến sau đó là Chủ tịch Ủy ban hành chánh tại Châu Đốc.

Đến ngày kháng chiến bùng nổ, Hồ Tấn Khoa không tham gia mà lên Sài Gòn, chạy vào Tòa thánh Cao Đài ở Tây Ninh và gia nhập đạo này. Đến năm 1954 y được phong chức Bảo đạo, vì vậy thường được gọi là Hồ Bảo đạo.

Năm 1956 Bảo Thế bị anh em Diệm - Nhu đàn áp, Hồ Tấn Khoa theo Hộ pháp Phạm Công Tắc sang Phnôm Pênh sống lưu vong ở đó với tư cách là “tị nạn chính trị”. Sau khi Phạm Công Tắc chết, Hồ Tấn Khoa thay Phạm Công Tắc điều hành Hội thánh Cao Đài ở Campuchia.

Năm 1961, Quốc trưởng Campuchia Norodom Sihanouk tổ chức một hội nghị quốc tế hòa bình ở Đông Dương. Lê Quốc Túy được Trần Văn Hữu cử làm đại diện về tìm gặp Hồ Tấn Khoa để bàn việc tổ chức tiếp đón nhóm Trần Văn Hữu và nâng uy tín của Trần Văn Hữu tại hội nghị này.

Sau hội nghị, Trần Văn Hữu về Pháp, còn Lê Quốc Túy ở lại Phnôm Pênh khoảng một tháng và thường xuyên đến gặp Hồ Tấn Khoa. Trước khi Lê Quốc Túy về Pháp thì Túy và Hồ Tấn Khoa có hứa hẹn với nhau là sau này sẽ cùng nhau hoạt động nếu có cơ hội. Sau đó, thỉnh thoảng Lê Quốc Túy gửi bưu thiếp cho Hồ Tấn Khoa để duy trì liên lạc.

Năm 1970, Lon Nol được Mỹ hậu thuẫn tổ chức cuộc đảo chính Norodom Sihanouk. Việt kiều ở Campuchia bị tàn sát đẫm máu. Hồ Tấn Khoa được Mỹ dàn xếp với Nguyễn Văn Thiệu cho về Sài Gòn.

Khi Hồ Tấn Khoa về Sài Gòn buổi chiều thì sáng hôm sau một viên chức hàng đầu của Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn đã đến “thăm” ông ta. Sau này, Hồ Tấn Khoa khai rằng, người Mỹ đó có nói với ông ta y là bạn của Lê Quốc Túy.

Trong bối cảnh chính quyền Sài Gòn sắp sụp đổ hoàn toàn, ngày 27/4/1975, tại nhà Đỗ Cao Minh, Đại tá quân đội Sài Gòn, con rể của Hồ Tấn Khoa đã diễn ra một cuộc gặp được dàn xếp từ trước. Viên Bí thư thứ nhất Sứ quán Mỹ và Lê Quốc Túy đến gặp Hồ Tấn Khoa. Túy và người Mỹ nọ hỏi Hồ Tấn Khoa có muốn xuất ngoại không thì sẽ thu xếp cho đi. Nhưng Hồ Tấn Khoa nói y đã già rồi nên ở lại.

Túy đề nghị Hồ Tấn Khoa ở lại trong nước tổ chức lực lượng Cao Đài phá hoại chính quyền cách mạng. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, mặc dù được chính quyền cách mạng tôn trọng, nhưng Hồ Tấn Khoa vẫn tiếp tục thực hiện ý đồ chống phá cách mạng.

Y đã chỉ đạo cho tay chân các tổ chức phản động có liên quan đến đạo Cao Đài như Truyền trạng Võ Văn Nhơn và Hồ Vũ Khanh lập “Hội đồng hòa giải quốc tế”, còn Chí Mỹ với Bạch Hùng lập tổ chức “Thiên khai Huỳnh đạo”...

Lãnh đạo Bộ Nội vụ và Tổ An ninh K4/2 giao cho đồng chí Hồ Khiết tổ chức thực hiện kế hoạch đấu tranh với mảng Hồ Tấn Khoa. Đồng chí Hồ Khiết có công lớn trong việc phối hợp với Công an Tây Ninh tổ chức thực hiện kế hoạch do lãnh đạo Bộ Nội vụ giao. Đồng chí Hồ Khiết, nguyên Cục trưởng Cục Bảo vệ chính trị 1, là một cán bộ an ninh lão thành, được đào tạo kỹ về công tác phản gián và là người có không ít kinh nghiệm trong công tác an ninh.

Lợi dụng Lê Quốc Túy đã cho người móc nối liên lạc với Hồ Tấn Khoa, người của ta đóng vai liên lạc của Túy và đã thực hiện thành công việc “móc nối” với Hồ Tấn Khoa. Chính vì vậy, Hồ Tấn Khoa đã bộc lộ lực lượng bí mật mà ông ta cho tổ chức thành lập để chống phá cách mạng.

Đặc biệt, Hồ Tấn Khoa đã giới thiệu hai tổ chức vũ trang nòng cốt của lực lượng phản động lợi dụng đạo Cao Đài để yêu cầu Lê Quốc Túy cung cấp vũ khí, phương tiện hoạt động. Đó là tổ chức “Thiên khai Huỳnh đạo” do tên Bạch Hùng cầm đầu, lập căn cứ trên núi Bà Đen và xây dựng lực lượng vũ trang bí mật ở nhiều tỉnh Nam Bộ có tín đồ Cao Đài.

Một tổ chức khác là “Hội đồng hòa giải quốc tế” để hỗ trợ cho hoạt động của “Thiên khai Huỳnh đạo” do Truyền trạng Võ Văn Nhơn và Hồ Vũ Khanh lập ra. Sau khi bắt được liên lạc với Lê Quốc Túy, Hồ Tấn Khoa cùng đồng bọn có âm mưu gây bạo loạn và lật đổ chính quyền cách mạng vào tết Quý Hợi - 1983. Và dần dần qua các lần gặp gỡ của “đặc phái viên”, ta đã nắm được hệ thống tổ chức và lực lượng vũ trang ngầm của chúng ở 11 tỉnh Nam Bộ. Âm mưu của chúng khi được trang bị vũ khí đầy đủ sẽ đứng lên cướp chính quyền.

Để thực hiện quyết định trên, ngày 17/11/1982, đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm và đồng chí Lê Tiền lên Tây Ninh họp với lãnh đạo Tỉnh ủy và Công an Tây Ninh bàn kế hoạch đấu tranh với bọn phản động lợi dụng đạo Cao Đài.

Dự họp có đồng chí Hai Bình, Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Ngô Quang Nghĩa, Giám đốc Công an tỉnh. Sau khi nhận định, đánh giá tình hình, các đồng chí đã đề ra kế hoạch phá án đối với các tổ chức phản động lợi dụng đạo Cao Đài. Kế hoạch này cũng được tính toán rất kỹ, không để lộ bí mật và ảnh hưởng tới Kế hoạch CM-12.

Thực hiện kế hoạch tấn công hai bước, trong thời gian đầu năm 1983, ta tổ chức phá các vụ án đấu tranh với bọn phản cách mạng lợi dụng đạo Cao Đài. Kết quả thực hiện bước 1: ta đã bắt 714 tên và gần 100 tên tự thú, đầu thú. Qua phân loại có 41 tên cấp trung ương, 122 tên cấp tỉnh, 171 tên cấp huyện, số còn lại là tay sai cốt cán. Bước 2 được thực hiện trong 7 địa phương (Tây Ninh, An Giang, Tiền Giang, Hậu Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Minh Hải).

Phát huy thắng lợi về việc phá tổ chức phản động lợi dụng đạo Cao Đài Tây Ninh và theo kinh nghiệm dùng kết quả của việc phá TQ42, ta đã tác động “Tổng hành dinh” có hiệu quả. Lần này Ban chỉ đạo Kế hoạch CM-12 quyết định dùng việc phá tổ chức phản động lợi dụng đạo Cao Đài Tây Ninh để tác động đẩy lùi ý đồ hành động của bọn Túy – Hạnh, trong đó có việc làm cho chúng từ bỏ ý định đưa quân về bằng đường bộ.

* * *

Trong các mạng lưới nội địa của bọn Túy - Hạnh, Huỳnh Vĩnh Sanh đóng vai trò rất quan trọng. Huỳnh Vĩnh Sanh, nguyên là đại úy quan thuế thời ngụy, bạn thân của Mai Văn Hạnh. Từ trước và sau ngày 30/4/1975, Sanh đã gặp Mai Văn Hạnh và Lê Quốc Túy bàn bạc kế hoạch phối hợp hành động chống phá cách mạng.

Sau giải phóng, Sanh được bọn địch bố trí ở lại miền Nam hoạt động. Y bí mật móc nối, tập hợp lực lượng trong giới trí thức, công chức cũ, ngụy quân ngụy quyền lập tổ chức để chống phá cách mạng. Nhưng bề ngoài y lại khéo léo che đậy nên được cử làm tổ trưởng dân phố.

Thực hiện chỉ đạo của Túy, Hạnh, Huỳnh Vĩnh Sanh còn nhằm vào số cán bộ chính quyền, trí thức đang nắm giữ các chức vụ để móc nối, âm mưu xây dựng tổ chức của Sanh thành chỗ dựa chủ yếu về chính trị khi bọn Túy, Hạnh cướp được chính quyền. Qua công tác điều tra, ta còn phát hiện Sanh đang cầm đầu một tổ chức phản cách mạng tại TP HCM và có quan hệ chặt chẽ với bọn phản cách mạng ở miền Trung.

Vì vậy, ta đã xác lập chuyên án H82 trong Kế hoạch CM-12. Trong các chuyến bí mật về nước (tháng 4 và 6/1982), Mai Văn Hạnh và Lê Quốc Túy đều gọi Huỳnh Vĩnh Sanh xuống Minh Hải bàn bạc kế hoạch hoạt động, đồng thời giao cho y chuẩn bị nhân sự “Chính phủ lâm thời” khi lật đổ chính quyền cách mạng, lập chế độ mới của chúng.

Tháng 7/1982, sau khi xác định được tính chất, vị trí quan trọng của Huỳnh Vĩnh Sanh và tổ chức của y trong kế hoạch CM-12, lãnh đạo Bộ Nội vụ chủ trương: Thông qua Huỳnh Vĩnh Sanh để tìm hiểu và làm rõ hơn âm mưu ý đồ của địch ở trong nước, tiếp tục phát hiện các đầu mối lẻ và các lực lượng của Huỳnh Vĩnh Sanh trong nội địa, khống chế, tác động không cho chúng hoạt động phá hoại và phát triển lực lượng vũ trang.

Thực hiện chủ trương của Bộ, ban chuyên án vạch kế hoạch đấu tranh cụ thể và huy động một số cán bộ của Công an TP HCM như các đồng chí Hai Sơn, Trương Hòa Bình (hiện là UVT.Ư Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an), Nguyễn Chí Dũng (hiện là Thiếu tướng, Giám đốc Công an TPHCM), Nguyễn Chí Thành, Lê Thanh Bình (hiện đều là Đại tá, Phó Giám đốc Công an TP HCM)... tham gia trực tiếp đấu tranh với chuyên án này. Bộ phận đấu tranh Chuyên án PK07 có liên quan trực tiếp tới Huỳnh Vĩnh Sanh ở Phú Khánh và các tỉnh miền Trung cũng được triển khai.

Để chủ động ngăn chặn các hoạt động manh động của địch, Ban chỉ đạo Kế hoạch CM-12 chủ trương phá toàn bộ bộ Chuyên án PK07 ngay sau khi phá toàn bộ Chuyên án D781 tại Đồng Nai. Thực hiện kế hoạch phá án, ngày 20/5/1983, ta đồng loạt bắt 8 tên trong cánh của Nguyễn Chuyên ở địa bàn Phú Khánh và các đối tượng ở Nghĩa Bình, Bình Trị Thiên, Quảng Nam - Đà Nẵng.

Ta khéo léo làm cho chúng hiểu rằng nguyên nhân “đổ bể” là do đồng bọn của chúng khai báo dây chuyền từ Đồng Nai đến TP HCM ra các tỉnh miền Trung. Sau này, thông qua Kế hoạch CM-12, ta đã bóc gỡ và vô hiệu hóa 10 tổ chức phản cách mạng trong nước có liên quan đến tổ chức của Lê Quốc Túy – Mai Văn Hạnh ở miền Nam. Làm thất bại âm mưu lớn của thế lực thù địch sử dụng bọn phản động lưu vong, bọn phản động trong nội địa, với ý đồ ngoài đánh vào, trong nổi dậy.

Với kết quả đấu tranh một cách có hiệu quả đối với các mảng nội địa của địch, ta đã ngăn chặn được ý đồ chuyển giai đoạn của địch, đồng thời vẫn giữ được Kế hoạch CM-12 theo chủ trương chiến lược đã đề ra.

Thứ Năm, 24 tháng 12, 2009

MỪNG CHÚA GIÁNG SINH

Người thành cổ Quảng trị
16 h này 24 tháng 12 theo lời mời của LM Lê quang Quý,Hạt trưởng Hạt Quảng trị thay mặt lãnh đạo dơn vị tôi đến nhà thờ Trí bưu thuộc Địa sở Trí bưu dự Lễ Giáng sinh 2009,xin ghi lại một số hình ảnh tại buổi Lễ:

Cùng với LM Lê quang Quý


Dự tiệc




TRƯỚC NHÀ THỜ TRÍ BƯU

Thứ Hai, 21 tháng 12, 2009

BÍ MẬT CỦA MỘT CHIẾN DỊCH PHẢN GIÁN BẮT TRỌN 126 GIÁN ĐIỆP MỸ VÀO NĂM 1983 (Hết)

 

Người thành cổ Quảng trị

TT

Tàu địch xuất hiện. Đồng chí Tám Thậm xuống đón Mai Văn Hạnh và đưa vào đất liền theo kế hoạch. Sau đó, người của ta trong “Tổ đặc biệt” dụ Trần Văn Bá và tên điện báo viên của địch lên đảo, rồi quật ngã hai tên, nhét khăn vào miệng chúng nên việc bắt giữ diễn ra êm ru.



Gần như hàng tuần, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Nội vụ Phạm Hùng báo cáo những diễn biến quan trọng của Kế hoạch CM-12 với Bộ Chính trị. Các đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ đánh giá cao kết quả và vai trò của Kế hoạch CM-12 trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia của ta.


Thực hiện chủ trương của Bộ, cho đến tháng cuối năm 1983, Lực lượng An ninh đã tiến hành Kế hoạch CM-12 rất sáng tạo và đầy bản lĩnh, buộc kẻ địch xâm nhập theo kế hoạch của ta với 15 chuyến bằng đường biển với 30 lượt tàu vào vùng biển Cà Mau. Do đó, ta đã bắt toàn bộ 126 tên gián điệp, biệt kích từ nước ngoài về, thu 132 tấn 278 kg vũ khí, 299.750.000 đồng tiền giả...






Bọngiánđiệbiệt kích bị xét xử trước tòa án, tháng 12/1984.


Cũng thông qua Kế hoạch CM-12, ta đã buộc địch phải bộc lộ 10 tổ chức phản cách mạng và một số đầu mối của địch trong nội địa. Từ đó, Lực lượng Công an nhân dân chủ động tiến hành đấu tranh và đấu tranh có hiệu quả với các lực lượng thù địch, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân.


Trước tình hình địch tăng cường hoạt động, chuẩn bị chuyển sang giai đoạn 3 là tiến hành phá hoại và dùng lực lượng vũ trang cướp chính quyền ở các vùng hẻo lánh, Bộ trưởng Phạm Hùng báo cáo Bộ Chính trị về chủ trương kết thúc Kế hoạch CM-12. Bộ Chính trị rất phấn khởi và đánh giá đây là một vụ án rất lớn, thắng lợi của ta cũng rất lớn và đồng ý với chủ trương kết thúc Kế hoạch CM-12 của Bộ Nội vụ.


Theo chỉ đạo của Bộ trưởng Phạm Hùng trong cuộc họp ngày 12 và 13/3/1984,kế hoạch kết thúc CM-12 được vạch ra. Bộ Nội vụ chủ trương: Khôn khéo dụ Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh từ nước ngoài về nước, bắt gọn cả người, tàu xâm nhập, vũ khí, điện đài và đưa toàn bộ bọn gián điệp xâm nhập từ năm 1981 đến nay ra xét xử công khai. Nếu cả Túy và Hạnh chưa vào thì ta chưa kết thúc kế hoạch này. Nhưng nếu tình hình không hoàn toàn theo đúng kế hoạch của ta thì cũng cần phải bắt cho được một trong hai tên đầu sỏ.


Đồng thời, phá toàn bộ lực lượng ngầm của chúng đã cài lại trong nội địa. Phối hợp với các cơ quan truyền thông vạch trần âm mưu của các thế lực thù địch trước dư luận quốc tế, đập lại những luận điệu chiến tranh tâm lý xuyên tạc chế độ xã hội ta, nâng cao uy tín chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế.


* * *


Bước vào năm 1984, tình hình và diễn biến quốc tế cũng như âm mưu và hoạt động của Lê Quốc Túy - Mai Văn Hạnh đã chuyển biến theo đúng ý đồ và kế hoạch của ta. Nhưng lúc đầu, chúng chỉ dự định có một mình Mai Văn Hạnh vào.


Để buộc địch thực hiện theo kế hoạch, ta  khéo léo tác động để Túy cùng vào với Hạnh. Tuy thông báo là Túy có thể cùng vào với Hạnh, nhưng đến ngày 9/5/1984, Trung tâm chỉ huy của địch có thông báo là chuyến xâm nhập mới hoãn lại và sau đó chỉ có C5 (Mai Văn Hạnh) vào vì Túy “bị bệnh bất ngờ nên C5 phải trở về Pháp sắp xếp công việc của C4”.


Qua các nguồn tin ta được biết đúng là Lê Quốc Túy bị bệnh thận nặng, phải dùng máy lọc máu thận. Ban chỉ đạo quyết định vẫn thực hiện kế hoạch theo phương án 2, nghĩa là một tên đầu sỏ vào ta cũng kết thúc chiến dịch.


Trong thời gian này, chuyến xâm nhập lần thứ 16 của địch gồm hai tàu chở gần 6 tấn vũ khí vào hòn Đá Bạc, ta “tiếp nhận” an toàn.


* * *


Cuối tháng 8/1984, Lê Quốc Túy thông báo cho cơ sở trong “quốc nội” biết là trong thời gian khoảng đầu tháng 9 thì Mai Văn Hạnh sẽ vào và “không thay đổi” kế hoạch nữa.


Ban chỉ đạo chiến dịch kết thúc Kế hoạch CM-12 phân công đồng chí Bùi Thiện Ngộ, lúc này là đặc phái viên của Bộ trưởng, đồng chí Lê Minh Học và đồng chí Nguyễn Phước Tân xuống Minh Hải trực tiếp chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến dịch. Có thể gọi đây Ban chỉ huy tiền phương của chiến dịch kết thúc Kế hoạch CM-12.


Tại TP HCM, đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm và đồng chí Lê Tiền thường xuyên liên lạc với  đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng ở Hà Nội và Ban chỉ huy tiền phương ở Minh Hải qua hệ thống thông tin liên lạc đặc biệt của chiến dịch.


Ngày 1/9/1984, Lê Quốc Túy cho "Tổ đặc biệt" biết là sẽ vào Việt Nam khoảng tối ngày 7 hoặc 8/9. Theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Phước Tân, ban lãnh đạo Kế hoạch CM-12 quyết định ép địch phải vào đêm 9/9/1984 vì cách đó ba năm chuyến “hàng” đầu tiên của địch thực hiện theo kế hoạch của ta vào đêm 9/9/1981.


Sáng 8/9/1984, các đồng chí trong Ban chỉ huy tiền phương từ “mật cứ” của “Tổ đặc biệt” ở ngoại ô thị xã Bạc Liêu đi xuống Công an huyện Trần Văn Thời đóng ở  Rạch Ráng.


Còn một bộ phận của Tổ An ninh, trong đó có đồng chí Nguyễn Khánh Toàn, Trần Tôn Thất, Nguyễn Đông Phương, Phan Trung Tiến và một tổ trinh sát vũ trang của đại đội đặc biệt do đồng chí Hữu Ân chỉ huy triển khai kế hoạch đón bắt Mai Văn Hạnh tại ngã ba Tân Thành.


Yêu cầu rất cao của kế hoạch là tuyệt đối bảo đảm tính mạng lực lượng của ta. Đây là một trận đánh kiểu an ninh. Các đồng chí lãnh đạo Kế hoạch CM-12 cho rằng những tên gián điệp biệt kích cũng là con em của nhân dân, chẳng may bị lôi kéo làm tay sai cho bọn đầu sỏ gián điệp. Do vậy tinh thần chỉ đạo là hạn chế tối đa thương vong kể cả số gián điệp biệt kích xâm nhập. Trong trường hợp bất khả kháng mới tiêu diệt chúng.


Chiều 9/9/1984, các đồng chí trong Ban chỉ huy tiền phương ra hòn Đá Bạc. Biển tương đối êm. Gió nhè nhẹ thổi. Những đợt sóng duềnh lên như đón chào các chiến sĩ an ninh vào trận. Trời mùa thu trong xanh và thỉnh thoảng có những đám mây trắng xốp hiện ra rồi tan đi...


Khoảng 18h, bỗng gió lớn nổi lên. Trời vần vũ. Những đám mây đen kịt ập xuống. Sóng biển dồn dập. Hai chiếc tàu của ta neo sẵn bị sóng biển dồi lên dồi xuống, chao đảo. Trong cái chòi lá mà đại đội đặc biệt dựng trên lưng chừng đảo gió rít ào ào. Các đồng chí trong Ban chỉ huy tiền phương lo lắng.


Nhưng độ hơn một tiếng đồng hồ sau, trời trở lại bình thường. Gió lặng. Biển êm. Lực lượng của ta triển khai vào vị trí chiến đấu theo kế hoạch. Các đồng chí Bùi Thiện Ngộ và Lê Minh Học ở trên chòi chỉ huy. Các đồng chí Nguyễn Phước Tân, Thi Văn Tám, Huỳnh My (Chỉ huy trưởng Công an vũ trang Ninh Hải) xuống gần mép bãi đổ. Đại đội Cảnh sát đặc biệt của ta triển khai vào các vị trí và sẵn sàng chiến đấu.


20h kém 15', tàu địch xuất hiện. Hai tàu của ta áp sát hai tàu của chúng. Đồng chí Tám Thậm (Trần Phương Thế) xuống đón Mai Văn Hạnh và đưa lên xuồng máy để đưa vào đất liền theo kế hoạch.


Sau đó, người của ta trong “Tổ đặc biệt” dụ Trần Văn Bá và tên điện báo viên của địch lên đảo. Theo đúng kế hoạch, các đồng chí trong Đại đội Cảnh sát đặc biệt đã quật ngã hai tên Trần Văn Bá và tên điện báo viên, nhét khăn vào miệng chúng nên việc bắt giữ diễn ra êm ru.


Trong lúc đó, những tên gián điệp biệt kích có nhiệm vụ cảnh giới vẫn ôm súng không rời vị trí, mặc dù anh em thủy thủ của ta dụ sang tàu “nhậu lai rai”. Trước tình hình đó, kế hoạch nổ súng đánh phủ đầu để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho kế hoạch được thực hiện.  K64 khai hỏa bằng một loạt đạn AK-47. Quân ta nhất loạt nổ súng áp đảo bọn gián điệp biệt kích. Bọn biệt kích bị bất ngờ không kịp chống cự, đứa bị bắn chết, đứa nhảy xuống biển...


Trận đánh chỉ diễn ra trong vòng 2 phút 7 giây. Bọn gián điệp biệt kích bị ta tiêu diệt tại trận 12 tên, còn 7 tên khác bị bắt sống. Ta thu hai tàu xâm nhập cùng toàn bộ vũ khí, phương tiện của chúng, kết thúc thắng lợi trận đánh quyết định.



Trong khi đó, theo đúng kế hoạch, Công an TP HCM phối hợp với các tỉnh đồng loạt bắt Mai Văn Hạnh và toàn bộ các đối tượng trong Chuyên án H82.


Sau khi ta bắt giữ Mai Văn Hạnh, Trần Văn Bá và bọn gián điệp biệt kích, công tác giam giữ được tiến hành rất khẩn trương và thận trọng. Ta đối xử với bọn gián điệp, biệt kích theo đúng chính sách nhân đạo.
Riêng Mai Văn Hạnh, trong thời gian giam giữ, bệnh đau dạ dày của y tái phát nặng. Ta cho Hạnh vào điều trị tại Bệnh viện 30-4. Các bác sĩ quyết định phẫu thuật để cắt bỏ phần viêm loét quá nặng.


Đây là một quyết định y học nhưng lại có tác động rất mạnh về tư tưởng và chính trị. Nếu không may Mai Văn Hạnh bị chết thì sẽ rất phức tạp. Tuy nhiên, các bác sĩ cho biết là nếu không phẫu thuật thì sẽ nguy hiểm đến tính mạng của y.


Lãnh đạo Bộ đồng ý cho phẫu thuật để cứu sinh mạng của Mai Văn Hạnh. Sau này, các đồng chí trong Tổ An ninh được giao nhiệm vụ giám sát Hạnh kể lại rằng, khi bác sĩ đưa dao cạo râu để cạo lông bụng của y cho sạch trước khi mổ, mặt Hạnh tái đi. Có lẽ y sợ bị chết.


Nhưng ca mổ đã thành công. Sức khỏe của y nhanh chóng hồi phục. Một lần tâm sự với cán bộ ta, Mai Văn Hạnh thành thật nói rằng chính các bác sĩ Công an Việt Nam đã sinh ra y lần thứ hai. Ta còn cho cả hai con gái của Hạnh từ Pháp về thăm. Những điều này cũng góp phần thức tỉnh lương tâm của Mai Văn Hạnh.


Từ ngày 14 đến 18/12/1984, tại TP HCM, Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm vụ án gián điệp Lê Quốc Túy - Mai Văn Hạnh.


Chủ tọa phiên tòa là đồng chí Huỳnh Việt Thắng, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; giữ quyền công tố trước tòa là đồng chí Trần Tề, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.


21 bị cáo, trong đó có Mai Văn Hạnh, Trần Văn Bá, Huỳnh Vĩnh Sanh, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch và nhiều tên khác đã phải ra trước vành móng ngựa. Một số khác được đưa ra làm nhân chứng. Phiên tòa đã gây chấn động dư luận trong nước và quốc tế. Nhân dân tự hào về chiến công to lớn của Lực lượng Công an Việt Nam.


* * *


Về nhiệm vụ tiếp theo, trong Kế hoạch ĐN-10, ta khéo léo tung tin giả là Mai Văn Hạnh mâu thuẫn với Lê Quốc Túy, có âm mưu lật đổ Túy và Năm Quân trong nội địa. Ta đã làm cho Túy tin như vậy, vừa đảm bảo bí mật của Kế hoạch CM-12, vừa duy trì được Kế hoạch ĐN-10.


Lực lượng An ninh lại tiếp tục tiến hành cuộc đấu tranh mới kéo dài suốt ba năm nữa trong Kế hoạch ĐN-10, buộc Lê Quốc Túy phải đưa hết quân đã huấn luyện ở nước ngoài về nước qua Campuchia.


Trong thời kỳ này, đồng chí Bùi Thiện Ngộ, Thứ trưởng Bộ Nội vụ kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh nhân dân cùng đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm tiếp tục chỉ đạo đấu tranh với bọn gián điệp biệt kích Lê Quốc Túy.


Các đồng chí Nguyễn Khánh Toàn, Trần Tôn Thất, Thi Văn Tám và nhiều đồng chí khác đã trực tiếp tổ chức thực hiện các phương án nghiệp vụ câu nhử địch một cách sáng tạo và đã thành công. Ta đã hút hầu hết lực lượng gián điệp biệt kích trong hai khóa huấn luyện “Phù Đổng 1” và “Phù Đổng 2” sau này của Túy ở nước ngoài về.


Công tác đấu tranh trong giai đoạn này không kém phần gian khổ và khó khăn, nhất là trong điều kiện phải di chuyển trên những vùng rừng núi ở Battambang hay ở vùng biển đảo Phú Quốc. Các đơn vị và công an các địa phương tiếp tục phối hợp chặt chẽ trong Kế hoạch ĐN-10.


Đặc biệt, ta đã làm tốt công tác hợp tác quốc tế với Lực lượng An ninh Campuchia, đảm bảo thực hiện tốt Kế hoạch ĐN-10 trong hơn ba năm tiếp theo. Gần cuối năm 1987, ta hốt mẻ lưới cuối cùng, bắt các toán xâm nhập qua Campuchia về Kiên Giang.


Vào hạ tuần tháng 1/1988, Lê Quốc Túy đã chết tại Paris vì bệnh thận. Trước khi chết, Túy ủy quyền cho tên Hiển (tức K36, sau này đổi bí số là F2) xử lý toàn bộ công việc của “mặt trận”.


Ngày 30/1/1988, tên Hiển gửi điện cho các toán của ĐN-10 bức điện khá dài báo tin Lê Quốc Túy đã chết hồi 11h ngày 25/1/1988 và an táng vào ngày 6/2/1988 tại Paris (Pháp). Sau khi lo đám tang cho chồng, Nhan Thị Kim Chi, vợ của Lê Quốc Túy bay tới “Tổng hành dinh” để thu vén và thanh toán số tài sản còn lại của Túy. Tên Hiển đề nghị Nhan Thị Kim Chi thay chồng “lãnh đạo” “mặt trận” nhưng Chi từ chối và nhanh nhóng bay trở lại Pháp.


Như rắn mất đầu, không còn tiền bạc và cả tương lai, Hiển đã thấy rõ y phải làm gì. Ngày 4/3/1988, Hiển gửi bức điện cuối cùng cho các toán ở trong nước với nội dung sau:


“Đã đến lúc phải báo sự thiệt cho các bạn rõ là C4 mất không có để lại di chúc gì cả. Mặt trận ta không có người thay thế, hướng đi tới trong tương lai rất là xa vời. Chúng ta sẽ trở thành công cụ của nước ngoài. Vì thế, vì quyền lợi của tất cả chúng ta và sự sống còn của mình, chúng ta phải giải tán toàn bộ... Kể từ điện này sẽ chấm dứt mọi sự liên lạc. Chúng tôi ở ngoài này chưa biết số phận sẽ ra sao... Thôi cầu chúc các bạn gặp được nhiều sự may mắn để xây dựng lại một cuộc đời mới. Chào tạm biệt - VT5”.


Kế hoạch ĐN-10 kết thúc.


Thắng lợi của Kế hoạch CM-12 thật sự to lớn và trọn vẹn.


* * *


Mới đây, kỷ niệm 25 năm mở đầu Kế hoạch CM-12, Bộ Công an và Tổng cục An ninh cùng Công an Cà Mau tổ chức cuộc gặp mặt các nhân chứng chỉ đạo thực hiện Kế hoạch CM-12. Các đồng chí lãnh đạo Bộ Công an như Thượng tướng Nguyễn Khánh Toàn, Trung tướng Thi Văn Tám, Thiếu tướng Trương Hòa Bình, và lãnh đạo Tổng cục An ninh đã về dự. 


Nhiều đồng chí cán bộ an ninh lão thành và cán bộ chiến sĩ an ninh từng tham gia Kế hoạch CM-12 bồi hồi, xúc động ôn lại những kỷ niệm khó quên. Không khí sôi động và những tình cảm đồng chí, đồng bào vẫn nồng ấm như những năm tháng chiến đấu gian khổ và hào hùng.


Phát biểu tại cuộc gặp mặt, Thượng tướng Nguyễn Khánh Toàn, Thứ trưởng thường trực Bộ Công an nhấn mạnh: Thắng lợi của Kế hoạch CM-12 rất to lớn, góp phần giữ vững an ninh của Tổ quốc.


Đây là thắng lợi chung của toàn Lực lượng Công an nhân dân, có sự hợp đồng chặt chẽ của Quân đội nhân dân và một số cơ quan khác. Thắng lợi của Kế hoạch CM-12 còn thể hiện tính nhân văn cao bởi đã đưa những người con của dân tộc lầm đường lạc lối trở về với con đường sáng (Tiếp theo và hết)