THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THI VÂN YÊN TỬ

SỚM CHIỀU DU NGOẠN CÙNG MÂY NÚI
HOA TRÁI QUA NGÀY TA VỚI TA

Thứ Sáu, 20 tháng 2, 2015

Người thành cổ Quảng trị

CHÚC MỪNG NĂM MỚI

Thứ Hai, 9 tháng 2, 2015

Bí ẩn tượng đồng 500 tuổi cực thiêng xứ Quảng Trị


Người thành cổ Quảng trị
Ẩn giấu bên trong dáng vẻ thanh bình quê kiểng ấy là những tầng sâu văn hóa mang tính đặc trưng...  
Những ngày cuối tháng 11 vừa qua, có dịp theo mấy người bạn làm công tác sưu tầm văn hóa dân gian thực hiện một chuyến đi dọc theo các làng quê thuộc huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, chúng tôi thực sự bị hớp hồn bởi những ngôi đình cổ, những mái ngói rêu phong đã nhuốm màu thời gian và những bến sông quê huyền hoặc trong sương mai. 

Đến thôn Trà Liên Tây, thuộc xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, chúng tôi đã được ông Trịnh Minh Toàn, trưởng thôn kể lại câu chuyện về pho tượng đồng có niên đại gần 500 năm, tạc Thái phó Nguyễn Ư Dĩ, người được con dân của làng qua bao thế hệ xem như vị thần đầy linh nghiệm và ngành văn hóa tỉnh Quảng Trị cũng đã làm hồ sơ đệ trình đề nghị công nhận pho tượng quý này là "bảo vật quốc gia".

 Thái phó Nguyễn Ư Dĩ là một nhân vật có thật trong lịch sử. Tên tuổi của ông gắn liền với sự kiện chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, bắt đầu hành trình mở mang bờ cõi Tổ quốc về phía nam của các chúa Nguyễn và vương triều nhà Nguyễn sau này. Nguyễn Ư Dĩ tước Uy Quốc công, là cậu ruột của Nguyễn Hoàng và là người đã dày công nuôi dạy chúa Nguyễn Hoàng từ năm lên 2 tuổi. Gần gũi, chăm sóc cho Nguyễn Hoàng, Nguyễn Ư Dĩ thấy được đứa cháu của mình có tướng mạo khôi ngô, vai lân lưng hổ, mắt phượng trán rồng, thông minh tài trí... những người am tường về dịch số đều biết được đây là bậc phi thường. Vì vậy, Nguyễn Ư Dĩ đã đem việc kiến công lập nghiệp để khuyến khích cháu mình.

Vào năm 1527, khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê để lên làm vua lấy niên hiệu là Minh Đức, trong số các trung thần của nhà Lê có người tuẫn tiết, có kẻ chạy sang nước khác để chờ cơ hội rửa hận cho nhà Lê. Trong số những người trốn chạy sang Ai Lao ấy có quan Hữu vệ Điện tiền Tướng quân An Thanh Hầu Nguyễn Kim (thân phụ của Nguyễn Hoàng), một trung thần nổi tiếng của nhà Lê lúc bấy giờ. Khi chạy sang Ai Lao, Nguyễn Kim được vua của nước này là Xạ Đẩu cho đến ở tại xứ Sầm Châu, thuộc phủ Trấn Nam. Vì là một người có chí lớn, một dạ trung quân nên ông liền bắt tay vào việc tìm kiếm con cháu nhà Lê để lo việc khôi phục.
Năm 1532, Nguyễn Kim lập người con út của Vua Lê Chiêu Tông là Duy Ninh lên ngôi, lấy hiệu là Trang Tông. Tìm được minh chủ, Nguyễn Kim lại may mắn thu nạp dưới cờ một viên tướng trẻ tài ba là Trịnh Kiểm, người làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc. Thấy Kiểm là người có thực tài, đồng thời muốn mưu đồ của mình được sớm thành tựu, nên Nguyễn Kim đã gả người con gái cưng đầu lòng là tiểu thư Ngọc Bảo cho Trịnh Kiểm. Từ đó, cha vợ và con rể cùng bắt tay vào việc xây dựng lý tưởng chung là hết lòng phò vua giúp nước. Sau 8 năm chuẩn bị, khi thấy lực lượng đủ mạnh, Nguyễn Kim mới phò Lê Trang Tông về đánh chiếm đất Nghệ An, và kết quả là thành công tốt đẹp.
Năm 1542, Nguyễn Kim lại phò vua ra đánh hai vùng Thanh Nghệ, thế quân lúc bấy giờ mạnh như chẻ tre, quân nhà Mạc càng đánh càng thua. Quan Tổng trấn nhà Mạc là Dương Chấp Nhất biết mình thế yếu đánh không lại nên xin hàng. Nguyễn Kim biết Dương Chấp Nhất là viên tướng tài của họ Mạc nên đã hết lòng chiêu dụ. Nhưng Dương Chấp Nhất vốn là một tay mưu sĩ, trước đây hắn ta chỉ trá hàng chứ không hề thực bụng, do đó hắn đã thừa dịp đánh thuốc độc giết chết Nguyễn Kim, rồi sau đó trốn theo nhà Mạc. Nguyễn Kim chết, binh quyền giao hết lại cho người con rể là Trịnh Kiểm. Ông để lại ba người con là Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm) và hai con trai là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng.
Khi Trịnh Kiểm bước vào tuổi trung niên thì hai người con trai của Nguyễn Kim đã trở thành những viên tướng trẻ. Đó là Lạng Quận công Nguyễn Uông và Thái úy Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng. Không hiểu được do đâu, vào thời điểm này ở trong thành ngoài nội lại rộ lên tin đồn cho rằng đã đến lúc Trịnh Kiểm phải "trả" quyền hành lại cho hai người em vợ.
Chuyện đó người ta xầm xì với nhau chưa được bao lâu thì lại xảy ra chuyện Lạng Quận công Nguyễn Uông bị chết bất ngờ. Dư luận lại chuyển sang nghi kị họ Trịnh đã ra tay thủ ác để diệt trừ hậu họa. Đau đớn trước cái chết của anh trai mình và biết chắc rằng bản thân mình cũng sẽ khó lòng bảo toàn được tính mạng trước người anh rể nhiều tham vọng. Nguyễn Hoàng đã nhờ cậu ruột, người từng nuôi nấng mình là Nguyễn Ư Dĩ đánh đường đến làng Trung An, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương để tìm gặp Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm xin vấn kế. Trạng Trình phán rằng: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân". Ý Trạng Trình nói rằng: Một dãy núi Hoành Sơn ở đèo Ngang tỉnh Quảng Bình chính là nơi dung thân đến vạn đời...


Ngay sau đó, Nguyễn Hoàng đã đến nhờ chị ruột của mình xin anh rể tâu với vua Lê xin cho Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa. Năm Mậu Ngọ 1558, khi vừa tròn 34 tuổi, Nguyễn Hoàng đã cùng với Nguyễn Ư Dĩ và bà con họ hàng, hàng ngàn quân sĩ và gia đình họ với vô số dân nghèo vốn là nạn nhân của bọn cường hào ác bá... lên đường đến định đô ở vùng đất mới. Đầu tiên, Nguyễn Hoàng đã chọn vùng đất Ái Tử thuộc huyện Đăng Xương, Quảng Trị để lập dinh trại. 

Ông Toàn và nhiều bô lão trong làng kể cho chúng tôi nghe rằng: suốt mấy chục năm chúa Nguyễn Hoàng đóng dinh tại Quảng Trị. Những thành quả về thu phục nhân tâm của các bậc anh tài hào kiệt, của hàng nghìn người từ mọi nơi kéo về với Nguyễn Hoàng để tụ nghĩa là nhờ công lao rất lớn của Nguyễn Ư Dĩ. Sử cũ chép lại rằng, khi đoàn quân của Nguyễn Hoàng vào đến Ái Tử thì người dân địa phương đã đón tiếp quan trấn thủ rất trọng thị và tôn xưng Nguyễn Hoàng là nhà chúa. Dân bản địa lúc bấy giờ vốn là thành phần nông dân nghèo khổ nên chỉ có quà dâng lên là 7 chiếc vò lớn đựng đầy nước mưa. Nguyễn Ư Dĩ nói với cháu mình rằng, đến một vùng đất mới mà được dân tình dâng nước ấy là điềm đại cát nên phải cố mà giữ lấy.
Khi Thái phó Nguyễn Ư Dĩ qua đời, hậu thế tưởng nhớ nên đúc tượng thờ ông. Người dân trong vùng xem ông là vị thần linh nghiệm, luôn có mặt đúng lúc ra tay giúp đỡ dân nghèo. Tượng được làm bằng chất liệu đồng, tạc ở tư thế ngồi trên ghế thấp, hai chân gấp khuỷu hơi dang ra. Khuôn mặt chữ điền, mắt nhìn xuống, mũi cao, môi mỏng, cằm vuông, râu dài, dái tai rộng, đầu đội mũ quan hai lớp, chân đi hia chỉ để lộ phần mũi. Toàn thân khoác áo choàng rộng phủ từ vai xuống vắt trùm cả hai chân. Hai tay vòng phía trước bụng khuất trong vạt áo choàng chỉ để hở một ngón tay cái của bàn tay phải. Phần bụng để hở to, tròn. Trên ngực có một dãi đai vòng. Trọng lượng pho tượng hơn 300 kg.  
Tôn kính ông nên bà con người gọi ông là ngài, người gọi là thần, rồi lập chùa Liễu Ba (hay còn gọi là Liễu Bông, Miếu Bông) thỉnh ngài vào chùa để thờ. Kể từ khi thờ pho tượng Thái phó Nguyễn Ư Dĩ, người dân làng Trà Liên kể rằng, họ luôn hưởng được nhiều may mắn, tốt đẹp. Trong chiến tranh, ngài đã che chở cho dân lành tránh được mưa bom, bão đạn của kẻ thù. Chuyện kể rằng, năm 1972, lúc ấy bom đánh sập nát chùa, song điều ngạc nhiên là pho tượng vẫn uy nghi ngồi trên bệ đá. Sau sự kiện này mọi người càng tin tưởng hơn ngài có phép thuật cao nên giúp dân tránh được mọi biến cố.
Ông Toàn trưởng thôn nhớ lại: trải qua biết bao nhiêu thăng trầm dâu bể của đất nước, người dân làng Trà Liên vẫn bảo vệ pho tượng hết sức cẩn  trọng với niềm tin là "làng còn là tượng phải còn". Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, để gìn giữ được pho tượng khỏi bị mất cắp, người dân trong làng phải mang tượng chôn dưới lòng hồ. Nghe tiếng làng có pho tượng linh nghiệm, bọn quyền thần đương thời đã cho người về lùng sục khắp làng nhưng vẫn không tìm ra pho tượng. 

Song có một lần pho tượng đã bị kẻ xấu đánh cắp. Ấy là vào năm 1975. Nghe tin pho tượng quý bị mất, người dân làng Trà Liên tỏa ra đi tìm suốt mấy ngày, bà con dùng từng cây sắt nhọn để xăm vào từng vuông đất kiểm tra. Cuối cùng, bà con phát hiện tượng nằm ở bờ sông Ái Tử, trong tình trạng bị kẻ xấu cố tình chôn dưới cát. Sau khi tìm ra, pho tượng được đưa về thờ trong nhà bia, đặt tại gần đầu làng. Năm 1989, kẻ gian lại tìm đến nơi thờ pho tượng để lấy cắp, nhưng chẳng hiểu vì sao, khi kẻ gian gánh pho tượng ra khỏi bệ thờ thì bỗng dưng trời nổi giông, sấm chớp liên hồi. Tiếp theo đó là một trận mưa rất to nên kẻ gian không thể mang pho tượng đồng tạc hình quan Thái phó Nguyễn Ư Dĩ đi được. Đến lúc trời sáng, người dân phát hiện pho tượng nằm chỏng chơ trên cỏ trong tình trạng bị kẻ gian cưa mất hai dải bách trên chiếc mũ của pho tượng. Người dân trong làng đã đốt nhang thơm khấn vái rồi thỉnh ngài trở lại bệ thờ...
Từ đó, dân làng Trà Liên xây kín ba mặt của nhà thờ tượng, chỉ để lại một phần nhỏ mặt tiền, rồi cử hẳn ông từ của làng canh gác hàng ngày. Người ta đồn đại rằng, tượng này được người xưa làm bằng một loại hợp kim rất quý. Ông Toàn cũng thừa nhận, năm 1972, một đơn vị bộ đội rađa về đóng doanh trại ngay bên cạnh vị trí đặt pho tượng. Chẳng hiểu vì lý do gì mà từ lúc đến đây hệ thống máy móc của đơn vị này không bắt được sóng, sửa mãi không xong nên các anh đành phải dời đến đóng trại ở địa phương khác thì chuyện bắt sóng lại trở nên dễ dàng? Người ta cho rằng người xưa đã dùng đồng đen để đúc tượng quan Thái phó vì vậy mà pho tượng đã làm nhiễu sóng rađa (?!).
Ghi nhớ công ơn của quan Thái phó nên đã bao nhiêu thế hệ qua đi, người dân làng Trà Liên vẫn duy trì truyền thống mỗi năm tổ chức 4 lần cúng quan Thái phó Nguyễn Ư Dĩ với nghi thức đại lễ của làng. Ngoài việc thờ tự vào dịp tết, thì lễ cúng được tổ chức rất linh đình vào các ngày rằm tháng 2, 6, 8 và 12 âm lịch. Hàng năm chánh lễ của làng thường đến chỗ đặt tượng làm lễ cầu xin mưa thuận, gió hòa, bà con nông dân luôn gặp mùa màng bội thu.
Trả lời thắc mắc của chúng tôi, nhiều bậc cao niên của làng Trà Liên cho biết: Sở dĩ có chuyện cúng ngài Nguyễn Ư Dĩ nhiều lần trong năm như thế là vì lòng dân trong làng vô cùng tôn kính ông, mặc dù ông đã sống cách chúng ta nhiều thế kỷ nhưng những câu chuyện về ông đối với dân nghèo, như chuyện ông khuyên nhủ quan Trấn thủ Thuận Hóa giảm thuế cho dân, giảm tối đa việc sai dịch để ổn định cho dân được an cư lạc nghiệp.
Theo chỉ bảo của ông mà Trấn thủ Thuận Hóa Nguyễn Hoàng đã cho dân tự do khai khẩn đất hoang. Ai có tài sức khai khẩn được bao nhiêu thì được quyền làm chủ thửa đất đó. Nhờ vào sự khuyến khích và nâng đỡ của ông mà dần dần lãnh thổ được mở rộng. Đất đai trước đây khô cằn, nay trở nên màu mỡ. Dân chúng kéo nhau đến những vùng xa xôi hơn để tiếp tục mở đất khai hoang, ngày đêm phá rừng lập ruộng, xua đuổi thú dữ vào tận rừng sâu núi thẳm, tạo nên cuộc sống no đủ yên vui...
Hiện tại, pho tượng đã được chính quyền xã Triệu Giang kết hợp với Trường tiểu học Triệu Giang quản lý. Trên thực tế thì việc quản lý pho tượng đồng chủ yếu vẫn do người dân trong làng.  
Bức tượng Thái phó Nguyễn Ư Dĩ, mang trong mình một giá trị văn hóa lớn lao như lời đánh giá của một cán bộ Bảo tàng Quảng Trị: Đây là bức tượng có một không hai, đã tồn tại hàng trăm năm và đã trở thành báu vật quốc gia. Theo ghi nhận của chúng tôi, mặc dù được đặt trong cái am nhỏ bằng bê tông cốt thép khá kiên cố song nó lại nằm giữa đồng không mông quạnh. Với việc "tự quản lý" của người dân trong thôn, liệu ai dám chắc rằng bức tượng sẽ không bị đánh cắp hay xâm hại một lần nữa?



Phía bên kia nghĩ gì về cuộc chiến Quảng Trị 1972?

Người thành cổ Quảng trị

 Ngày 2/4/1972, Hãng tin AFP bình luận "Dù chờ đợi cuộc tấn công từ 3 tháng nay, nhưng không thể ngạc nhiên hơn về sự dữ dội của nó…"

Vào hồi 11h ngày 30/3/1972, Thiếu tướng Lê Trọng Tấn - Phó tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam - Tư lệnh Mặt trận Trị - Thiên đã phát lệnh mở màn chiến dịch giải phóng Quảng Trị. Từ đó, trên mảnh đất này đã diễn ra một cuộc đọ sức vô cùng quyết liệt giữa Quân giải phóng với kẻ thù...

Cuộc giao tranh ấy đã kéo dài đến 304 ngày từ lúc khai hỏa tấn công địch cho đến ngày ký Hiệp định Paris về Việt Nam ngày 27/1/1973. Thắng lợi ở chiến cuộc Quảng Trị ngày ấy đã đi vào Lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi vì đó là chiến thắng vang dội đầu tiên có sức cổ vũ lớn cho toàn quân và dân ta xung kích trên mọi mặt trận, đánh thắng kẻ thù để thống nhất non sông.

Cuộc tấn công bất ngờ

Quân viễn chinh Mỹ sau đợt rút quân vào đầu năm 1972 còn để lại chừng 9,5 vạn quân ở chiến trường, nhưng trên thực tế hầu như đã chấm dứt mọi hoạt động chiến đấu bằng bộ binh. Tình hình chiến cuộc lúc đó "Quân đội nhân dân Việt Nam đang ở trên thế thắng lợi, Mỹ - ngụy đang lâm vào tình thế của những người thua trận…".

Tuy nhiên, với bản chất hiếu chiến, dựa vào tiềm năng quân sự, chúng vẫn thực hiện những hành động chiến tranh phiêu lưu nhằm chống lại Quân giải phóng, thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Một mặt rút dần số quân đội Mỹ còn lại, tạo điều kiện mặc cả với ta trên bàn Hội nghị Paris. Một mặt nhằm xoa dịu phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ, tạo điều kiện thuận lợi cho Nixon trong việc bầu cử tổng thống vào cuối năm 1972.

Trước tình hình đó, tháng 8 năm 1971, Bộ Chính trị họp ra nghị quyết về phương hướng hoạt động quân sự năm 1972 là mở nhiều chiến dịch tiến công trên chiến trường Đông Dương, trọng điểm là chiến trường miền Nam, đẩy mạnh đánh phá chiến lược "bình định" của địch ở nông thôn, đưa phong trào đấu tranh chính trị ở đô thị lên một bước mới, phát huy thế chủ động chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam, tạo ra một bước chuyển biến cơ bản, tiến lên thay đổi cục diện chiến tranh. Theo phương hướng đó, Bộ Chính trị đề ra nghị quyết cụ thể mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên các hướng miền Đông Nam Bộ, Trị - Thiên, Tây Nguyên, trong đó miền Đông Nam Bộ là hướng tiến công chủ yếu, đánh vào đây sẽ tác động mạnh tới Sài Gòn.

Nhưng thông qua diễn biến của chiến trường, nhất là việc chuẩn bị vật chất cho chiến trường miền Đông Nam Bộ. Tuy có nỗ lực lớn nhưng chưa đảm bảo yêu cầu, nên đầu tháng 3-1972 Quân ủy Trung ương quyết định thay đổi hướng tiến công chiến lược chính sang chiến trường Trị - Thiên, miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên chuyển thành hướng quan trọng, và sẵn sàng đưa một bộ phận chủ lực thọc sâu xuống đồng bằng khi có thời cơ. Có sự thay đổi như vậy là vì ở chiến trường Trị - Thiên sát với hậu phương chiến lược miền Bắc, ta có thể tập trung lực lượng và bảo đảm vật chất cho một chiến dịch quy mô lớn, dài ngày. Thêm nữa, cho đến lúc này, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ vẫn cho rằng hướng tiến công chiến lược chính của ta vẫn là chiến trường Tây Nguyên, nên đã điều động phần lớn Sư đoàn dù (lực lượng dự bị chiến lược) và các lực lượng chủ lực của Quân khu 2 lên cao nguyên Trung phần...
 Quân giải phóng tấn công làm chủ Quảng Trị.


Quyết tâm mới của Quân ủy Trung ương được Bộ Chính trị thông qua ngày 11/3/1972. Cũng trong hội nghị này, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Chiến dịch Trị - Thiên 1972, trong đó có cả sáp nhập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị. Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó tổng tham mưu trưởng được cử làm Tư lệnh; Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy. Các đồng chí Cao Văn Khánh, Giáp Văn Cương, Doãn Tuế, Phạm Hồng Sơn, Lương Nhân, Nguyễn Anh Đệ làm Phó tư lệnh. Đồng chí Hồ Sỹ Thản, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị cũng tham gia Đảng ủy Bộ Tư lệnh chiến dịch. Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị Tổng tham mưu trưởng được cử làm đại diện của Quân ủy Trung ương trực tiếp chỉ đạo hướng chiến lược quan trọng này.

Về phương châm, phương pháp chỉ đạo và thực hiện tác chiến, Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Chính ủy chiến dịch nhấn mạnh: Cần tranh thủ đánh dã ngoại để tiêu diệt sinh lực địch và phương tiện chiến tranh, tạo thời cơ đánh những trận quyết định tiêu diệt từng trung đoàn, lữ đoàn địch, phá vỡ tuyến phòng thủ, nhanh chóng đột phá trung tâm, không cho chúng đối phó. Đồng thời phát huy cao độ uy lực của mọi loại binh khí kỹ thuật hiện có, đánh tập trung hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, coi trọng đánh vừa và nhỏ, đánh sâu và hiểm bằng những lực lượng tinh nhuệ, hỗ trợ cho nhân dân tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên nổi dậy giành chính quyền. Đó vừa là ý chí quyết tâm vừa là tình cảm thiêng liêng của cán bộ, chiến sĩ trên Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị.

Thời điểm này, do chưa thấy động tĩnh của quân ta, Mỹ - ngụy ra sức tuyên truyền rằng "Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh đã gặt hái được những thành quả nằm ngoài dự kiến". Nguyễn Văn Thiệu lớn tiếng tuyên bố: "Tôi đã chỉ thị cho quân lực bằng mọi giá không để cho hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên và bất kỳ nơi nào khác rơi vào tay Cộng sản".

Đại tá Phan Bá Hòa - Tỉnh trưởng Quảng Trị cũng hí hửng phát ngôn cùng giới truyền thông quốc nội và quốc tế rằng: "Quân đội Việt Nam Cộng hòa đã đẩy lùi mọi bước tiến của quân đội đối phương". Trong khi đó, mọi bước chuẩn bị cho một cuộc tấn công lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam đã hoàn tất, chảo lửa ở chiến trường Trị - Thiên đang nóng dần lên từng ngày để chạm mốc thời gian điểm hỏa.

Sáng 30/3/1972, trong buổi giao ban của Bộ Tư lệnh chiến dịch, nghe báo cáo về quy trình chuyển quân hoán đổi vị trí của địch ở những cao điểm trên chiến trường. Tư lệnh chiến dịch Lê Trọng Tấn nhận định "Đây là thời cơ thuận lợi để nổ súng tấn công" và đúng 11 giờ 30 phút ngày 30/3/1972, chiến dịch mở màn.
 Quân giải phóng làm chủ căn cứ của địch.


Quân giải phóng tập trung hỏa lực pháo kích dữ dội vào các căn cứ của địch trong vùng giới tuyến Carroll, Mai Lộc, Sarge, núi Bá Hộ, Tân Lâm, Cồn Tiên, Đông Hà và Quảng Trị. Pháo binh của ta, với các loại đại bác nòng dài 130 ly, cũng như hỏa tiễn 122 ly tầm xa 27,5 km, từ Vĩnh Linh bên kia cầu Hiền Lương, đồng loạt bắn phá các căn cứ hỏa lực của địch. Thời điểm này, cũng là lúc Trung đoàn 2 và Trung đoàn 56 của Sư đoàn 3 bộ binh địch đang hoán chuyển vùng, nên chúng bị tổn thất rất nặng nề, nhiều vị trí phòng thủ của địch bị bỏ ngỏ, đồng thời làm cho tinh thần binh sĩ, nhất là Trung đoàn 56 giao động mạnh.

Tiếp đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch huy động các đơn vị chủ lực của Sư đoàn 304 và 308 cùng 3 trung đoàn biệt lập của B5, 1 trung đoàn Đặc công và 2 trung đoàn Chiến xa 203 và 202 vượt khu phi quân sự chia thành 4 mũi tấn công cường tập vào tuyến phòng thủ của các đơn vị địch đang trấn đóng tại các căn cứ phía tây và bắc Quảng Trị. Sau một ngày giao tranh, quân địch đồn trú ở các cứ điểm núi Bá Hô và Sarge hoàn toàn bị đẩy lùi và tiêu diệt, quân ta làm chủ trận địa hoàn toàn.

Tình hình chiến cuộc qua nhận định của báo chí đối phương

Ngày 1/4/1972, đồng loạt các báo ở Sài Gòn bắt đầu loan tin chiến sự. Trên trang nhất tờ Sóng Thần chạy hàng tít đậm "Quân Bắc Việt phát khởi mưa pháo kích và chấp nhận giao tranh ồ ạt". Hãng UPI thì nêu nhận định: "Một loạt các cuộc tấn công của địch được xem là dữ dội nhất kể từ gần một năm nay trên chiến trường Đông Dương". Thừa thắng xông lên, quân ta tiếp tục tập trung hỏa lực vào các căn cứ địch ở Đông Hà, Cam Lộ, Ái Tử, nhiều đơn vị thuộc Sư đoàn 3 bộ binh của ngụy bị tiêu diệt, hàng nghìn sĩ quan và binh sĩ ngụy mạnh ai nấy chạy nhằm tìm đường thoát thân.

Ngày 2/4/1972, Hãng tin AFP bình luận "Dù chờ đợi cuộc tấn công từ 3 tháng nay, nhưng không thể ngạc nhiên hơn về sự dữ dội của nó…". Tờ Bách Khoa phân tích: "Bắc Việt đã lợi dụng được yếu tố bất ngờ" và dự đoán: "Quân đội Bắc Việt có thể tung những cú đấm thép và thắng điểm trong 4 tuần đầu của chiến cuộc…". Tiếp đó, tờ Sóng Thần nhận định: "Cuộc tấn công Quảng Trị của quân đội Bắc Việt là bước quan trọng để quyết định chiến cuộc tại Đông Dương…". Bên cạnh những nhận định, đánh giá tình hình chiến sự tại chiến cuộc Quảng Trị, các báo còn liên tục thống kê những thiệt hại của quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Tính đến ngày 3/4/1972, tức là sau 4 ngày Quân giải phóng ào ạt tấn công đã có 11 căn cứ hỏa lực của quân đội Sài Gòn tại vùng giới tuyến bị thất thủ liên tiếp, 53 khẩu trọng pháo bị đánh hỏng, trên 7.000 binh sĩ bị tử thương, trọng thương, bị bắt và thất lạc đơn vị. Báo Sóng Thần trong các ngày 2 và 3/4/1972 liên tục có bài tường thuật sự thất thủ và tháo chạy của quân đội Sài Gòn: "Các mũi tiến công và hỏa lực của quân đội Bắc Việt ngày một thêm dữ dội khiến cho các cấp chỉ huy của Sư đoàn 3 bộ binh và Tiểu khu Quảng Trị gần như bó tay, vì không thể tìm ra kế hoạch nào để ổn định tình thế…".

Trong thời điểm này, căn cứ hỏa lực Carroll (Tân Lâm) của Trung đoàn 56 bộ binh địch đã bị bao vây, Quân giải phóng vẫn tiếp tục pháo kích dữ dội vào căn cứ để uy hiếp.

Đúng 14h30', Trung tá Phạm Văn Đính - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 56 thuộc Sư đoàn 3 bộ binh địch đã treo cờ trắng xin đầu hàng. 1.500 hàng binh cùng với 22 khẩu đại bác, trong đó có 4 khẩu đại bác 175 ly, 10 khẩu 105 ly của pháo đội Thủy quân lục chiến, còn lại là pháo đội 155 ly và 105 ly của pháo binh Quân đoàn 1 và Sư đoàn 3 bộ binh được Quân giải phóng tiếp quản. Sự kiện diễn ra vào chiều ngày 2/4/1972 này đã được báo chí miền Nam gọi là một biến cố gây chấn động không ít đến tinh thần của các binh sĩ trong quân đội Sài Gòn đang có mặt ở vùng giới tuyến.            

Sau khi tiến chiếm và làm chủ được căn cứ hỏa lực Carroll của địch, căn cứ Mai Lộc, nơi đặt Bộ chỉ huy của Lữ đoàn 147 Thủy quân lục chiến địch trở thành mục tiêu tấn công tiếp theo của ta. Trước sự tấn công như vũ bão từ nhiều hướng, đơn vị pháo binh 105 ly của Thủy quân lục chiến ngụy đang đồn trú tại đây không thể chống trả mà chỉ nổ súng cầm cự đến chừng 10 giờ đêm thì cùng nhau tháo chạy về hướng Đông Hà, rồi từ đó thất thểu chạy về thành phố Huế. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 bộ binh địch cũng hoang mang cực độ trước sức ép của Quân giải phóng, nên đã hạ lệnh cho quan quân rút khỏi căn cứ Ái Tử để chạy về thị xã Quảng Trị. Tiếp đó là Trung đoàn 57 của Sư đoàn 3 bộ binh tháo chạy khỏi căn cứ Gio Linh nhằm về hướng Đông Hà.

Để cứu vãn tình thế, địch tăng viện bằng đường hàng không, đưa các đơn vị lính Biệt động quân và Lữ đoàn 369 Thủy quân lục chiến từ Sài Gòn ra tăng viện nhằm trấn giữ tại các căn cứ Nancy, Jane, Evan và phòng tuyến Mỹ Chánh, ranh giới giữa hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Lúc này, các sư đoàn Quân giải phóng vẫn tiếp tục hướng các mũi tấn công vào thị xã Quảng Trị. Vì cầu Đông Hà lúc này đã bị sập, nên các cánh quân của ta phải dùng cầu Cam Lộ để vượt sông Hiếu. Lực lượng được chia thành 2 cánh quân: Một cánh hành quân đi dọc theo quốc lộ 9 để tiến chiếm Đông Hà, Cửa Việt và theo quốc lộ 1 tiến về hướng nam. Một cánh quân khác tiến về hướng nam, theo tỉnh lộ 558 và 557 qua những cứ điểm vừa chiếm như Carroll, Mai Lộc, Holcomb để tấn công căn cứ Phượng Hoàng và thị xã Quảng Trị từ hướng tây.

Đêm 24/4/1972, một cánh quân của ta tấn công làm cháy kho tiếp liệu của Sư đoàn 3 bộ binh ngụy tại La Vang, trong đó có kho xăng dầu và cả một đoàn xe tiếp tế quân trang, quân dụng của Bộ chỉ huy 1 tiếp vận từ Đà Nẵng ra. Đêm 27/4/1972, quân ta lại tấn công thẳng vào mục tiêu kho dự trữ đạn dược của địch tại căn cứ Ái Tử, phá hủy hoàn toàn số đạn dược ở đây.              

Bị tấn công từ nhiều hướng, đến ngày 30/4/1972, thế trận phòng thủ của quân lực Việt Nam Cộng hòa ở Quảng Trị hoàn toàn trở nên nguy khốn và hoảng loạn. Nhiều đơn vị lính ngụy xem như đã tan hàng vì hầu hết binh sĩ đã tự động rã ngũ để chạy theo gia đình tìm đường thoát thân về Huế. Ở thế cùng đường, Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, Tư lệnh Sư đoàn 3 bộ binh triệu tập một cuộc họp tại Bộ Tư lệnh hành quân sư đoàn đóng trong thành cổ Quảng Trị để giải trình kế hoạch tháo chạy. Ngày 2/5/1972, Quân giải phóng hoàn toàn làm chủ địa bàn tỉnh Quảng Trị. 

http://kienthuc.net.vn/giai-ma/phia-ben-kia-nghi-gi-ve-cuoc-chien-quang-tri-1972-244412.html

 

Thành cổ Quảng Trị: Khúc tráng ca bất tử

Người thành cổ Quảng trị

 “Cho tôi hôm nay vào Thành cổ
Thắp một nén nhang viếng người nằm dưới cỏ
Cỏ non xanh tơ, cỏ non xanh tơ...! Xin chớ vô tình...
Với người hy sinh, trên mảnh đất quê mình”.

Những câu hát ấy ngân lên lắng đọng một vùng đất Thành cổ. Chỉ mấy câu thôi nhưng khiến cho những ai đã một lần đến nơi đây thêm hiểu và cảm nhận được sự hùng tráng, anh dũng chiến đấu của các chiến sĩ trong trận chiến 81 ngày đêm khốc liệt vào mùa hè đỏ lửa - 1972.

Lịch sử cổ thành
Ngôi thành cổ này được vua Gia Long đắp bằng đất vào năm 1809, đến 28 năm sau (1837), vua Minh Mạng xây thành bằng gạch rất kiên cố. Thành được xây dựng theo kiểu kiến trúc Vô Băng của Pháp, có chu vi 2.160m, diện tích nội thành là 16ha; tường thành cổ cao 4m, dày đến 12m, xung quanh có hào thành và có 4 cửa là tiền, hậu, tả hữu. Vào thời phong kiến, Thành cổ Quảng Trị là trung tâm kinh tế, chính trị, quân sự của tỉnh Quảng Trị.

Bị thương vẫn không rời trận địa. (Ảnh Đoàn Công Tính chụp các chiến sĩ của ta chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị).
Bị thương vẫn không rời trận địa. (Ảnh Đoàn Công Tính chụp các chiến sĩ của ta chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị).

Là một thành lũy phòng ngự để bảo vệ kinh đô Huế phía bắc, nên trong thành có rất nhiều công trình kiến trúc được xây dựng, phục vụ cho bộ máy quan lại và chính quyền phong kiến như hành cung, cột cờ, dinh tuần vũ, dinh án sát, dinh lãnh binh... Còn vào thời Pháp thuộc, sau khi đặt chính quyền bảo hộ ở nước ta, thực dân Pháp đã cho xây dựng ở đây một nhà lao rất kiên cố, chiếm 1/4 diện tích toàn thành (hiện vẫn còn tồn tại 28 phòng giam). Trong suốt thời gian từ năm 1929 đến đầu năm 1972, hàng ngàn chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước của ta đã bị giam cầm tại hệ thống nhà lao này. Còn dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, Thành cổ là khu quân sự nên trong thành còn có trận địa hỏa lực và nhiều trại lính...

Khúc tráng ca bất tử
Hiệp định Giơ-ne-vơ ký kết năm 1954, đất nước ta bị chia cắt thành 2 miền và Quảng Trị trở thành tỉnh địa đầu, có một vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng. Với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước, Mỹ ngụy tập trung xây dựng trên địa bàn Quảng Trị rất nhiều căn cứ quân sự lớn, kéo dài từ đông sang tây, bắc xuống nam. Đặc biệt có hàng rào điện tử Mắc-na-ma-ra chạy dọc vĩ tuyến 17, được mệnh danh là “con mắt thần bất khả xâm phạm”.

Đầu năm 1972, với quyết tâm đánh bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, để tạo thế mạnh trên bàn đàm phán tại Paris, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Xuân-Hè để giải phóng tỉnh Quảng Trị. Và chỉ trong vòng một tháng (từ 30.3 đến 1.5.1972), ta đã đập tan tất cả các căn cứ quân sự địch xây dựng trên địa bàn tỉnh Quảng Trị. Vào ngày 1.5.1972, ta cắm cờ lên nóc tòa hành chính Quảng Trị nằm tại phía tây Thành cổ. Và Quảng Trị là tỉnh đầu tiên của miền Nam được giải phóng.
Đài tưởng niệm liệt sĩ hy sinh ở Thành cổ Quảng Trị.
Đài tưởng niệm liệt sĩ hy sinh ở Thành cổ Quảng Trị.

Để cứu vãn tình hình, đồng thời gây sức ép với ta trên bàn đàm phán Paris, ngày 28.6.1972, Mỹ ngụy điên cuồng mở cuộc hành quân phản kích tại chiến trường Quảng Trị với mật danh là Lam Sơn 72 (mục tiêu số 1 là cắm cờ lên Thành cổ này). Đây là cuộc hành quân cực kỳ tàn bạo, đẫm máu nhất, với tính chất hủy diệt rất cao. Trong 81 ngày đêm (từ 28.6-16.9.1972), cả thị xã và Thành cổ Quảng Trị như một túi bom. Trung bình mỗi ngày địch huy động 150-170 lần máy bay phản lực, 70-90 lần máy bay B52; 12-16 khu trục hạm, tuần dương hạm thuộc Hạm đội 7 của Mỹ đến ném bom bắn phá. Với diện tích chỉ 3km, nhưng Thành cổ đã phải gánh chịu 328 ngàn tấn bom đạn, bình quân mỗi chiến sĩ gánh chịu 100 quả bom và 200 quả đạn pháo. Cũng chính vì vậy, phần lớn chiến sĩ ta hy sinh là do sức ép của bom đạn, dù đang ngồi trong hầm cũng vỡ máu mũi, máu tai mà hy sinh. Khốc liệt như vậy, chiến sĩ ta trên mình mang đầy thương tích nhưng vẫn không rời trận địa, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.

Dù chiến đấu rất anh dũng, nhưng do hỏa lực của địch quá mạnh, các phòng tuyến bảo vệ vòng ngoài, bảo vệ từ xa của ta vỡ dần. Cuối tháng 8, đầu tháng 9.1972, địch bắt đầu tràn vào thị xã Quảng Trị, từ đây diễn ra cuộc chiến đấu vô cùng khốc liệt trong lòng thị xã và Thành cổ. Ta với địch giành nhau từng căn nhà, góc phố của Thành cổ. Tuy nhiên, thời tiết lúc này vô cùng ác liệt. Áp thấp nhiệt đới liên tục xảy ra, nước sông Thạch Hãn dâng cao, toàn bộ thị xã và Thành cổ Quảng Trị ngập chìm trong bể nước. Lợi dụng tình hình đó, địch tập trung hỏa lực không quân, pháo binh bắn vào trận địa của ta làm cho hệ thống hầm hào công sự bị sạt lở.

Các chiến sĩ của ta vừa thay nhau tát nước để chống ngập công sự, vừa phải chống trả địch. Suốt ngày ngâm mình trong nước, ăn lương khô, uống nước lã, sức khỏe giảm sút, thương vong rất lớn, có ngày lên đến cả trăm người. Lúc này việc chi viện sức người, sức của cho mặt trận cũng gặp rất nhiều khó khăn và tổn thất do nước sông Thạch Hãn đang cuồn cuộn chảy. Trước tình hình đó, đồng thời sau khi hoàn thành nhiệm vụ chốt giữ Thành cổ, ngày 16.9.1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch ra lệnh rút toàn bộ quân sang bờ bắc của sông Thạch Hãn, kết thúc 81 ngày đêm chiến đấu anh dũng, kiên cường.

“Dòng sông máu”
Hòa chung với khúc tráng ca Thành cổ, dòng sông Thạch Hãn (nằm cách phía tây Thành cổ khoảng 300m), trong cuộc chiến 81 ngày đêm năm 1972, dòng sông là con đường tiếp tế nhân lực, vật lực chủ yếu cho mặt trận Quảng Trị. Để cắt con đường tiếp tế đó, địch điên cuồng ném bom bắn phá, rất nhiều chiến sĩ ta đã nằm lại trên dòng sông. Đặc biệt ngày 16.9, ngày cuối cùng của 81 ngày đêm sau khi nhận lệnh cấp trên rút toàn bộ quân sang bờ bắc của sông để bảo toàn lực lượng, hàng trăm chiến sĩ và thương binh sau nhiều ngày ngâm mình trong nước, đói rét đã không còn đủ sức để chống chọi với dòng nước lũ. Và sông Thạch Hãn một lần nữa trở thành nơi an nghỉ vĩnh hằng của các chiến sĩ Thành cổ Quảng Trị anh hùng.

Sau ngày đất nước thống nhất, hằng năm có rất nhiều cựu chiến binh trở về đây thăm lại chiến trường. Sau khi vào đài tưởng niệm dâng hương các anh hùng liệt sĩ, các vị “lính già” lại ra đứng bên dòng Thạch Hãn thả một nhành hoa khóc thương đồng đội:

“Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi đôi mươi thành sóng nước
Hồn nhiên bờ bãi mãi ngàn năm”

Để tri ân các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trên dòng sông, Đảng, Nhà nước ta đã cho xây dựng nhà hành lễ, bến thả hoa rất khang trang ở hai bên bờ sông này. Và hằng năm vào các ngày lễ lớn: 30.4; 27.7; 22.12 và ngày rằm hằng tháng, nhân dân Quảng Trị đều tổ chức lễ thả đèn và hoa trên dòng sông, để sưởi ấm linh hồn các liệt sĩ.
Bài, ảnh: PHẠM DANH
http://baoquangngai.vn/channel/2047/201409/thanh-co-quang-tri-khuc-trang-ca-bat-tu-2338752/

     

Thành Cổ Quảng Trị

Người thành cổ Quảng trị


Thành Cổ Quảng Trị một tòa thành nằm bên dòng sông Thạch Hãn, được biết đến qua cuộc chiến 81 ngày đêm giữ thành đầy khốc liệt trong lịch sử dân tộc. Ngày nay Thành Cổ là một điểm tham quan gây nhiều xúc động, đây được coi là nghĩa trang không nấm mồ, là ngôi mộ chung của những người lính Thành Cổ đã ngã xuống vì quê hương vì sự hòa bình thống nhất đất nước.


Thành Cổ Quảng Trị thuộc thị xã Quảng Trị (cổng chính nằm trên đường Lý Thái Tổ), cách quốc lộ 1A khoảng 2km về phía Đông. Thành Cổ Quảng Trị được bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng di tích Quốc gia theo quyết định số 235/VH - QĐ ngày 12/12/1986, là một trong những di tích Quốc gia đặc biệt quan trọng.

Thành Cổ Quảng Trị vào thời nhà Nguyễn

Thành Cổ Quảng Trị được xây dựng từ thời vua Gia Long và đến thời vua Minh Mạng mới hoàn thiện, kéo dài gần 28 năm (1809-1837), Thành lúc đầu được đắp bằng đất, đến năm 1837 vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Khuôn viên Thành có dạng hình vuông với chu vi tường thành dài 2160m, thành cao 3m, dưới chân dày 13,5m, đỉnh dày 0,72m. Bên ngoài thành có hệ thống hào rộng bao quanh. Bốn góc thành là 4 pháo đài cao nhô hẳn ra ngoài. Thành có 4 cửa: Tiền, Hậu, Tả, Hữu Xây vòm cuốn, rộng 3,4m, phía trên có vọng lâu, mái cong, lợp ngói, cả 4 cửa đều nằm chính giữa 4 mặt Thành.
thành cổ quảng trị

cửa Tả - Thành Cổ

thành cổ quảng trị

Hệ thống kênh hào bao xung quanh Thành

Thành Cổ Quảng Trị Dưới thời thực dân Pháp

Trong suốt thời gian đô hộ và thống trị của thực dân Pháp, Thành Cổ Quảng Trị với tư cách là trung tâm đầu não của bộ máy cai trị cấp địa phương, cấp tỉnh. Thành Cổ Quảng Trị được quân đội Pháp chọn làm một trong những cứ điểm quan trọng của hệ thống đồn quân sự. Pháp đã cho xây dựng thêm một hệ thống nhà tù, mở rộng và kiên cố hoá khu lao xá để làm nơi giam giữ những người yêu nước, các chiến sĩ cách mạng trong tỉnh và khu vực.  Nhà lao Quảng Trị có lúc đã trở thành trung tâm lãnh đạo phong trào cách mạng bởi chính đây từng là nơi giam giữ những hạt nhân nòng cốt của thanh niên, những chiến sĩ cộng sản đầu tiên của Quảng Trị và nhiều vị lãnh đạo của Tỉnh ủy, Xứ ủy thuộc thời kỳ tiền khởi nghĩa.


nhà lao tù trong Thành Cổ



Thời Mỹ xâm lược chia cắt đất nước

Hiệp định Giơnevơ được ký kết ngày 20/7/1954, theo hiệp định lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới chia cắt tạm thời. Một phần của Quảng Trị từ Sông Bến Hải trở ra được giải phóng, các huyện từ Gio Linh trở vào Hải Lăng trở thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ. Thị xã Quảng Trị, trong đó có Thành Cổ Quảng Trị trở thành trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế - xã hội. Mỹ - Ngụy biến Thành Cổ thành khu quân sự, làm kho tàng quân đội và trung tâm chỉ huy chiến dịch toàn tỉnh, đồng thời mở thêm nhà giam để đàn áp phong trào cách mạng.

Thành Cổ trong cuộc tấn công chiến lược 1972 và trận chiến 81 ngày đêm lịch sử

Cuộc tấn công chiến lược năm 1972 trên toàn miền Nam bắt đầu. Ngày 30/3/1972 hai Sư đoàn 304 và 308 với sự hỗ trợ của các trung đoàn xe tăng và pháo binh đã vượt qua khu phi quân sự tại giới tuyến 17 chia cắt 2 miền. Đồng thời từ phía Tây, Sư đoàn 324B với xe tăng hỗ trợ theo đường 9 từ Lào vượt qua Khe Sanh tiến vào thung lũng sông Thạch Hãn. Với sự lợp lực của quân ta đã gây bất ngờ cho quân phòng thủ của Việt Nam Cộng hòa và đồng minh Mỹ. Quân ta tiến đánh vào các vị trí phòng thủ của sư đoàn 3 VNCH làm tan rã lực lượng địch.
Ngày 28 tháng 4 ta chiếm được Đông Hà và tiến đến sát thị xã Quảng Trị. Ngày 29, quân VNCH được lệnh rút về trấn thủ tại sông Mỹ Chánh.
Ngày 2/5 Thị xã Quảng Trị được giải phóng. Thắng lợi của chiến dịch Quảng Trị năm 1972 đã làm thay đổi cơ bản cục diện chiến trường, đẩy chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ đến bờ vực phá sản, tạo đà và thế cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Để mất Quảng Trị, Mĩ - nguỵ đã điên cuồng mở cuộc phản kích tái chiếm Quảng Trị với mật danh “Lam Sơn 72”. Trong đó mục tiêu số 1 là phải chiếm được Thành Cổ Quảng Trị. Trong lịch sử chiến tranh, chưa có một cuộc hành quân nào mà mục tiêu chủ yếu là đánh chiếm một toà thành có chu vi chưa đầy 2.000m mà đối phương huy động một lực lượng hùng hậu: với sự hỗ trợ của hạm đội tên lửa Mỹ, hàng loạt máy bay ném bom B52, một khối lượng bom đạn khổng lồ như ở chiến dịch tái chiếm Thành Quảng Trị. Thị xã Quảng Trị trong 81 ngày đêm từ 28/6 đến 16/9 được ví như một túi bom. Trung bình mỗi ngày địch huy động 150-170 lần chiếc máy bay phản lực, 70 – 90 lần chiếc B52 để ném bom huỷ diệt thị xã và Thành Cổ Quảng Trị. Với diện tích chưa đầy 3 cây số vuông, trong 81 ngày đêm thị xã và Thành Cổ Quảng Trị phải gánh chịu 328.000 tấn bom đạn, trung bình mỗi chiến sỹ của ta phải gánh chịu 100 tấn bom, 200 quả đạn pháo.
Và dù trên mình mang đầy thương tích nhưng các anh vẫn chiến đấu ngoan cường, quyết không rời trận địa, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, cứ người này ngã xuống người khác lại đến thay. Báo quân đội nhân dân ra ngày 9/8/1972 có viết “Mỗi mét vuông đất mà các chiến sỹ ta dành được ở Thành Cổ Quảng Trị thực sự là một mét vuông máu”. Theo thống kê của phòng quân lực, 80% chiến sỹ của ta đã hi sinh do sức ép của bom đạn, dù đang ngồi trong hầm cũng vỡ máu mũi, máu tai mà hi sinh.
Do hoả lực của địch quá mạnh, phòng tuyến vòng ngoài của ta bị vỡ dần. Từ đầu tháng 9 đã diễn ra cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt trong lòng thị xã và Thành Cổ Quảng Trị. Ta và địch giành nhau từng căn nhà, góc phố, từng mảng tường Thành Cổ. Thời tiết lúc này không thuận lợi, áp thấp nhiệt đới liên tục xảy ra, nước sông Thạch Hãn dâng cao, cả thị xã chìm trong biển nước. Lợi dụng tình hình đó địch tăng cường bắn phá vào công sự của ta. Các chiến sỹ của ta vừa thay nhau tát nước chống ngập công sự, vừa chống trả địch, suốt ngày ngâm mình trong nước, ăn lương khô, uống nước lã nên sức khoẻ giảm sút, thương vong rất lớn có ngày trên 100 người.
Việc cố thủ giữ Thành Cổ Quảng Trị trong chiến dịch đánh phản kích 81 ngày đêm, khi một giải pháp có tính chất quyết định cho cuộc chiến tranh Việt Nam đang đi đến hồi kết trên bàn đàm phán Pari, thì nó thực sự có ý nghĩa sống còn cho cả hai phía. Điều này được thể hiện: ta thì hạ quyết tâm giữ cho bằng được thành còn địch cố chiếm cho được thành bằng mọi giá, khi dư luận trong nước cũng như trên thế giới đang từng giờ từng phút hướng về Thành Cổ Quảng Trị. Sự kiện địch không thực hiện được mục tiêu “cắm cờ” trên Thành Cổ trước ngày 13-7-1972, chúng bày ra trò đắp thành giả tại làng Trâm Lý (cách Thành Cổ Quảng Trị hơn 2km) rồi quay phim, chụp ảnh, công bố đã chiếm lại được Thành Cổ Quảng Trị tại Hội nghị Pari, là một minh chứng cho thấy tầm quan trọng của việc làm chủ Thành Cổ Quảng Trị trong thời điểm quyết định năm 1972. Khi một giải pháp có lợi cho ta tại Hội nghị Pari cơ bản đã được định đoạt, thì việc giữ Thành Cổ không còn ý nghĩa nữa, ta quyết định rút ra khỏi Thành về án ngữ bờ Bắc sông Thạch Hãn, mặc dù cái giá phải trả cho sự kiện này khá đắt, lực lượng ta bị hao hụt thương vong khá nhiều.
Trong 81 ngày đêm đó để chiếm lại thành cổ Quảng Trị 16ha và cả thị xã Quảng Trị hơn 3km2, Mỹ đã ném xuống đây 328 ngàn tấn bom. Báo chí phương Tây thời đó bình luận tương đương sức công phá của 7 quả bom nguyên tử Mỹ đã ném xuống Hiroxima Nhật Bản năm 1945. Do vậy 81 ngày đêm ấy toàn bộ thị xã và tòa thành cổ này bị san bằng. Thành Cổ chỉ còn dấu vết của một số đoạn thành, lao xá, cổng tiền, hậu... Từ năm 1993 - 1995, hệ thống hào, cầu, cống, một số đoạn thành, cổng tiền đã được tu sửa.
Cũng trong 81 ngày đêm đó, hàng ngàn chiến sĩ đã hy sinh tại đây chưa lấy được hài cốt vì khói lửa bom đạn quá nhiều, xương máu các anh đã hòa quyện vào gạch đá đổ nát. Chính vì vậy mà ngày nay tại trung tâm di tích người ta xây đài tưởng niệm hình thành ngôi mộ chung cho hàng ngàn chiến sĩ đã ngã xuống trong những ngày đêm khốc liệt này.
Thành Cổ Quảng Trị ngày nay - Đài tưởng niệm được mô hình hoá thành nấm mộ chung

 
đài tưởng niệm Thành Cổ

Ngôi mộ tập thể này được thiết kế theo quan niệm triết lý âm dương mang ý nghĩa sâu sắc là để siêu thoát cho linh hồn những người đã khuất. Dưới chân nấm mồ được đắp theo hình bát giác tượng trưng cho bát quái, bốn lối bậc cấp đi lên tượng trưng cho tứ tượng, tầng dâng hương là tầng lưỡng nghi. Bên trên là mái đình Việt cách điệu, trên mái đình là bình thái cực. Theo quan niệm triết lý phương Đông thì thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái vận hành sinh vạn vật làm vũ trụ phát triển không ngừng. Trên tầng lưỡng nghi gồm hai nữa âm và dương: nữa bên nước là nữa âm, nữa bên nền đỏ là nữa dương. Người ta quan niệm rằng trong cuộc sống này âm dương luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau như: giữa trời và đất, giữa ngày và đêm, giữa người sống và người chết đó là hình thái âm dương. Và âm dương không bao giờ hoạt động độc lập mà bao giờ trong âm cũng có dương và trong dương cũng có âm, âm dương luôn hoà quyện vào nhau. Có 81 bậc thang đi lên tượng trưng cho 81 ngày đêm chiến đấu ở thành cổ Quảng Trị.

thành cổ quảng trị

Ngay nữa phần âm người ta cho làm một cây đèn màu đỏ tượng trưng cho phần dương trong âm. Đèn này có chiều cao 8,1m tượng trưng cho 81 ngày đêm và được ví như “Đèn thiên mệnh” với chức năng thiêng liêng là chuyển tải linh hồn các chiến sỹ giải phóng quân từ cỏi âm về cỏi vĩnh hằng. Trên đỉnh của cây thiên mệnh có ngọn lửa mang ý nghĩa là ánh hào quang của cuộc chiến 81 ngày đêm quyết tử cho tổ quốc quyết sinh trên chiến trường Quảng Trị. Giữa cây thiên mệnh người ta làm ba áng mây tượng trưng cho tam tài: Thiên - Địa - Nhân với ý nghĩa là cầu nối giữa trời, đất và con người. Theo phong tục của người Á Đông chúng ta thường hay cúng cơm cho người đã khuất vì vậy trên cây đèn người ta đắp 3 bát cơm để tượng trưng cho ý nghĩa đó.
Nữa phần dương còn lại được lát bằng nền gạch đỏ là màu của sự sống sự sinh sôi nảy nở. Trên phần dương có một lỗ tròn tượng trưng cho phần âm trong dương, phần âm trong dương này thông vào lòng nấm mồ. Lòng nấm mồ rỗng có 2 trục đường chính giao nhau về tứ phương, về mặt tâm linh thì đây là nơi hội tụ linh hồn của các chiến sỹ tứ phương về nấm mồ chung này. Ở chính giữa là nơi đặt hành trang người lính: Một chiếc mủ tai bèo, một đôi dép cao su, một bi đông nước, một khẩu súng AK và một chiếc ba lô. Giản dị và thân thương mà các anh đã làm nên lịch sử.

Ở giữa hai phần âm và dương có đặt một lư hương để cho mọi người khi đến Thành Cổ thắp một nén hương với lòng thành tâm cầu nguyện mong rằng linh hồn các anh sẽ từ cõi âm theo đèn thiên mệnh siêu thoát về cõi vĩnh hằng và sẽ thanh thản nơi chín suối.

Phía bên ngoài tầng lưỡng nghi còn có 81 bức phù điêu là 81 tờ lịch ghi lại từng ngày một của cuộc chiến 81 ngày đêm tại Thành Cổ Quảng Trị từ 28/06/1972 - 16/09/1972 theo chiều ngược kim đồng hồ.

Do hàng ngàn chiến sỹ ta cho đến hôm nay vẫn còn nằm dưới mảnh đất này, vì thế mà các công trình dưới thời nhà Nguyễn sẽ không còn được phục dựng lại nữa. Thành Cổ được xây dựng thành một công viên văn hoá, tưởng niệm và tri ân tôn vinh những người đã vĩnh viễn nằm nơi lại đây. “Cho tôi hôm nay vào Thành Cổ thắp một nén nhang viếng người nằm dưới cỏ. Cỏ xanh non tơ cỏ xanh non tơ xin chớ vô tình”. Lời bài hát “Cỏ non Thành Cổ” của nhạc sĩ Tân Huyền cũng chính là lời nhắn nhủ của cựu chiến binh Phạm Đình Lân từ Hà Nội về thăm lại chiến trường xưa. Anh đến với đài tưởng niệm cho hàng ngàn đồng đội đang yên nghĩ vĩnh hằng dưới lớp cỏ non xanh của khu di tích thắp nén tâm hương mà lòng sót xa nhắn nhủ:
Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi
Cho đồng đội tôi nằm yên dưới  cỏ
Trời Quảng Trị trong xanh và lộng gió
Dẫu ồn ào đừng lay động hàng cây.
………………………………….
Nhẹ bước chân và nói khẻ thôi
Thành Cổ rộng sao đồng đội tôi nằm chật
Mỗi tấc đất là một cuộc đời có thật
Cho tôi hôm nay đến nghẹn ngào.

Thành Cổ Quảng Trị ngày nay

Phía tây Thành Cổ, song song con đường từ cửa hữu của thành ra thẳng bờ sông Thạch Hãn ngày nay là một công viên, quảng trường rộng lớn, nối liền quần thể di tích Thành Cổ - sông Thạch Hãn; gồm các hạng mục chính như tháp chuông, nhà thả hoa đăng hai bên bờ sông.


Tháp chuông Thành Cổ

Tháp chuông được khánh thành vào ngày 29-4-2007; chuông được đánh vào các ngày lễ, ngày rằm... vọng tưởng linh hồn các liệt sĩ. Quả chuông đồng có chiều cao 3,9 mét, đường kính 2,15 mét, trọng lượng gần 9 tấn, được treo trên tháp có chiều cao gần 10 mét.
Nhà tưởng niệm, Bến hoa đăng
Quảng trường Thành Cổ nối liền không gian giữa thành cổ với sông Thạch Hãn. Nơi đây có nhà tưởng niệm liệt sĩ nằm ven bờ hữu ngạn sông Thạch Hãn.


bến hoa đăng bờ Nam Thạch Hãn



Bến hoa đăng bờ Bắc, đối diện với quảng trường Thành Cổ

Sông Thạch Hãn, cũng là nơi hy sinh của không biết bao nhiêu chiến sĩ từ phía Nhan Biều, Ái Tử vượt sông để vào Thành Cổ để tiếp tế và chiến đấu. Vào các ngày lễ lớn hàng năm, đặc biệt vào Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7), chính quyền địa phương tổ chức lễ thả đèn, thả hoa trên sông Thạch Hãn để tưởng niệm liệt sĩ đồng thời ở hai bên bờ sông.
Thành cổ Quảng Trị là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống yêu nước và là điểm thu hút hấp dẫn khách tham quan trong nước và bè bạn quốc tế. Để hiểu rõ và trực quan hơn đến với thành cổ quảng trị du khách sẽ được hướng dẫn thăm nhà bảo tàng nơi đây trưng bày những di vật và tái hiện lại tất cả lịch sử về Thành Cổ Quảng Trị từ khi xây dựng đến ngày đất nước thống nhất.
Quangtri360.com