THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THI VÂN YÊN TỬ

SỚM CHIỀU DU NGOẠN CÙNG MÂY NÚI
HOA TRÁI QUA NGÀY TA VỚI TA

Thứ Bảy, 27 tháng 2, 2010

Nhớ Nguyễn Hoàng

Người thành cổ Quảng trị
Viết bởi nguyễn thị hồng xô   
AT - Thăm trường cũ
Tên trường không còn nữa
Ngẩn ngơ đau
Vừa mất một điều chi?
Gió Lào thổi xạc xào ngọn liễu
Quá khứ về trong ký ức chiều ni
Thuở nón trắng em thơm
Thuở quần anh xanh ngắn cũn
(Cha mẹ nghèo con lại lớn nhanh)
Thầy trò tứ xứ sân trường chật
Thuở thương nhau áo rách nên lành
Thuở bằng hữu "lên xanh" (*) 
Thương người ở lại
Xuống đường
Hào khí tiếng loa vang Quảng Trị rung lên
Những mùa tranh đấu
Em bên anh sát cánh
Nguyễn Hoàng!
Dĩ vãng đẹp câu hò Ái Tử
Nơi tiền nhân khai mở nước non nhà
Tên Nguyễn Hoàng đã hồng trang sử
Lại nhân từ trong tâm khảm học trò quê
Về trường cũ
Không gian xưa còn đó
Mà tên trường lẩn khuất phương mô?
Nhớ Nguyễn Hoàng
Bạn ơi ta nhớ!
Cái tên Người xuyên suốt một đời ta.
(*) : đi hoạt động cách mạng

VÕ QUÊ 
Bài này Bằng lăng sưu tầm được thấy hay nên đưa lên cho mọi người đọc.

Mẹ Gio Linh - Mẹ Việt Nam

Người thành cổ Quảng trị

-->
“Gan Mai Xá, đá Hảo Sơn”, danh tiếng làng Mai đã lừng vang trong câu tục ngữ truyền đời ấy của người Quảng Trị. Như thừa hưởng được phong vận, chính khí của trời đất xứ này, cả đến hoa mai của làng Mai không chỉ lừng hương với gió mà còn lừng hương cả trong dòng sử thơm. Cụ Nguyễn Du viết: “Mai cốt cách”. Người làng Mai truyền tụng câu “Mai vàng tụ nghĩa”.
Thuở đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, vua Duy Tân ra Cửa Tùng lấy cớ “nghỉ mát” để che mắt giặc, kỳ thực vua tìm người thân tín họp bàn việc Cần Vương, cứu nước, ở Quảng Trị đã mọc nên sáu vườn đào tụ nghĩa. Đó là vườn đào Tường Vân, Triệu Phong của cụ Lê Thế Vỹ (thân phụ của hai cụ Lê Thế Hiếu, Lê Thế Tiết, hai nhà cách mạng tiền bối tiếng tăm của tỉnh Quảng Trị), vườn đào Cam Lộ của cụ Nguyễn Khoá Bảo, vườn đào Linh Yên, Triệu Phong của cụ đề đốc Nguyễn Thành Đốc, người mang bầu máu nóng “bình Tây, sát tả”, bị giặc Pháp xử trảm ở bãi bồi làng Nhan Biều, Triệu Thượng, Triệu Phong, vườn đào Bồ Bản, Triệu Phong của cụ Ấm Muộn, vườn đào Bích Khê, Triệu Phong của cụ Hoàng giáp Hoàng Hữu Bính và vườn đào Mai Xá, Gio Linh của cụ tú tài Trương Quang Cung. Môn đệ vườn đào Mai Xá họp mặt, khi ở bến đục Hà Trung, Gio Linh, khi ở lòi Mai Xá. Mỗi độ xuân về, lòi Mai Xá cây xanh, cát trắng bỗng thắm vàng trong sắc rừng mai nở, vì thế, vườn đào Mai Xá được gọi tên “Mai vàng tụ nghĩa Cần Vương”. Trong những lần họp mặt, các vị tụ nghĩa Cần Vương đã đọc Hịch Cần Vương với những dòng hiệu triệu thống thiết: “Thế nước như trứng chồng, chỉ có hợp quần sức mạnh mới lên!”. Ở làng Mai Xá bấy giờ có cụ Trương Quang Đông đi lính Cần Vương được hàm bát phẩm. Đêm nào, ở nhà cụ Đông xuất hiện một vị khách giả dạng thầy đồ, hoặc thầy bói, hoặc lính lệ Nam triều đến nhỏ to mưu sự với cụ thì ngay đêm đó, những người phụ nữ phải lo nấu từ hai đến ba nồi bung cơm vắt, từng vắt ở giữa có muối mè, để ra nhiều nống chừng trăm vắt, xong có người đến lấy, gánh ra đình làng phân phát cho những người đợi sẵn. Những người này nhận cơm vắt rồi biến mất tăm. Làng Mai đã nuôi những người đi đánh Tây bằng nắm cơm vắt ấm nồng như thế đó. Ngược dòng lịch sử mới thấy, chính hạt gạo khó nhọc làng Mai đã từng nuôi lớn sức mạnh võ công của những người theo nghĩa khí phong trào Tây Sơn.
Tộc phả họ Bùi làng Mai còn truyền tên tuổi, công trạng của hai vị quan võ thời Tây Sơn. Đó là chánh tiền chỉ huy sứ Bùi Văn Hịch (chỉ huy một doanh 500 người), có công đặc biệt, sau về làng “giữ ngôi tiên chỉ, giàu có vạn tiền, ruộng liền một dải”. Đó là tiền đạo thuỷ binh Bùi Văn Huy với sức khoẻ và võ công cao cường, ngỡ như huyền thoại: “Chỉ huy tiền đạo thuỷ quân đánh vào căn cứ mạnh của địch, sức khoẻ bẻ gãy cây tre, để cối đá trên bụng cho người giã trắng gạo, uống rượu bao nhiêu cũng không hề say”. Mảnh đất từng hun đúc nên nghĩa khí “Mai vàng tụ nghĩa” lúc đất nước đương cơn bĩ cực cũng chính là nơi sớm sản sinh những hạt giống đỏ. Hưởng ứng phong trào Thanh niên cách mạng đồng chí hội những năm 1925-1929, chi hội Thanh niên cách mạng đồng chí hội huyện Gio Linh đã được thành lập, trong đó có ba hạt giống đỏ Mai Xá là Trương Quang Phiên, Trương Khắc Khoan và Trương Quang Côn, lấy đình làng Mai Xá Chánh làm điểm hẹn liên lạc. Sau vụ rải truyền đơn khắp tỉnh đêm 17-6-1929 kêu gọi thành lập Đảng Cộng sản mà tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí hội của tỉnh có tham gia, bọn địch tức tối lùng sục, dò xét manh mối. Nhiều hội viên Thanh niên đã bị bắt, trong đó có ba hạt giống đỏ Mai Xá.
Bọn thực dân Pháp và Nam triều ở tỉnh Quảng Trị đã kết án 31 hội viên Thanh niên tại phiên toà ngày 13-10-1929, trong đó Trương Khắc Khoan 11 năm tù, Trương Quang Phiên 10 năm tù và Trương Quang Côn 11 tháng tù. Nhưng tù tội chẳng qua là nơi rèn khí tiết, đợi thời cơ. Và rồi thời cơ khởi nghĩa, cướp chính quyền đã đến với khí thế trống giong, cờ mở của mùa thu tháng Tám. Ngày 18-8-1945, tại sân đình làng Mai Xá Chánh, cụ Trương Quang Phiên, hạt giống đỏ “Thanh niên” ngày nào đã chủ trì lãnh đạo việc cướp chính quyền ở địa phương và chuẩn bị ra mắt Uỷ ban khởi nghĩa. Cũng tại sân đình này, đêm 1-9-1945, cụ Trương Quang Côn, Chủ nhiệm Việt Minh xã đã tập hợp, dẫn đầu một đoàn đại biểu dân làng náo nức tiến về thị xã Quảng Trị mừng ngày Quốc khánh 2-9-1945. Nhưng thực dân Pháp không từ bỏ âm mưu cướp nước ta lần nữa. Vì thế, cùng với cả nước, người làng Mai đã tức thì đứng lên kháng Pháp bằng việc gửi con em vào đoàn Nam tiến để chia lửa với chiến trường miền Nam. Cùng với cả huyện, người làng Mai đã góp phần tạo dựng nên “Huyện kháng chiến kiểu mẫu” Gio Linh-danh hiệu được tỉnh công nhận năm 1949-bằng “kiểu mẫu” riêng, bằng cốt cách truyền thống hun đúc và bằng cả những huyền thoại có thật: đau thương mà bi tráng, uất hận mà khí tiết...trong đó mãi lung linh huyền thoại mẹ Gio Linh.
Ký ức người Mai Xá không bao giờ quên ngày uất hận, ngày giặc Pháp ở đồn Nhĩ Hạ bắt được hai anh Nguyễn Đức Kỳ, xã đội trưởng xã Linh Hưng (nay là xã Gio Mai) ở thôn Lâm Xuân, Gio Mai và anh Nguyễn Phi, cán bộ bình dân học vụ ở miếu Đôi ngoài đồng Mai Xá đưa về đồn tra tấn suốt ngày đêm, rồi hành quyết cắt đầu hai anh đem cắm ở chợ trước cổng đình làng Mai Xá Chánh ngày 16-8-1948. Ông Trương Ký Túc, người làng Mai Xá Chánh, nay đã 72 tuổi, lúc đó hãy còn là một chú bé đi chăn bò chứng kiến sự việc bi thương này, nhớ lại: “Sáng đó, lúc 4 giờ tôi đã dậy đi lùa bò. Do bò chạy vào đình làng, tôi phải vào lùa, chợt thấy có hai đầu người bị Tây cắm trên đòn xóc trước đình. Tôi vuốt vào cái đầu người thấy láng mượt, sợ quá, tôi vội quay ra, bị con bò đạp lên chân làm toe móng chân. Chỗ móng chân bị bò đạp vẫn còn “kỷ niệm” mãi đến nay”. Đã làm cái việc dã man trung cổ là bêu đầu, lại còn xức dầu bidăngtin láng mượt lên đầu hai chiến sĩ theo kiểu “hoa lệ” thực dân đểu cáng, giặc Pháp hòng răn đe, làm nhụt ý chí kháng chiến của quân dân Gio Linh. Nhưng chúng đã nhầm to và càng làm mồi thêm ngọn lửa căm thù bốc cao như núi. Trước khi bị hành quyết, hai anh đã dõng dạc gửi lại nghĩa khí cho đời, như trong bài thơ “Mẹ già liệt sĩ làng Mai” của Mai Quang Trí, một tác giả quê ở chính làng Mai Xá Thị, Gio Mai, Gio Linh đã cảm khái và hào sảng viết: “Họ hô to “Độc lập muôn năm”, Họ hô lớn “Việt Nam bất diệt”...
Anh Nguyễn Đức Kỳ quê ở làng Mai Xá Thị, Gio Mai, Gio Linh, là con của ông Nguyễn Xun và bà Lê Thị Cháu (tên thật là Lê Thị Lý), dân làng quen gọi là ông bà Diêu Cháu. Anh Nguyễn Phi quê ở làng Mai Xá Chánh, Gio Mai, Gio Linh, là con của ông Nguyễn Sửu (thường gọi là ông Cửu Đen) và bà Hoàng Thị Sáng. Chính những người mẹ đứt ruột sinh ra những cái đầu gan góc đã quặn lòng nuốt hận mang thúng đi lấy đầu con về. Từ phía đình làng Mai Xá Chánh trong ngày trời đất nhuốm màu tang tóc, có bóng những người phụ nữ cắp thúng mủng giả dạng đi chợ nhưng thực ra là đi lấy đầu liệt sĩ làng Mai, đóï là mẹ Lê Thị Cháu và bà Khương Thị Mén, thím của anh Nguyễn Đức Kỳ (bà Mén là vợ ông Nguyễn Văn Thạng, em ruột ông Nguyễn Xun), mẹ Hoàng Thị Sáng và bà Bùi Thị Con, thím của anh Nguyễn Phi (bà Con là vợ ông Nguyễn Văn Di, em ruột ông Nguyễn Sửu). “Con mang theo dòng máu anh hùng, Sống chiến đấu, chết toàn danh tiết, Con ra đi hình hài tuấn kiệt, Con trở về có chiếc đầu thôi”.
Để tránh Tây lùng sục, các mẹ đã giấu đầu hai anh kín đáo ở trên tra, gần nóc nhà, sau đó nhờ người đóng những chiếc hòm đặc thù hình vuông khâm liệm hai anh rồi đem chôn. Đầu anh Kỳ được chôn tại vùng Dôông, Mai Xá Chánh, đầu anh Phi được chôn tại nghĩa địa Cồn Dài, xóm Kênh, Mai Xá Chánh. Ba đêm sau, tại nhà mẹ Cháu, bộ đội, du kích đã về cùng bà con quây quần làm lễ truy điệu cho các anh sát nách đồn giặc ở Mai Xá. Gương hy sinh bất khuất của hai anh đã có sức hiệu triệu lay động mạnh mẽ lòng người, sức mạnh kỳ diệu đó vang vọng cả trong thơ và trong nhạc: “Đồng đội đến trăm người, trăm hỏi, Anh em đầy đủ mặt bốn bề, Nhìn nhau đi cho dạ tái tê, Cho uất hận trào lên cực độ” (Mai Quang Trí).
Từ đó, huyền thoại mẹ Gio Linh đã kết nên tượng đài đau thương lộng lẫy, bất diệt sừng sững đổ bóng xuống những giai điệu có sức lan toả nhanh rộng thời bấy giờ trong bản nhạc “Bà mẹ Gio Linh” của nhạc sĩ Phạm Duy: “Mẹ già cuốc đất trồng khoai, nuôi con đánh giặc đêm ngày, cho dù áo rách sờn vai, cơm ăn bát vơi bát đầy, hò ơi ơi ới hò...Mẹ già tưới nước trồng rau, nghe tin xóm làng kêu gào, quân thù đã bắt được con, mang ra giữa chợ cắt đầu, hò ơi ơi ới hò, nghẹn ngào không nói một câu, mang khăn gói đi lấy đầu”. Hình ảnh bên mẹ sau cái chết nghĩa khí của con mẹ đã chắp cánh cho Phạm Duy viết nên những nốt nhạc đau thương nhưng không bi luỵ mà bi hùng: “Đoàn người kéo đến nhà chơi, khơi vui bếp lửa tơi bời...Khi trông con nuôi xúm xít dưới túp nhà, mẹ nhìn đàn con thương nhớ đứa con xưa”. Con mẹ đã hy sinh, nhưng mẹ có cả đàn đàn con nuôi là bộ đội về làm ấm lòng mẹ.
Các anh ngã xuống trút nghĩa khí cho chính khí đất trời, còn hình hài đã hoá thân vào đất đai sông núi, không mất đi đâu cả, cho dẫu chết đầu lìa khỏi xác. Hai anh đã được mẹ Gio Linh lấy đầu về chôn cất, nhưng tấm thân còn vùi khuất đâu đó bên đồn Pháp dã man Nhĩ Hạ. Mãi mấy năm sau, khoảng năm 1952-1953, lúc thế giặc nao núng, gia đình mới đi lấy được thân xác hai anh về. Ông Nguyễn Sửu, bố anh Nguyễn Phi đã đi lấy thân xác anh, cùng đi có đứa cháu ngoại mới 9 tuổi lon ton theo, đó là chú bé Trần Thành Huế, cháu gọi anh Nguyễn Phi bằng cậu ruột. Tôi đã hỏi chuyện giáo sư tiến sĩ Trần Thành Huế, Chủ nhiệm khoa Hoá, Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, tức là chú bé thuở ấy về ký ức xưa đau đớn, ngậm ngùi. Trải qua tháng năm dằng dặc, ký ức thuở còn bé trong ông vẫn giữ vẹn nguyên đến từng chi tiết về hình dáng người cậu oanh liệt: “Khi đào hố lên, ở hố chôn tập thể, tôi thấy có tóc của những người phụ nữ rất xanh. Những người đã chôn xác cậu tôi và ông Kỳ họ rất có ý thức, họ chôn riêng ra một góc, nên ông ngoại tôi tìm ra được. Cậu tôi có một chân bị tật vòng kiềng, xương ống chân bị cong. Nhờ dấu hiệu đó, ông ngoại tôi nhận ra ngay hình hài cậu tôi”. Thi hài các anh vậy là đã được gắn kết trọn vẹn. Mộ anh Kỳ hiện được đặt trong khu lăng mộ phái Nguyễn Đức tại Cồn Go, Mai Xá Thị, mộ anh Phi đặt trong khu lăng mộ gia đình tại Cồn Dài, xóm Kênh, Mai Xá Chánh.
Mỗi lần về Gio Mai, Gio Linh, tôi thường tần ngần đến viếng đình làng Mai Xá Chánh để được sống trọn vẹn với niềm cảm khái trào dâng về nghĩa khí “gan Mai Xá” và cốt cách “mai vàng tụ nghĩa”. Cái thế vững như bàn thạch của đất này đã được diễn tả qua câu đối tạc trên cổng đình Mai Xá Chánh: “Thượng hạ cửu xã phường, giang sơn ngật để trụ, Tây Đông giáp Tiên Việt, môn địa tráng trường thành”, tạm dịch: trên dưới chín xã, phường (đất Mai Xá ngày trước rất rộng gồm xã Mai Xá Chánh và 8 phường: Xuân Lộc, Đào Xuyên, Quảng Xá, Nam Đông, Nam Tây, Bái Sơn, Phú Phụng, Phú An, gọi là bát phường Mai Xá thuộc tổng Bái Trời), giang sơn cao gốc vững, Tây Đông giáp Cồn Tiên, Cửa Việt, cửa đất rộng thành dài. Phát huy truyền thống “kháng chiến kiểu mẫu” thời chống Pháp, tạo thế tấn vững vàng trên “dãi trường thành” này,
Anh Trương Quang Tùng, một “nhà khuyến học” của làng Mai, một người say sưa sưu tầm những tư liệu lịch sử về làng Mai đã nhiệt tình dẫn tôi ngược chuyến tàu thời gian trở về với quá khứ làng Mai oanh liệt. Anh tất tả ngược xuôi dẫn tôi đi thăm thú nết đất, nét người Gio Mai. Một buổi chiều vàng trong gian nhà nhỏ ấm cúng của mình, anh mở chiếc máy cát xét cũ kỹ cho tôi nghe đoạn băng ghi âm cũng đã rất cũ, ghi lại buổi phỏng vấn nhạc sĩ Phạm Duy và ca sĩ Thái Thanh về bài hát “Bà mẹ Gio Linh” do đài Pháp RFI thực hiện năm 2001. Đoạn băng nghe tiếng được, tiếng mất nhưng vẫn nổi rõ tiếng lòng thổn thức của Phạm Duy và Thái Thanh về bà mẹ Gio Linh. Phạm Duy cho biết ông sáng tác “Bà mẹ Gio Linh” trong có một đêm, lúc nằm trên giường tre ở chiến khu. Ông nghẹn ngào kể: “Tôi làm xong tôi khóc. Tôi nhớ hoài, tôi khóc như một đứa con nít”. Giọng Thái Thanh chùng xuống, vẻ thấm thía: “Một bà mẹ bình thường con cái đã là một gánh nặng lớn của mẹ rồi, huống chi lại còn trong thời chiến tranh nữa. Cái bi kịch này nó ghê gớm quá. Lần nào hát “Bà mẹ Gio Linh” tôi cũng khóc”. Anh Tùng và tôi đặc biệt cùng để ý đến đoạn bình luận của đài Pháp: “Những giây phút sáng tạo như thế không đến nhiều lần trong đời nghệ sĩ...Từ niềm đau cá nhân của một bà mẹ đã thăng hoa thành niềm đau chung của một dân tộc và của loài người”. Đài Pháp quả đã công nhận cái “thần hứng” mà bà mẹ Gio Linh đã mang lại cho người nghệ sĩ. Nội dung buổi phỏng vấn này tôi đã nghe rõ hơn qua đĩa CD do nhạc sĩ Phạm Duy mở cho nghe, trong lần tôi gặp nhạc sĩ đang ở tại Khách sạn Saigon Star. Sau khi được Nhà nước cho phép hồi hương, nhạc sĩ đã bộc bạch trên báo chí rằng chặng đời ba mươi năm qua ở hải ngoại của mình như một giấc ngủ dài, tỉnh dậy thấy trời sáng. Khi giai điệu dân ca bi hùng của “Bà mẹ Gio Linh” được tấu lên qua đĩa CD, người nhạc sĩ già 85 tuổi làm lại cuộc đời, người nhạc sĩ già viết đơn xin Mẹ Việt Nam “cho đi lại từ đầu”, như lời trong ca khúc “Kỷ niệm” (ca khúc này, cùng với “Bà mẹ Gio Linh” nằm trong số 19 ca khúc của Phạm Duy đã được Bộ Văn hoá cho phép phổ biến), người nhạc sĩ trắng xoá cả mái đầu vì ôm mối sầu xa cố xứ này đã lặng người đi. “Người Việt Nam vốn theo dòng mẫu hệ, tình mẹ nặng lắm-nhạc sĩ Phạm Duy xúc động tâm sự- Một đất nước có một nhân vật như bà mẹ Gio Linh đáng quý lắm”. Hồi ấy, năm 1948, trong chuyến công tác vào chiến trường Bình Trị Thiên, Phạm Duy đã đến làng Mai, được nghe và được gặp hình ảnh bà mẹ Gio Linh với câu chuyện đau thương “chấn động” lẫy lừng. Mẹ Diêu Cháu với gương mặt đã mang nhiều nếp nhăn nheo của thời gian nhưng đối với Phạm Duy, “mẹ đẹp như một vị thánh” (chữ dùng của Phạm Duy), khiến cho Phạm Duy bị xâm chiếm cả cõi lòng, trở nên lúng túng không biết nói năng gì với mẹ, đành nhờ người đưa đường nói hộ.
Mẹ dẫn Phạm Duy đi qua một rặng tre để ra tới chợ làng Mai, nơi ngày nào mẹ đến lấy đầu con “tay nâng nâng lên, rưng rức nước mắt đầy”. Từ đó, mẹ Gio Linh đã thành một ám ảnh nghệ thuật và ám ảnh cuộc đời đeo đẳng, “không buông tha” Phạm Duy cả nhiều năm về sau này. Năm 1951, khi trót bước chân qua Phát Diệm để rời xa cuộc kháng chiến chống Pháp, Phạm Duy đã khóc vì tiếc thương cho những năm đem hết tâm trí ra phục vụ cách mạng và kháng chiến. Nước mắt Phạm Duy lúc rơm rớm, lúc trào rơi vì bao hồi ức nhưng bỗng đã tuôn ào ào khi nghĩ đến chuyện bi hùng của bà mẹ Gio Linh. Năm 2003, Phạm Duy đã về thăm lại chỗ nhà cũ của mẹ Diêu Cháu. Năm 2005, nhạc sĩ được hồi hương, “lá rụng về cội” và bài hát “Bà mẹ Gio Linh” được phép phổ biến. Ôi! Mẹ Gio Linh, Mẹ Việt Nam đôn hậu và bao dung nhường nào, bởi mẹ biết năm ngón tay có ngón ngắn, ngón dài, nhưng ngắn dài đều trên một bàn tay. Trong một thư mail cho nhạc sĩ Phạm Duy, tôi có nhắc một ý của nhà thơ lớn Tố Hữu nói sau ngày đất nước giải phóng năm 1975 rằng, Phạm Duy hãy cứ ở lại đất nước, đừng đi đâu cả và tiếp tục sáng tác, để khúc giữa qua một bên, lấy khúc đầu (kháng chiến) và khúc đuôi (hoà bình). Gửi mail lại cho tôi, nhạc sĩ Phạm Duy hứng khởi viết: “Hãy sống với một Việt Nam hôm nay và ngày mai, rạng rỡ huy hoàng”.
“Xuân làng Mai đã trổ màu”, câu thơ của nhóm Bích Khê Hoàng gia thi phái (nhóm thơ họ Hoàng làng Bích Khê, Triệu Long, Triệu Phong) gửi báo “Xuân làng Mai”, tờ báo viết tay của người làng Mai ra đời thời tiền khởi nghĩa quả đã ứng vận với hôm nay. Đình Mai Xá Chánh đang được trùng tu lại và đề nghị công nhận di tích lịch sử của tỉnh. Cả đến con rùa trong đình này cũng có một số phận hy hữu lạ thường. Năm 1968, lính Mỹ đưa xe về húc tan đình làng và lấy đi con rùa trong đình, con rùa quý, trên thân mạ sắc vàng và có hai con hạc đứng. Năm 1995, chính người lính Mỹ lấy rùa đình làng Mai Xá Chánh đã mang rùa sang trả lại cho làng. Người Mỹ cũng đã biết lỗi trước văn hoá làng Mai vậy.
Người làng Mai không những đánh giặc dũng khí có thừa mà còn chuộng tài hoa văn chương, học vấn hết mực. Một sớm, anh Tùng dẫn tôi băng vào một vùng cây cối nguyên sinh rậm rạp, đó là lòi Mai Xá Chánh, nơi người làng Mai đã dựng nên Văn Thánh vào năm 1910 nhằm tôn vinh những người học hành đỗ đạt. Ngày trước, cạnh Văn Thánh có một cây trầm nguyên sinh to lớn, mình chảy nhựa đầy. Làng làm lễ “khuyến học” tại Văn Thánh trong hương nhựa trầm xông ngào ngạt. Anh Tùng và tôi bâng khuâng bước trên nền Văn Thánh, lần tìm những viên gạch cũ, bóc gỡ lớp rêu phong của thời gian vẫn thấy hiện nguyên sắc nâu hồng được nung đúc từ bầu máu nóng của ông cha. Năm 1980, nhà khảo cổ học Trần Quốc Vượng đã đến đây để khảo sát, cho đào hố khai quật. Ông đề nghị cho rào lại khu vực Văn Thánh để bảo vệ, trong khi chưa phục chế. Thời chiến dùng võ công. Thái bình dùng văn trị. Hương mai, hương trầm làng Mai thêm ngát lừng.


NGUYỄN HOÀN

Dấu tích người vợ bất hạnh của vua Thành Thái bên dòng Ô Lâu

Người thành cổ Quảng trị

Quảng Trị có cả một dòng sông tình sử, hay nói một cách khác, có một tình sử buồn thương mang tên một dòng sông quê mẹ dấu yêu, đó là “tình sử Ô Lâu”. Dòng sông Ô Lâu nằm ở cực Nam huyện Hải Lăng xưa là nơi “đưa duyên” cho mối tình giữa chàng thư sinh xứ Nghệ với cô lái đò trên sông này nảy nở nhân một chuyến chàng “qua sông luỵ đò” để vào Kinh ứng thí. Sau khi thi đỗ trạng nguyên xong, chàng về tìm lại bến sông xưa thì mới biết, người yêu đã qua đời trong tương tư mòn mỏi, để lại mối hận tình thảm thiết trong cổ tích và ca dao:
Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa, bến cũ, con đò khác đưa...
Lâu nay, người ta những tưởng đó là “tình sử Ô Lâu” duy nhất. Nào ngờ, bên dòng Ô Lâu còn có một cuộc “lỗi hẹn” trăm năm buồn thảm hơn nữa giữa vua Thành Thái với bà Dương Thị Ngọt ở thôn Hội Kỳ, xã Hải Chánh, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, một người con gái đẹp như thể được sinh ra từ nguồn nước Ô Lâu ngọt mát.
Trong quá trình điền dã để lần theo dấu vết cuộc tình này, một cuộc tình chưa thấy được viết ra trong các sách kể chuyện “thâm cung bí sử” triều Nguyễn, chúng tôi may mắn được ông Dương Quang Diêu ở Hội Kỳ, người cháu họ của bà Ngọt ở đời thứ 3 (nếu tính từ đời bà) cung cấp một số tài liệu xưa và những lời kể “mật truyền” trong gia tộc để ít nhiều dựng lại được cuộc tình này.
Bà Dương Thị Ngọt là con gái của ông Dương Quang Xứng, một vị quan trải qua nhiều đời vua triều Nguyễn. Trong gia phả của gia tộc họ Dương tại nhà ông Dương Quang Diêu, hiện còn cất kèm một tờ sắc của vua Đồng Khánh và một văn bản của Bộ Lại, thời vua Thành Thái ban cấp cho ông Dương Quang Xứng, cho biết ông Xứng từng giữ chức Viên ngoại lang ở Nha thương trường (tức kho lương thực), tiếp đó, vào năm 1885, niên hiệu Đồng Khánh được thăng chức Lang trung, đến năm Thành Thái thứ 6 (1894) được thăng chức Thái bộc tự khanh, rồi đến chức Bố chính tỉnh Khánh Hoà (chức quan trông coi việc tài chính ở tỉnh). Cùng với con đường thăng tiến của ông Xứng, bà Ngọt từ một cô thôn nữ “quê mùa” bỗng trở thành một “bà vua” là chuyện dễ hiểu.
Bà Ngọt được chọn làm bà phi thứ 9 của vua Thành Thái. Bia mộ trong lăng của bà đặt tại thôn Hội Kỳ, Hải Chánh đã ghi rõ điều đó: “Hoàng triều cửu giai tài nhân thuỵ Thục Thuận Dương Thị chi tẩm, Thành Thái thập tam niên bát nguyệt cát nhật tạo”, dịch là: Lăng của bà họ Dương, bà phi của nhà vua được xếp vào bậc “cửu giai tài nhân”, có tên thuỵ (tên đặt cho người có địa vị sau khi chết, dưới thời phong kiến) là Thục Thuận, lăng được dựng vào ngày lành, tháng 8, năm Thành Thái thứ 13 (tức năm 1901). Ta biết rằng, trong nội cung triều Nguyễn, kể từ đời vua Minh Mạng trở về sau, các bà phi được xếp hạng theo 9 bậc thứ tự gồm: nhất giai phi, nhị giai phi, tam giai tần, tứ giai tần, ngũ giai tần, lục giai tiệp dư, thất giai quý nhân, bát giai mỹ nhân và cửu giai tài nhân. Bà Ngọt được xếp vào bậc “cửu giai tài nhân”, bậc 9, được hưởng lương 180 quan tiền và 48 vuông gạo. Bà sinh được một hoàng nam nhưng bị đau chết, khi mới một tuổi. Là một bà vua nhưng bà Ngọt có số phận hết sức bi đát, do bởi bà đã được sinh ra bên dòng sông “tình sử Ô Lâu” định mệnh kia chăng?
Ông Dương Quang Diêu đã 70 tuổi, tuổi “cổ lai hy” mà vẫn còn minh mẫn nhớ như in những lời “mật truyền” trong gia tộc về cái chết oan khốc của bà Ngọt: “Vua Thành Thái không để tóc dài như các vua khác mà đã cắt tóc ngắn. Một hôm, sau khi đã cắt tóc ngắn xong, vua dạo một lượt qua các bà phi, hỏi xem có đẹp không. Bà nào cũng khen đầu vua đẹp. Chỉ riêng bà Ngọt đã không khen lại còn buột miệng bảo: “Trông giống như kẻ cướp ấy”. Vua nổi giận, liền đem bỏ bà Ngọt vào nấu trong vạc dầu”. Lời kể của ông Diêu về tình tiết dẫn đến cái chết của bà Ngọt có thể chưa sát với sự tình (thời nhà Nguyễn không có chuyện dùng vạc dầu để trị người phạm tội) nhưng rõ ràng là bà Ngọt đã phạm tôi khi quân (tội khinh vua), phải chuốc lấy cái chết. Còn nhớ, dười thời vua Minh Mạng, có một bà phi vào chầu vua 5 năm rồi mà chưa được chung chăn gối, một hôm, nhân vua ngủ trưa bèn liều hôn trộm vua một cái, vua còn xử tử ngay, huống nữa là trường hợp của bà Ngọt.
Dù bà Ngọt bị buộc tội chết, vua vẫn lo cho lễ mai táng bà chu đáo, theo đúng nghi thức xứng với một “bà vua”. Chính thế mà khi thuật lại đám tang của bà Ngọt với chúng tôi, ông Diêu đã thoát ra ngoài cái giọng trầm đục vì nặng nỗi bi thương để cất cao giọng pha chút tự mãn: “Đám tang bà Ngọt được đưa từ Huế về Quảng Trị bằng đò theo đường sông Ô Lâu, về cập bến chợ Hôm, huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế. Từ chợ Hôm, người ta gánh bộ quan tài bà Ngọt đi trên chiếu hoa rải cho đến tận thôn Hội Kỳ. Chi phí mai táng, xây dựng lăng tẩm, nhà vua phải chịu. Vua còn cấp cho 4 người từ phu coi lăng, mỗi người được cấp 3 sào ruộng miễn thuế và ngoài ra còn được miễn các thứ sưu dịch”.
Đến đây, có một điều nghi vấn đặt ra: nguyên nhân dẫn đến cái chết thảm khốc của bà Ngọt có liên quan sâu xa gì đến tâm sự u uất của vua Thành Thái không? Ông vua yêu nước Thành Thái đã từng giả điên để che giấu mưu đồ chống Pháp (bởi thế mà ông từng được mệnh danh là “vua điên”). Quyền hành nhà vua bị thực dân Pháp thu hẹp dần, mọi cải cách nhà vua đưa ra đều bị cản trở. Cả đến những cử chỉ “duy tân” của nhà vua như tự lái xe hơi, lái xuồng máy, cắt tóc ngắn...cũng bị khâm sứ Pháp và bọn bồi Tây dò xét, nghi ngại. Thậm chí, chúng còn phao tin nhà vua điên thật để kiếm cớ truất phế. Vậy cái chết của bà Ngọt có liên quan gì đến chuyện “giả điên” của vua Thành Thái không, có liên quan gì đến một khúc quanh của lịch sử không? Mọi uẩn khúc này hy vọng sẽ được thời gian soi xét.
NGUYỄN HOÀN

Chủ Nhật, 21 tháng 2, 2010

Bức họa Maja khoả thân

Người thành cổ Quảng trị
Tác giả:Samuel Edwards
Dịch giả:Mạc Mạc

BỨC HOẠ MAJA KHOẢ THÂN của Samuel Edwards là một cuốn tiểu thuyết lịch sử sôi động và hấp dẫn từ đầu đến cuối, một cuốn sách nồng nàn hơi ấm tình yêu Tổ Quốc, tình yêu tự do, công lý, tình yêu nghệ thuật, một cuốn sách phản ánh lịch sử và nghệ thuật trên quan điểm tiến bộ của thời đại chúng ta.
Ít có cuốn sách nào viết về một nghệ sĩ của quá khứ mà lại sinh động, phong phú và chứa đựng được nhiều tư tưởng tốt đẹp đến như vậy. Phải yêu và phải hiểu Gôya đến thế nào, và hơn nữa phải có một tình yêu sâu sắc đối với đất nước và nhân dân lao động Tây Ban Nha như thế nào, phải hiểu và đồng cảm với nghệ thuật và nghệ sĩ đến thế nào… mới có thể tái hiện lại cả một đất nước và con người vĩ đại qua mấy trăm trang sách làm say mê mọi người…
Samuel Edwards, một nhà văn tiến bộ Mỹ chưa phải là một tên tuổi lớn của văn học thế giới, nhưng rõ ràng chỉ với tác phẩm này thôi, đóng góp của ông thật đáng quý và đáng ghi nhận cho thể loại tiểu thuyết lịch sử và thể loại truyện danh nhân.
Nhưng tại sao lại có tiêu đề BỨC HOẠ MAJA KHOẢ THÂN? – Đó là một bức tranh danh hoạ của thiên tài Gôya, kết quả của tình yêu nghệ thuật và của những giây phút đắm say trong tình yêu của nghệ sĩ với Maria Cayettana, một phụ nữ quý tộc lừng danh tiêu biểu cho khát vọng tự do, dân chủ, cho ý chí chống lại triều đình phong kiến mục nát.
Toà án Giáo hội Tây Ban Nha, một công cụ của chế độ chuyên chế tàn ác, đã đưa bức hoạ này ra như một bằng chứng để kết tội hoạ sĩ. Chúng cho rằng vẽ người trần truồng là chống lại Thượng đế, chống lại con người là trọng tội. Nhưng Gôya, với lòng yêu và kính trọng vẻ đẹp của con người, vì những thôi thúc chống lại chế độ chuyên chế tàn bạo đè bẹp con người dưới những tín điều kinh viện học trung cổ của nó, đã dõng dạc trả lời:
- Thân thể trần truồng của đàn bà là tác phẩm tuyệt mỹ của tạo hoá, còn ý thức về sự tà dâm, về sự trần truồng ấy là sản phẩm của bản chất gian manh!
Cần phải đặt bức tranh vào bối cảnh lịch sử đã sản sinh ra nó để hiểu nó và hiểu Gôya, và hiểu vì sao tiểu thuyết này lại mang tên bức tranh ấy, một cái tên có ý nghĩa ẩn dụ, tuyệt nhiên chẳng phải vì muốn khơi gợi một ý nghĩ không lành mạnh nào…
Cuối tiểu thuyết này có những ưu điểm lớn: qua cuộc đời của một nghệ sĩ, nó làm ta hiểu và yêu cả một đất nước, một dân tộc. Dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ chuyên chế, những người lao động Tây Ban Nha luôn luôn nung nấu một ý chí đấu tranh cho tự do, công lý. Những con người bình thường ấy là bạn của Gôya, cũng như chính Gôya vĩ đại là con của một người thợ mộc bình thường ở một miền quê. Và khi quân xâm lược Pháp tới, những con người ấy đã đứng lên, cầm vũ khí, vào rừng sâu, chống giặc. Đất nước của những trận đấu bò tót, của những đấu sĩ bò tót (matađo) của những người áo vải, những người cùng khổ, những cô “maja”, đất nước của Xecvantec, của Gôya và của Picatxô sau này… đấy là một đất nước trong đau thương vẫn nồng thắm tình yêu đời, tình yêu công lý.
Những người Việt Nam chúng ta, qua kinh nghiệm của bản thân mình, qua cuộc chiến đấu mấy chục năm cho độc lập, tự do của Tổ quốc, thông cảm sâu xa điều này. Và cuộc đời của một nghệ sĩ vĩ đại như Gôya bao giờ cũng gắn liền với vận mệnh của Tổ quốc và nhân dân mình.
Bản thân cuộc đời Gôya là sôi động và phong phú. Nhưng nếu chỉ qua tóm lược tiểu sử hay qua sự thể hiện vụng về, sơ lược, sự phong phú ấy sẽ bị rơi rụng gần hết. Phải tái hiện lại. Nhưng bằng cách nào? Không thể bịa đặt, thêm thắt, mà phải căn cứ vào những sự kiện có thực trong cuộc đời nghệ sĩ, rồi bằng sự hiểu biết và rung cảm của mình đối với cuộc sống Tây Ban Nha thời đại Gôya, mà chắp cánh cho trí tưởng tượng và dựng lại cuộc đời ấy như chính mình từng chứng kiến.
Như thế cuốn sách làm phong phú thêm chứ không làm nghèo đi cuộc đời Gôya, mà vẫn chân thật, một sự thật đầy tính nghệ thuật, nghĩa là một sự chân thật có cân nhắc, chọn lọc và đạt đến sự hoàn mỹ. Có thể xem cuốn sách là một trong những mẫu mực về viết danh nhân lịch sử, danh nhân văn hoá.
Chúng tôi đã từng đọc Pie đại đế của A. Tôlxtôi, một mẫu mực (tuy A. Tôlxtôi chưa viết xong) về tiểu thuyết lịch sử. Cuốn sách này là một mẫu mực khác, của một tác giả khác viết về đất nước khác.
Chúng tôi hy vọng rằng với việc xuất bản cuốn sách này sẽ cung cấp thêm một tài liệu tham khảo về việc viết danh nhân ở nước ta. Và tỉnh Nghĩa Bình, quê hương của anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, quê hương của Đào Tấn, quê hương của đồng chí Phạm Văn Đồng… mong mỏi có được những cuốn sách tái hiện cuộc đời của các danh nhân ấy trong cuộc đời của đất nước và nhân dân ta qua mấy thế kỷ đấu tranh kiên cường, bất khuất.
Như thế, mặc dù rất hấp dẫn – cái hấp dẫn trước hết là thuộc về chất liệu, về nội dung hừng hực sôi động của cuộc đời Gôya, thuộc về nghệ thuật biểu hiện của tác giả, cuốn sách này mang trong nó những chủ đề lớn, rất gần gũi với tâm hồn dân tộc ta. Đây không phải thuộc loại sách hấp dẫn bằng cái màu mè bên ngoài, cái nhảm nhí nhất thời, mà hấp dẫn bằng quy luật vĩnh cửu của cuộc đời và nghệ thuật: tư tưởng sâu sắc, nghệ thuật trác việt.
Vậy xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc danh tác về Gôya này của Samuel Edwards với hy vọng
ẽ mở rộng thêm chân trời văn hoá và nghệ thuật của tất cả chúng ta, chân trời tuy xa mà ích lời thì gần gũi trong mỗi cuộc đời chiến đấu cho độc lập tự do, cho nền văn hoá, nghệ thuật mới xã hội chủ nghĩa của chúng ta.
                                                                                       SỞ VĂN HOÁ và THÔNG TIN NGHĨA BÌNH


Nguồn: vuontaodan.net
Đánh máy: Hạ Trắng và các bạn
Ngày gửi: 22/8/2009

Thứ Năm, 18 tháng 2, 2010

Một thời văn nghệ sĩ đi chiến trường

Người thành cổ Quảng trị

(QT Xuân) - Năm 1972, chiến trường Quảng Trị không chỉ sôi động bởi cuộc chiến đang hồi kết thúc mà còn háo hức tưng bừng trên diễn đàn báo chí thi ca làm xao động lòng người.
 
 Nhạc sĩ Huy Thục nhiều năm gắn bó với chiến trường Quảng Trị. Ảnh: T.L
Trong những căn hầm chật chội nấp bên những bờ tre thưa lá, nhiều anh chị em văn nghệ sĩ xin được tá túc cùng ăn cùng ở với bộ đội ta để khai thác tư liệu cho tác phẩm. Vì thế, trong những ngày tháng sôi động ấy, thường xuyên xuất hiện trên các trang báo với nhiều thể loại ngợi ca mảnh đất con người Quảng Trị gan góc, dạn dày mà cả nước biết đến như một chiến trường ác liệt nhất. Trong hoàn cảnh ấy, tôi đã gặp, đã sống với nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ nổi tiếng.

Ấn tượng trong tôi ngày đầu là một bất ngờ thú vị. Người giao liên với khẩu AK mang chéo trước ngực dẫn theo một anh bộ đội cao lớn đến gặp tôi trước cửa căn hầm mới dựng. Anh giao liên nhỏ nhẹ giới thiệu.

Đây là nhà thơ Thu Bồn mới vào chiến trường muốn về tìm hiểu vùng đất Gio Linh, mong các anh giúp đỡ. Tôi hơi ngờ ngợ trước diện mạo của khách. Cứ nghĩ, nhà thơ phải là con người mảnh khảnh có nét thư sinh, sao đây là một ông bộ đội cao lớn đồ sộ thế kia. Trông dáng dấp như là vị sư trưởng hơn là nhà thơ. Thu Bồn, tôi biết anh là tác giả của trường ca "Bài ca chim chơ rao" và bài thơ "Gởi lời con đến cùng cha" có câu:

Có người thợ dựng thành đồng
Đã yên nghỉ tận sông Hồng mẹ ơi !

Trong bộ quần áo 8-3 bạc màu với chiếc túi đựng mìn Claymo, chiến lợi phẩm bộ đội tặng cho để đựng bản thảo. Sau phút giây làm quen vội vã theo tác phong của những người lính, tôi đưa anh ra mỏm đá bên bến sông ngồi chuyện trò. Anh nói chuyện có duyên đến lạ. Cánh thanh niên như tôi nghe anh nói là mê ngay. Anh có giọng đọc thơ hút hồn. Đây là một khúc trong trường ca "Bài ca chim chơ rao" mà anh đọc tôi nghe:

"Xưa kia tráng sĩ hề da ngựa
Ta nay uống cạn mấy rừng mưa
Độc huyền tráng sĩ xưa ca cẩm
Ta ôm xích đạo gãy vòng cung
.................
Ta như con dế nằm trên cỏ
Đợi uống từng đêm giọt ngọc sương
Châu báu trọn đời con dâng mẹ
Là trái tim đau lấm bụi đường...”

Chừng ấy cũng đủ làm cho tôi, một anh lính trẻ mê văn chương ngẩn ngơ, coi anh như một thần tượng cứu cánh tâm hồn lãng tử của tôi. Tôi tò mò hỏi anh: Sao anh lấy tên dòng sông Thu Bồn để đặt cho bút danh của mình? Anh cười bảo rằng, đó là con sông quê thấm đẫm huyền thoại về mối tình của chúa thượng Nguyễn Phúc Lan và cô thôn nữ hái dâu trở thành hoàng hậu. Câu chuyện tình đã đi vào tâm hồn anh từ thời thơ trẻ.

Vào chiến trường, dạo ấy, anh viết nhiều thơ. Tôi còn nhớ bài thơ viết về người mẹ Gio Linh có nhiều câu đậm chất ca dao:

Trưa nằm trên chiếc võng đưa
Con nghe tiếng mẹ xa xưa vọng về
Mái tôn che quá nặng nề
Con nghe gió từ bờ tre thổi vào
..........

Tiếng ru như tiếng con đòi
Bao đêm sữa mẹ chảy ngoài môi con

Một nhà thơ nữ rặt chất Hà Nội để lại nhiều ấn tượng cho cánh lính trẻ thời ấy đến mức hoài nghi đó là nữ sĩ Xuân Quỳnh. Hôm ấy, nhà thơ Cảnh Trà dẫn vào lán chúng tôi một cô gái có nước da trắng trẻo, vóc người thon thả trong bộ bà ba đen với khăn rằn vắt vai y như du kích Bến Tre. Chúng tôi hồi ấy phải gọi cô bằng chị. Lúc đầu, tôi cứ nghĩ đây là cô văn công của đoàn nào ghé thăm.

Thời ấy, văn công về đơn vị là ngày hội của chiến trường. Được nhà thơ Cảnh Trà giới thiệu, chúng tôi thầm nghĩ, người đẹp như thế này mà vào chiến trường gian khổ làm sao chịu nổi. Thế mà sau vài bữa cơm chỉ có rau rừng với mazi, chị đã hoà mình với anh em chúng tôi. Nhiều câu chuyện chị kể nghe dí dõm và thật thú vị.

Tôi nhớ hôm ấy khi vui với cánh lính trẻ, chị góp câu chuyện giai thoại nhà văn, những câu
 
 Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong kháng chiến chống Mỹ. Ảnh: T.L
chuyện chỉ có trong làng văn. Câu chuyện kể rằng, trong một dịp đi thực tế Hải Phòng, đoàn có nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận và một số nhà thơ tên tuổi khác. Buổi sáng, đoàn đi thăm một ngôi đền cổ thờ một vị tướng của Quang Trung mắc xương chết sau buổi khao quân mừng đại phá quân Thanh mùa xuân Kỷ Dậu .

Trở về, trưa hôm ấy, các văn nghệ sĩ vừa ăn cơm vừa trò chuyện sôi nổi. Bỗng nhà thơ Xuân Diệu bị sặc, mấy cọng rau văng ra bàn, nhà thơ không kịp che miệng. Một lát sau, khi không khí bàn ăn trở lại bình thường, nhà thơ Xuân Quỳnh nhẹ nhàng hỏi nhà thơ Xuân Diệu: Anh Xuân Diệu! Gì vậy? nhà thơ trả lời. Anh có hay tự ái không ? Không! Nhà thơ đáp. Vậy anh nghe tôi đọc câu thơ này nhé ! Chị Xuân Quỳnh nói xong rồi đọc:

Buổi sáng xem đền tướng mắc xương
Trưa về thi sĩ hóc rau thơm
Mới hay đất Cảng nhiều xương quá
Thịt cũng xương mà rau cũng xương

Chiến trường phía nam vẫn đì đùng súng nổ thế mà lớp lớp anh chị em văn nghệ sĩ liên tiếp thay nhau vào mảnh đất Quảng Trị ngày đêm khói lửa. Lương thực khô cạn, đến rau dại cũng không còn, thế mà chủ, khách vẫn sống, vẫn tươi vui hồ hỡi.

Lớp này ra đi lại đón lớp khác quay vào. Mùa hạ nóng như quạt lửa, sông Hiền Lương cạn, là cơ hội cho anh em đánh cá, mò cua cải thiện bữa ăn. Hôm đón nhà thơ Liên Nam và Trinh Đường vào là lúc gặp thời nhất. Bữa ăn tươi hơn nhờ nguồn cua cá của sông Bến Hải.

Kỷ niệm khó quên của chúng tôi là các anh đòi đi theo bắt cá, mò cua. Mặc cho bom nổ chậm nằm im ỉm giữa lòng sông có thể nổ tung không biết lúc nào, anh em chúng tôi vẫn xách nơm ra đi. Cua bên mép sông sống lẫn trong cỏ nanh nhiều vô kể. Chỉ cần úp nơm mà nghe tiếng lào xào là y như có cua rồi. Chỉ tội, đáng sợ nhất là thò tay vào để bắt. Nếu không khéo lựa chiều mà để cua kẹp vào tay là đau thấu tim.

Anh Trinh Đường có khuôn mặt khắc khổ và tính tình hiền dịu nên anh em thương quý lắm. Anh làm việc say sưa không kể giờ giấc. Với một mẩu bút chì không còn chỗ cầm tay thế mà anh cứ lúi húi ghi ghi, chép chép chữ như con kiến chen đầy mấy cuốn sổ tay.

Ban đêm không có đèn dầu, chỉ qua ánh sáng cây đèn pin nhưng anh vẫn đọc thơ cho anh em nghe. Một điều lạ là anh không đọc thơ anh mà lại đọc thơ của bạn bè như Võ Văn Trực, Hữu Thỉnh... một cách say sưa. Được biết nhà thơ có học vấn đến bậc tú tài thời Tây thế mà khi nói chuyện nhiều câu thật ngớ ngẫn. Có lần anh hỏi tôi: Này cậu, làm sao cậu biết mấy thỏi pin này đã hết. Thực tình lúc bấy giờ tôi không biết trả lời thế nào cho anh.

Anh em chúng tôi còn nhiều cơ hội sống với các nhạc sĩ nổi tiếng như Huy Thục, Doãn Nho... Thời ấy, các anh đã có nhiều ca khúc cho chiến trường sôi sục. Với anh Huy Thục, anh em mến mộ lắm vì anh viết nhiều ca khúc nổi tiếng cho Quảng Trị mà nổi bật là bài “Tiếng đàn Ta lư”.

Bài hát được chị Tường Vy biễu diễn thành công nhất. Bài hát có sức động viên lớn đối với quân dân Quảng Trị một thời. Như là một tâm niệm trong lòng dân đến mức khi mua chiếc đài bán dẫn, đồng bào Vân Kiều phải hỏi đài này có "Tiếng đàn Ta lư" không mới mua. Anh Doãn Nho thì để lại ấn tượng sâu nhất là bài ca “Người con gái sông La’’ sáng tác trong dịp này khi đi qua Hà Tĩnh.

Chiến trường Quảng Trị năm 1972 còn để lại nhiều ký ức lạc quan, tươi tắn, hồ hỡi bởi các văn nghệ sĩ lần lượt thay nhau ghé thăm rồi sau đó đi dần vào phía Nam. Không gian cuộc chiến đã mang lại nguồn cảm hứng bất tận cho các tác phẩm văn học nghệ thuật ra đời. Mảnh đất Quảng Trị vì thế mà cả nước biết tới như những huyền thoại của cuộc kháng chiến. Nó âm vọng và đi vào tâm hồn biết bao đồng bào, đồng chí với lòng yêu thương trìu mến một thời và mãi mãi.
                                     Đức Tiên

Một nén tâm hương

Người thành cổ Quảng trị
 
(QT Xuân) - Năm nào cũng vậy, gần đến Tết là nhộn nhạo cảnh chen lấn mua vé tàu xe ở các đầu mối giao thông lớn, đặc biệt thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Ngành Giao thông vận tải năm nào cũng cố gắng mà không sao giải quyết xuể.

Nghĩ đến cùng, âu cũng là chuyện bình thường. Cơ sở hạ tằng, đường sá, phương tiện giao thông... chỉ có thế, càng thêm bất cập trước nhu cầu tăng đột biến tập trung vào một số ngày. Và như quy luật, trước Tết chen lấn khách đi. Sau Tết, sẽ theo chiều ngược lại...

Cảnh tàu xe chen chúc vào các dịp lễ hội, đâu chỉ có riêng ở nước ta. Mọi bực bội rồi sẽ lắng dịu dần khi cuối cùng bạn thở phào vì kiếm được một chỗ ngồi, nằm hay đứng trên phương tiện di chuyển. Mọi gian nan, bức bội trước lúc khởi hành và trong suốt chuyến đi rồi tự nhiên tan biến, khi bạn được đặt chân xuống mảnh đất làng quê, được bạt những nẻo phố bụi bặm cái thị trấn nghèo. Để sà vào vòng tay người thân.

 
 Nét quê. Ảnh: Trà Thiết

Để thắp một nén hương trước bàn thờ gia tộc. Để quây quần quanh mâm cơm gia đình, chia sẻ các món bà mẹ già lụi cụi sắm sanh từ lâu trước Tết cùng với những thứ bạn ky cóp mang về từ đất khách. Để ríu rít huyên thuyên khoe bộ cánh với mấy đứa bạn thuở ấu thơ. Để giận buồn hờn dỗi cùng ai đó. Cũng có thể, để thẩn thơ chẳng làm gì...

Một nét văn hóa truyền thống đẹp của người Việt Nam ta là bất kỳ đi đâu, sinh sống ở đâu, cuộc đời may mắn hoặc rủi ro, giàu sang hay gian khó, không ai thôi đau đáu trong lòng nỗi nhớ quê hương. Giữa xô bồ cuộc sống nơi đất khách, không ai không đôi lần nghĩ về xóm làng, phố cũ, tổ tiên, gia tộc...

Những Việt kiều thành đạt ở nước ngoài, cuộc sống hiện đại hết mực phong lưu, vậy mà đôi khi vẫn cảm thấy như thiếu thốn một cái gì. Vẫn náo nức tìm dịp trở về nơi biết chắc là rồi mình sẽ... lãnh đủ thứ thiếu tiện nghi, bực dọc, phá vỡ nếp sống thường ngày. “Cái gì” ấy là một truyền thống của giống nòi. “Cái gì” ấy là biểu hiện văn hóa Việt, ngày thường tưởng trầm lắng đâu trong chiều sâu tâm tưởng. Vì vậy, người Việt Nam ta cho dù đi đâu, về đâu, đối với quê hương xứ sở, đá mòn song dạ chẳng mòn...

Thời cổ đại, người Việt Nam cũng như nhiều dân tộc khác, do chưa đủ kiến thức lý giải những hiện tượng trong tự nhiên và môi trường sống, cho rằng mọi vật thể, mọi đổi thay đều chịu sự chi phối, điều hành của thần linh. Các cụ sẵn sàng kính cẩn phụng thờ mọi thứ: hang sâu, núi hiểm, thác dữ cho tới gốc cây, tảng đá, bến đò ngang thường ngày lại qua. Các cụ nhìn vào đâu cũng thấy có thần. Mà thần linh mỗi nơi mỗi khác. Người vùng này đôi khi báng bổ thần linh vùng kia.

Tuy nhiên, đối với tất cả mọi người, có một cái chung nhất, phổ biến nhất, cao cả nhất, một “thần uy” không ai không kính cẩn tôn thờ, đó là anh linh tiên tổ. Các nhà truyền giáo phương Tây đầu tiên đến nước ta từ những nền văn minh khác thế kỷ 16-17, cho dù đến Đàng Trong hay ra Đàng Ngoài, tới đâu cũng có ấn tượng mạnh về tục thờ cúng tổ tiên của người Việt. Đây là cái căn cơ để sự tưởng nhớ, tôn vinh tiên tổ có từ ngàn xưa sẽ mãi tồn tại trong tâm linh chúng ta, cho dù mỗi người có thể nhìn nhận thế giới khách quan mỗi cách, mỗi người còn có những niềm tin khác nữa.

Tục thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam không chỉ là thực hành chữ hiếu như đạo Khổng dạy. Cúng vái gia tiên ngày giỗ, ngày Tết không phải chúng ta lo cung phụng để ông bà khỏi chịu cảnh bất hạnh “vật vờ... như ma đói”. Nó hàm chứa ý nghĩa sâu xa hơn nhiều, là ghi nhớ công ơn sinh thành. Van vái tổ tiên luôn phù hộ cháu con bình yên mạnh khỏe, ăn nên làm ra là chuyện thường tình trong đời sống.

Việc đó không mang tính thực dụng hay vụ lợi, như có người nước ngoài lầm tưởng. Thờ cúng tổ tiên đối với người Việt ta cũng không chỉ là hướng về quá khứ, hoài niệm mà còn (và chủ yếu) là ngóng về tương lai với ước vọng lưu truyền nòi giống, sao cho dòng tộc vinh hiển, đất nước mạnh giàu, dân tộc rạng rỡ trường tồn.

Thờ cúng tổ tiên không chỉ là mỹ tục, có ý nghĩa cao cả hơn ngàn vạn lần. Vừa là nếp sống vừa là tâm linh. Vậy thì, hỡi người bạn của tôi, cho dù bạn có tín ngưỡng hay theo thuyết vô thần, bạn quanh quẩn nơi đồng ruộng làng quê hay bôn ba khắp nẻo, ngày đầu năm đã tới, xuân đã về, hãy tạm gác mọi búc xúc của cuộc sống ngày thường, noi gương mẹ cha thắp nén hương thơm trước bàn thờ gia tiên, hay giản dị hơn, đốt nén tâm hương sẵn có trong lòng mỗi người, để ngưỡng vọng tổ tiên, cùng hướng về nguồn cội với ướcvọng: vì sự trường tồn của dân, của nước.

                                             Phan Quang

14 năm bán bong bóng và tấm bằng Thạc sĩ toán học

Người thành cổ Quảng trị
(QT Xuân) - Trong mỗi chuyến vào Cà Mau, chúng tôi thường liên lạc thăm hỏi những đồng hương Quảng Trị đang công tác hoặc làm ăn sinh sống nơi mảnh đất tận cùng của Tổ Quốc. Và lần nào cũng thế, sau cú phôn đầu tiên cho anh Nguyễn Công Trí, hiện là Trưởng Phòng khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục Trường Cao đẳng sư phạm Cà Mau là đồng hương Quảng Trị đều nhận được thông tin.

Rồi tất cả lại quây quần nhâm nhi ly rượu Kim Long cháy gan cháy ruột ôn cố tri tân, cùng hát những điệu hát ru mượt mà bình dị đậm đà chất Quảng Trị. Giờ đây, có người công thành danh toại, cũng còn nhiều thân phận đang vất vả trên vạn nẻo mưu sinh.

 
 Nguyễn Công Trí lên kế hoạch công tác cho trường.

Ở quê hương thứ hai nơi đất Mũi, người đồng hương Quảng Trị luôn kề vai sát cánh vượt qua khó khăn làm chủ cuộc sống. Khi nói về sự vượt khó của buổi ban đầu chân ướt chân ráo nơi đất khách, bằng giọng thán phục kể cho chúng tôi nghe về tấm gương anh Nguyễn Công Trí, mọi người đều bảo: Suốt 14 năm bán bong bóng để có tiền ăn học nay trở thành Thạc sĩ đã phần nào nói lên nghị lực của cậu bé đất Quảng Trị cách gần 40 năm về trước.

39 năm về trước, “Trí bong bóng”, cái tên gắn liền với nghiệp mưu sinh của cậu học trò lớp 3 nói đặc sệt giọng Quảng Trị "mua bong bóng khôông; răng rứa" đã một thời quá quen thuộc với đám trẻ trên mọi nẻo đường thành phố Cà Mau.

Trong cuộc sống đầy khốn khó của buổi ban đầu cách xa quê hương, mới học lớp 3, Nguyễn Công Trí đã phải lao vào cuộc mưu sinh. Ngoài buổi đến trường, thời gian còn lại phải đi bán bong bóng giúp gia đình kiếm thêm thu nhập. Cha mẹ anh là những người nông dân cả đời lam lũ nhưng vẫn luôn mong các con ăn học thành tài, sau này có cuộc sống ổn định.

Không phụ lòng kỳ vọng của cha mẹ, Nguyễn Công Trí học rất chăm, năm nào cũng đạt danh hiệu học sinh giỏi. Đó là động lực để cha mẹ anh dù vất vả đến đâu cũng phải cố gắng vượt qua để nuôi ước mơ con vào đại học. 12 năm phổ thông là quãng thời gian êm đềm đối với những người có đủ điều kiện học hành, nhưng với Trí đó là những tháng ngày lăn lộn với đời bởi có rất nhiều khó khăn phải vượt qua.

Khi Trí lên cấp 3, vẫn đi học buổi sáng, buổi chiều rong ruổi khắp các con đường, trường học với xe bong bóng để mưu sinh. Khó khăn, thiếu thốn đã thôi thúc Công Trí lao vào học tập bền chí. Anh nhớ lại: "Có một kỷ niệm làm tôi nhớ mãi, đó là vào ngày Nhà giáo Việt Nam, bạn bè mang hoa và quà đến chúc mừng thầy cô giáo.

Tôi cũng đến chúc mừng thầy chủ nhiệm Phan Anh Tài (sau này là Hiệu trưởng Trường THPT Hồ Thị Kỷ) nhưng không có tiền mua hoa và quà. Loanh quanh trước cổng nhà thầy từ sáng đến tối mịt khi không còn ai đến thăm mới dám bước vào nhà chúc mừng thầy. Thầy chủ nhiệm vô cùng xúc động trước tình cảm của tôi. Thầy động viên và còn tặng cho tôi một xấp vải để may quần áo đi học".

Và có lẽ tình cảm của người thầy đã nhen nhóm trong lòng cậu học trò nghèo một quyết tâm đi theo con đường của thầy. Vào đại học (sư phạm toán, Trường Đại học Cần Thơ), để có thể nuôi sống bản thân và bảo đảm cho việc học, Trí vẫn tiếp tục với nghề quen thuộc đã nuôi lớn mình: bán bong bóng.

Năm 1996, Nguyễn Công Trí tốt nghiệp đại học sư phạm toán và được phân công giảng dạy tại Trường cấp 3 Tắc Vân. Trên chiếc xe đạp cọc cạch, mỗi ngày anh phải đi về hơn 26 cây số. Khó khăn không làm vơi đi nhiệt huyết của thầy giáo trẻ. 2 năm công tác tại Trường cấp 3 Tắc Vân, Nguyễn Công Trí đem hết tâm huyết và năng lực của mình truyền đạt kiến thức cho học sinh.

Năm 1998, Trí về công tác tại Trường Trung học sư phạm Cà Mau (nay là Trường CĐSP Cà Mau). Trong thời gian này, anh được tham gia bồi dưỡng sinh viên giỏi toán vòng quốc gia và năm nào anh cũng có học sinh đoạt giải Quốc gia.

Năm 2000, được sự động viên của đồng nghiệp và gia đình, Nguyễn Công Trí dự thi cao học tại Trường Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh. Năm 2003, anh trở thành thạc sĩ toán học tiếp tục phục vụ công tác giảng dạy và bồi dưỡng sinh viên giỏi toán của Trường CĐSP Cà Mau.

Năm 2007, anh tham gia Đề án Mekong 120 Cà Mau. Hiện tại anh đã hoàn thành chương trình ngoại ngữ (chương trình IL) với thành tích khá cao và đang lựa chọn một trường đào tạo tiến sĩ ở nước ngoài để theo học.

Trí cho biết: “Trước đây mình có chọn được một trường, đó là Trường Đại học Buckingham ở Anh quốc, nhưng vì mức học phí và chi phí khá cao: 55.000 bảng Anh (tương đương 90.000 USD)/3 năm đào tạo tiến sĩ, so với mức chi phí quy định tài trợ cho những người tham gia đề án của tỉnh. Do đó, ban chỉ đạo đề án yêu cầu mình tìm một trường khác có mức phí phù hợp hơn để theo học. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa tìm được vì đa số các trường ở nước ngoài đều có chi phí khá cao”.

Hiện tại, với cương vị là Trưởng phòng khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục, ngày ngày Nguyễn Công Trí bận rộn với những hồ sơ thi cử của sinh viên. Tuy vậy, anh vẫn yêu cầu nhà trường sắp xếp giờ lên lớp cho anh, bởi anh rất yêu thích công tác giảng dạy. Ngoài giờ làm, trở về cuộc sống gia đình, anh trở thành một người chồng, người cha mẫu mực, chăm sóc vợ con chu đáo.

Nguyễn Công Trí sinh tại thôn Thủy Bạn, xã Trung Giang, huyện Gio Linh. Năm 1980, lúc đó mới 8 tuổi, được ông chú đang công tác tại Sở Thủy sản Cà Mau động viên, cả gia đình vào Cà Mau sinh sống làm ăn. Anh bảo, nhớ nhất là những mùa rét, mỗi buổi tối anh phải ra chòi cùng cha canh lúa, canh khoai. Anh nhớ lại: “Lúc đó sợ ma lắm, vì trên đồng vắng gió cứ thổi hun hút”... Hiện nay, người em trai thứ 4 là Nguyễn Công Phương là Hiệu trưởng Trường Tân Đức, huyện Đầm Dơi. Em gái là Nguyễn Thị Lài, dạy tại Trường Cao đẳng sư phạm Cà Mau.

Anh tâm sự: "Tôi đến nhiều nơi, từng thăm thú nhiều bãi biển tuyệt vời nhưng không sao tìm được cảm giác an lành như ở biển Cửa Tùng quê tôi. Bởi nơi này đã chứng kiến những ngày tháng mưu sinh vất vả của gia đình, của ngư dân vùng biển nên trở thành ký ức khó quên".

Vâng ! chúng tôi cũng phần nào thấu hiểu tâm sự của một người trải nghiệm như anh. Quê hương thật đỗi thiêng liêng, càng mặn mà ý nghĩa hơn đối với những người con xa xứ. Như lời bài hát "Quê hương" của nhạc sĩ Giáp Văn Thạch dựa theo bài thơ "Bài học đầu cho con" của ĐỗTrung Quân đã nói hộ nỗi lòng.

                                  Bài, ảnh: Minh Tuấn

“Săn” cây kiểng đại thụ

Người thành cổ Quảng trị
(QT) - Chưa bao giờ phong trào chơi kiểng (cây cảnh) lại rộ lên như hiện nay. Nếu trước đây dân chơi kiểng chỉ yêu thích các loại Bonsai và cây kiểng cỡ nhỏ thì hiện nay họ quay sang “khoái” loại cây kiểng đại thụ.

Cây kiểng đại thụ có giá cao ngất ngưỡng từ vài chục triệu đồng đến cả trăm triệu đồng, và hầu như những loại cây kiểng này phải vào rừng sâu hoặc sang tận rừng Lào mới có được. Có cầu ắt có cung, vì lợi nhuận lớn từ thú chơi này mà người dân ở nhiều nơi vẫn lén lút vào rừng đào cây kiểng cổ thụ về bán, dù biết là phạm luật.

Cuối năm, đi “săn” kiểng

Thời gian gần đây, tình trạng người dân tại các địa bàn giáp rừng như Hướng Hóa, Đakrông, Cam Lộ đổ xô “săn” cây kiểng đại thụ về chơi hoặc bán là khá phổ biến. Đặc biệt, tại một số xã của huyện Cam Lộ dọc tuyến Quốc lộ 9 như Cam Thành, Cam Tuyền hay các xã vùng Cùa như Cam Chính, Cam Nghĩa, phong trào người dân “săn” cây kiểng đại thụ khá rầm rộ. Tại những nơi này, nhiều chủ vườn có đến hàng chục cây cảnh, đó phần lớn là cây kiểng đại thụ đủ loại như: sanh, si, đa đỏ, lộc vừng, sung, bằng lăng, quan âm… với kích cỡ cây lớn nhất đến vài người ôm.

 
Một cây sanh đại thụ vừa mới đưa từ rừng về trồng trong vườn nhà.

Chính những “chợ” cây kiểng này là nguồn cung cấp cho dân chơi kiểng khắp nơi trong tỉnh, hay xa hơn nữa là Thừa Thiên Huế và Quảng Bình. Trong vai những người đi tìm mua cây kiểng, chúng tôi đã có dịp tìm hiểu về những “chợ” cây kiểng này. Từ thành phố Đông Hà theo Quốc lộ 9 đến đoạn Km 30 xuất hiện nhiều “chợ cây kiểng di động” bày bán cho khách hai bên vệ đường.

Cây kiểng có đủ loại, kích cỡ để khách chơi có thể lựa chọn thoải mái. Có khi chỉ cần 200 ngàn đã có một cây kiểng nhỏ vừa ý, nhưng đôi lúc lên đến hàng chục triệu đồng nếu đó là cây kiểng quý, to, gốc đẹp, lâu năm. Thường thì tại những chợ cây kiểng di động kiểu này chỉ bày bán những loại cây cỡ nhỏ còn những loại kiểng đại thụ thì được “ém” tại vườn của các chủ lớn.

Chúng tôi dừng xe bên lề đường, cạnh một chợ kiểng sát bìa rừng trên Km 30 và hỏi mua gốc lộc vừng, mấy tay lái kiểng (những người mua kiểng bán lại kiếm lời) hét giá trên trời không quên kèm câu quảng cáo: “Sáng sớm mở hàng cho chú em 5 xị (năm trăm nghìn đồng), giá thế là mềm rồi đó, nay những loại vừa vừa như thế này khó kiếm lắm. Còn nếu chú em cần gốc to, đẹp hơn thì bọn anh sẽ sẵn sàng cung cấp”. Khi chúng tôi có ý định đặt mua với số lượng nhiều để về “trồng trong cơ quan”, mấy tay lái lái kiểng hớn hở nói ngay: “Số lượng bao nhiêu không thành vấn đề, loại nào cũng có, nói chung là “hàng” đẹp miễn chê luôn. Nếu mua số lượng lớn bọn anh sẽ giảm giá nhưng phải đặt cọc trước. Chú em yên tâm đi, tiền trao cháo múc, không lo chi hết”.

Thoái thác phải đi xem những nơi khác, chúng tôi rút lui. Trước khi đi, một trong số những tay lái kiểng không quên cho địa chỉ rồi bảo “có gì chú em liên lạc nhé, không ở đâu “hàng” đẹp bằng chỗ bọn anh đâu”. Đặc biệt các “chợ” kiểng này chỉ tụ họp vào thời điểm gần trưa hoặc lúc chập tối vì lúc đó dân đào kiểng mới xuống núi đưa cây ra.

Vào thời điểm giáp Tết này, nhiều người lùng sục “săn” cây cảnh nên các chợ này xôm tụ cả ngày. Anh Nguyễn Văn Vinh, một dân chơi kiểng thành phố Đông Hà cho hay: “Nói thiệt, tuy đi hơi xa một tí nhưng bù lại mình “săn” được “hàng” độc, dáng thế cũng đẹp và đặc biệt giá rẻ hơn ở thành phố”. Anh Vinh cho biết anh đã từng mua được rất nhiều cây đẹp, giá rẻ tại những điểm bán di động như thế này và đợt cuối năm này anh đang định “săn” thêm cài cây về chơi Tết.

Máu” rừng chảy về… phố

Thời gian gần đây, khi giá cây kiểng đại thụ tăng vùn vụt thì một số người dân các xã Cam Thành, Cam Chính, Cam Nghĩa, huyện Cam Lộ và một số xã thuộc các huyện Hướng Hóa, Đakrông… lại ồ ạt vào rừng “săn” đem về vườn nhà trồng, chăm sóc và “tút” lại để bán cho dân chơi. Vì lợi lớn mà hàng ngày có rất nhiều người từ thanh niên trai tráng đến lớp trung niên cứng tuổi cũng đổ xô vào rừng đào bới, lùng sục tìm cây kiểng.

 
Ông Lê Hữu Khoa, Hạt phó Hạt Kiểm lâm huyện Cam Lộ cho biết, trong thời gian qua Hạt Kiểm lâm đã tăng cường kiểm tra, giám sát các khu rừng trên địa bàn, trong đó chú trọng đặc biệt tại khu rừng tự nhiên ở vùng Cùa nhưng vẫn chưa phát hiện bắt giữ vụ nào liên quan đến việc người dân lén lút vào rừng đào bới cây cảnh. Trước thông tin về tình trạng người dân lén lút vào rừng đào bới cây cảnh “rộ” lên như hiện nay, ông Khoa cho biết sẽ tăng cường lực lượng giám sát, xiết chặt hoạt động tuần tra bảo vệ rừng, nếu phát hiện sẽ có biện pháp xử lý. Tuy nhiên cũng theo ông Khoa cho biết thì hiện nay chế tài xử phạt về việc đào bới, buôn bán cây cảnh trái phép vẫn chưa rõ ràng, cụ thể, quy định còn chung chung nên hiệu quả còn hạn chế.
 
Dân “săn” cây kiểng thường tìm đến những cánh rừng nằm sát các ngọn núi như Phu Lơ, Lèn Đá, Đầu Mầu, Đôộng Chòi thuộc xã Cam Thành… vì theo họ cho biết thì những nơi này nổi tiếng với nhiều loại cây kiểng quý hiếm, được dân chơi kiểng ưa chuộng. Anh Mỹ, nhóm trưởng một nhóm chuyên “săn” cây kiểng hơn 10 người ở thôn Đầu Mầu cho biết, nhóm anh theo nghề thuộc loại có thâm niên nhất.

Thường thì mỗi chuyến “săn” kiểng kéo dài đến 3-4 ngày, ăn ngủ luôn trong rừng cho đến lúc tập hợp đủ cây là đưa ra Quốc lộ 9 để bán. Nhóm anh Mỹ đã từng bán những cây có giá lên đến 100 triệu đồng. Có tháng thu nhập mỗi người được hơn 14 triệu. “Hồi trước thu nhập cao nhưng làm ăn càng lúc càng khó.

Bây giờ muốn có được cây đẹp phải đi vào sâu trong dãy Trường Sơn, phía ngoài này dân tìm lùng nhiều quá nên hiếm lắm!”. Từ khi giá những loại cây kiểng thông thường không còn cao, ít người ưa chuộng nên những người như anh Mỹ cũng xoay sang lùng kiểng đại thụ. Theo chân anh Bắc, một người dân ở xã Cam Thành, chúng tôi lên chân núi Phu Lơ, đi dọc theo các con suối mới thấy được sự tàn phá của nạn chơi cây kiểng.

Một đoạn dọc bờ sông Tân Lâm (địa phận xã Cam Thành) dày đặc những hố sâu lồi lõm, nham nhở là dấu vết do dân lùng cây kiểng để lại. Có nơi, đất rừng bị đào tràn ra thành những bãi bồi lấn chiếm cả mặt sông. Mỗi khi hạ một cây đại cảnh là phải phát rộng đường và xung quanh gốc cây đó khiến rất nhiều cây khác cũng bị đốn hạ. Chính vì vậy, việc “săn” cây cảnh đại thụ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hệ sinh thái rừng.

Dọc theo con đường vào vùng Cùa chúng tôi chứng kiến có rất nhiều vườn trồng đến hàng chục cây kiểng đại thụ. “Đó hầu hết được mang về từ rừng sâu, có cây còn sang tận Lào mới có”, một người dân nơi đây cho biết. Những vườn cây kiểng đại thụ với diện tích rộng gần cả ngàn mét vuông nhưng đã lèn chật ních các loại cây đại cảnh. Có những cây với thân lớn đến mấy người ôm, có cây với dấu chặt mới đang ứa nhựa đỏ quạch vừa được đưa về ươm.

Những cây cảnh đại thụ lớn đến mức muốn chăm sóc hay tưới nước cho cây những chủ vườn ở đây phải bắc thang để leo. “Hiện nay, những loại cây như sanh, đa đỏ, bằng lăng… dân chơi lắm tiền rất chuộng. Vườn tui có cây được trả đến hơn trăm triệu đồng mà tui chưa bán, chờ giá lên mới bán. Bữa nay giá cả bất thường lắm, có lúc hôm nay vài chục triệu nhưng ngày mai có khi giá đã gấp đôi”, một chủ vườn tại vùng Cùa không ngần ngại cho biết.

Trao đổi với chúng tôi, ông Hoàng Ánh, Chủ tịch UBND xã Cam Thành cho biết: “Tình trạng người dân địa phương lén lút vào rừng đào tìm cây cảnh về bán trong thời gian gần đây chúng tôi cũng biết và đã nhiều lần nhắc nhở, cảnh cáo. Chính quyền địa phương cũng đã nhiều lần bố trí người vào tận rừng sâu kiểm tra, thu hồi các loại dụng cụ đào bới đồng thời xử phạt nghiêm. Tuy nhiên, sau một thời gian tình trạng này vẫn tái diễn, khó kiểm soát”.

Tình trạng người dân “săn” cây kiểng, đặc biệt là kiểng đại thụ để bán cho dân chơi kiểng là có thật và có dấu hiệu ngày càng tăng. “Săn” đại cảnh cũng là một kiểu phá rừng, đã đến lúc cơ quan chức năng cần có biện pháp hữu hiệu ngăn chặn tình trạng trên, nếu không muốn những cánh rừng có ngày sẽ bị xóa sổ. 

Cửa Việt-thành phố biển tương lai

Người thành cổ Quảng trị
(QĐND) - Đầu năm 2010, trở lại Cửa Việt (huyện Gio Linh, Quảng Trị), tôi thật sự choáng ngợp trước sự thay đổi nhanh chóng của vùng cửa biển huyền thoại này. Nơi đây đã từng được ví như sông Bạch Đằng thứ hai của Việt Nam bởi đã từng có thế trận trên sông dìm hàng nghìn quân xâm lược.

Cửa Việt là niềm tự hào của quân và dân Quảng Trị nói riêng và cả nước nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nay lại bừng sáng trên mặt trận xây dựng kinh tế. Vùng đất đầy bom đạn ngày nay  mọc lên san sát nhà cửa kiên cố, trong đó có rất nhiều nhà cao tầng, làm cho bức tranh kiến trúc vùng cửa biển có những chấm phá, mang dáng dấp của một thành phố biển tương lai.

Biển Cửa Việt. Ảnh minh họa/internet.

Nhà báo Văn Nghiệp Chúc, phóng viên Báo Nhân Dân, là người con của Quảng Trị tự hào nói với chúng tôi: Với tốc độ phát triển như hiện nay, sau 5 năm nữa, Cửa Việt sẽ trở thành một thị xã bên cửa biển giống như Cửa Lò (Nghệ An) và vài chục năm nữa, nơi đây sẽ là thành phố biển. Hiện đã có vài chục dự án đầu tư vào đây. 
Cửa Việt hội đủ các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để phát triển. Quảng Trị là điểm đến đầu tiên của Việt Nam trên tuyến hành lang kinh tế Đông – Tây. Người dân 17 tỉnh vùng Đông - Bắc Thái Lan muốn về vùng biển phía Nam (ở Thái Lan) nghỉ mát, tắm biển thì phải đi hơn 1.000km, trong khi đó nếu về biển Cửa Việt theo đường xuyên Á thì chỉ gần 300km.
Bãi biển Cửa Việt dù không được mệnh danh là “Nữ Hoàng” của bãi tắm như Cửa Tùng nhưng nó mang vẻ đẹp lung linh, được phơi mình bên làn nước trong xanh với một bãi cát phẳng mịn trải dài. Vào mùa hè trong cái tiết nóng nực, phủ kín những cơn gió Lào, du khách được tắm mình dưới làn nước êm ái này thì thật sảng khoái.
Đến nay thị trấn Cửa Việt đã được quy hoạch, thêm vào đó là một khu dịch vụ du lịch rộng khoảng 100ha đã được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khá hoàn chỉnh, sẵn sàng đón nhận sự hợp tác và đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Tuyến đường ven biển Cửa Tùng - Cửa Việt đã được đầu tư hoàn chỉnh và đưa vào sử dụng. Đây là tuyến đường đẹp nhất tỉnh Quảng Trị chạy dọc ven biển, hai bên có những hàng dương xanh ngắt, thuận lợi phát triển du lịch sinh thái resort cao cấp. Cảng Cửa Việt (thuộc Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam) cũng đang trong giai đoạn đầu tư  cho tàu có tải trọng đến 10.000 tấn vào làm hàng. 
Hai bờ Nam - Bắc của Cửa Việt sắp được nối với nhau bằng một chiếc cầu, có tổng kinh phí đầu tư gần 300 tỉ đồng. Khi chiếc cầu dài hơn 800m hoàn thành đưa vào sử dụng, tuyến đường ven biển Quảng Trị được liên hoàn, tạo ra một vùng kinh tế động lực cho cả khu vực, như một đòn bẩy thúc đẩy Quảng Trị phát triển mạnh hơn.
                                     Hải Hà

Ông Thông “trẻ em”

Người thành cổ Quảng trị

(QT Xuân) - Người ta gọi ông là ông Thông “trẻ em”, vì hơn 30 năm công tác trên các cương vị khác nhau, ở các cơ quan khác nhau, ông đều gắn bó với trẻ em. Nhưng tên gọi trìu mến “ông Thông trẻ em” mà mọi người dành tặng cho ông còn có ý nghĩa khác là vị “sứ giả” của trẻ em, bởi những bất trắc trong cuộc đời con trẻ vượt quá khả năng giải quyết của gia đình, có thể khiến cho giấc mơ, cuộc sống của các em trở nên dang dở, thậm chí vĩnh viễn không bao giờ thực hiện được, thì mọi người đều tìm đến ông để được giúp đỡ.

Trái tim hồng cho em
Khi Quỹ tấm lòng Việt của Đài truyền hình Việt Nam và Tổng Công ty viễn thông quân đội Viettel phối hợp với Tổ chức Đông Tây Hội Ngộ bắt đầu thực hiện chương trình “Trái tim cho em” vào tháng 10/2008, nhằm hỗ trợ phẫu thuật tim nhân đạo cho các em dưới 16 tuổi mắc bệnh tim bẩm sinh trên toàn quốc gây xúc động mạnh đến triệu trái tim đồng bào cả nước, tôi mới nhận ra hiệu ứng của công nghệ truyền hình và nghĩ về ông, Hoàng Văn Thông- “ông Thông trẻ em” của người dân nghèo Quảng Trị.
Ông Hoàng Văn Thông trao học bổng C.I cho học sinh nghèo Quảng Trị.

Lướt web vào địa chỉ trang http://traitimchoem.vtv.vn, thấy tổng số tiền quyên góp hỗ trợ phẫu thuật tim cho các em từ năm 2008 đến nay lên đến hơn 8,7 tỷ đồng, một số tiền rất lớn nhưng chỉ mới hỗ trợ phẫu thuật tim cho 23 em có hoàn cảnh gia đình khó khăn trên toàn quốc. Tôi tìm về thăm ông Thông “trẻ em”, người đầu tiên đưa ra ý tưởng và vận động thực hiện chương trình hỗ trợ phẫu thuật tim cho trẻ em, để hiểu hơn chương trình mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc này ở một tỉnh nghèo như Quảng Trị.
Điều làm tôi thực sự bất ngờ là, số trẻ em mà ông đã giúp đỡ, vận động hỗ trợ phẫu thuật tim đến nay nhiều gấp 11 lần (255/23 em) so với chương trình “Trái tim cho em” mang tầm quốc gia trên sóng truyền hình. Một con số thật ấn tượng, nhưng ấn tượng hơn bởi tấm lòng, cách làm và những nỗ lực nhằm mang lại cuộc sống, hạnh phúc cho trẻ em có hoàn cảnh không may của ông.
Ông kể: Ý tưởng về chương trình phẫu thuật tim cho trẻ em nghèo mà ông tâm đắc và theo đuổi vận động thực hiện đến giờ bắt nguồn từ một chuyến công tác về vùng biển xã Triệu An. Lần đó, ông vào thăm một gia đình có con mắc bệnh tim nặng, nhà nghèo không còn gì ăn ngoài khoai, nhìn đứa trẻ xanh xao nằm bất động, ánh mắt như cầu cứu ai đó làm ông chạnh buồn.

Không có gì cho cháu, về nhà ông suy nghĩ rất nhiều và quyết định viết thư trình bày hoàn cảnh của đứa trẻ kèm theo hồ sơ bệnh án và giấy xác nhận của Bệnh viện Trung ương Huế về số tiền cần để thực hiện ca phẫu thuật này, gửi đi “xin” nhờ các tổ chức từ thiện nhân đạo quốc tế giúp đỡ. Sau khi xem xét hồ sơ, Tổ chức Đông Tây Hội Ngộ đồng ý cử người về xác minh hoàn cảnh gia đình và đưa cháu đi phẫu thuật tim thành công.
Cho đến bây giờ ông không còn nhớ tên đứa trẻ được hỗ trợ phẫu thuật tim lần đó, chỉ biết đó là ca vận động, đi “xin” hỗ trợ mổ tim cho trẻ em nghèo đầu tiên mà ông thực hiện vào năm 1995. Nhưng vui hơn cả là nhờ lòng nhiệt thành và uy tín của ông từ ca phẫu thuật này, phía Tổ chức Đông Tây Hội Ngộ đồng ý thông qua ông để xác minh, lập hồ sơ nhằm giúp đỡ phẫu thuật tim cho trẻ em nghèo Quảng Trị.
Đây là cơ hội để ông bắt đầu khởi động chương trình hỗ trợ phẫu thuật tim cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, chương trình đầu tiên và duy nhất được triển khai ở một tỉnh chịu hậu quả chiến tranh nặng nề như Quảng Trị mà ông hằng ấp ủ.
Từ khi chương trình bắt đầu khởi động, những lá đơn kêu cứu và hồ sơ xin hỗ trợ phẫu thuật tim gửi về quá nhiều, vượt ngoài khả năng giúp đỡ của Đông Tây Hội Ngộ, mà hoàn cảnh gia đình nào cũng thật sự bi đát, buộc ông phải tìm thêm nguồn tài trợ để giúp được nhiều gia đình hơn.
Một mình ông lặng lẽ đi xác minh hoàn cảnh gia đình từng đối tượng, tập hợp hồ sơ tiếp tục đi gõ cửa Quỹ Bảo trợ trẻ em quốc gia và các tổ chức nhân đạo từ thiện quốc tế khác với mong muốn giúp được thêm người nào hay người đó. Cảm động trước tình cảm của ông và số phận của các em bị bệnh tim nặng, Quỹ Bảo trợ trẻ em quốc gia và các tổ chức từ thiện quốc tế tiếp tục ủng hộ hỗ trợ phẫu thuật tim cho trẻ em nghèo Quảng Trị. Có năm, số ca được hỗ trợ phẫu thuật tim lên đến 42 ca/năm như năm 1999-2000. Chương trình từ đó nhận được sự hưởng ứng của các cơ quan, đơn vị, tổ chức chính trị- xã hội và đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia.
Chưa thể thống kê được số tiền quyên góp ủng hộ chương trình phẫu thuật tim cho trẻ em nghèo ở Quảng Trị là bao nhiêu, vì các đối tác tài trợ trực tiếp cho gia đình người hưởng lợi, còn bản thân ông chỉ là người góp công đi xác minh từng trường hợp và vận động, khâu nối các tổ chức để nhận giúp đỡ.
Nhưng thành công của chương trình đã giúp đỡ phẫu thuật tim cho 255 cháu ngoài số trẻ em dưới 6 tuổi được ngân sách chi trả, mở ra cơ hội và hy vọng cho các em nghèo bị bệnh tim bẩm sinh được giúp đỡ phẫu thuật có một trái tim khỏe mạnh như bao trẻ em khác để bình yên lớn lên trong vòng tay yêu thương của cộng đồng.

Suốt đời vì trẻ em
Mọi người thường đùa với ông là mãi không chịu “già”, vì từ khi tốt nghiệp ra trường năm 1977 đến nay đã 33 năm, dù đã chuyển công tác mấy lần từ Hội đồng Đội thị xã Đông Hà (cũ) đến Ủy ban bảo vệ trẻ em tỉnh, Ủy ban DS-GĐ&TE, Sở LĐ-TB&XH, nhưng đi đâu ông cũng làm công việc phụ trách về lĩnh vực trẻ em, vì trẻ em và có nhiều đóng góp cho trẻ em.


 
Niềm vui đến trường. Ảnh: Thành Dũng

Năm 2004, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ra đời, trong điều khoản thi hành có điều trẻ em dưới 6 tuổi được nhà nước hỗ trợ khám chữa bệnh miễn phí, nên các tổ chức nhân đạo quốc tế không tài trợ phẫu thuật tim cho trẻ em dưới 6 tuổi. Ông là người đề xuất xin chủ trương của tỉnh trích ngân sách phẫu thuật tim miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi theo luật định và được UBND tỉnh đồng ý. Từ năm 2005 đến nay, ngân sách tỉnh chi từ 500 triệu đồng đến 2 tỷ đồng/năm để phẫu thuật tim cho gần 200 trẻ em dưới 6 tuổi. Mặc dù là tỉnh nghèo, nhưng Quảng Trị là tỉnh đầu tiên trong cả nước triển khai thực hiện được chương trình này.
Cùng với chương trình phẫu thuật tim, từ cuối những năm 1990 đến nay, mỗi năm ông còn vận động tài trợ phẫu thuật miễn phí cho hơn 100 trẻ em khuyết tật về chân tay khoèo, sứt môi hở vòm miệng, các tật về mắt, tiêu hóa sinh dục… Chương trình mang lại ý nghĩa xã hội sâu rộng “Nối vòng tay nhân ái” được tổ chức đến nay đã 6 năm nhằm giúp đỡ cho những gia đình nghèo đón Tết vui tươi, đầm ấm, khởi thủy cũng do ông đề xuất ý tưởng phối hợp với Đài PTTH tổ chức để hỗ trợ cho trẻ em nghèo đón Tết, sau đó mới mở rộng đối tượng ra đối với những gia đình nghèo…
Nhưng chỉ chữa bệnh và cho các em vài món quà nhằm giải quyết khó khăn trước mắt là chưa đủ, mà phải cho các em đến trường học chữ để giúp cho các em có thêm kiến thức và cơ hội tìm kiếm việc làm nuôi sống bản thân sau này. Song song với chương trình vận động hỗ trợ phẫu thuật tim cho trẻ, từ năm 1998, ông đã vận động Hiệp hội từ thiện quốc tế Đài Loan Compassion International (gọi tắt là C.I), tổ chức trao học bổng trực tiếp hàng năm cho hơn 1.100 học sinh nghèo vượt khó học giỏi từ bậc học tiểu học đến lúc tốt nghiệp ra trường với mức học bổng cho học sinh tiểu học và THCS là 120.000 đồng/tháng; THPT và đại học, cao đẳng là 140.000 đồng/tháng; những em chuyển từ cấp 2 lên cấp 3 và những em thi đỗ đại học, cao đẳng còn được tặng thưởng để tiếp sức cho các em đến trường.
Trung bình mỗi năm chương trình này hỗ trợ khoảng 1,9 tỷ đồng cho trẻ em nghèo tỉnh Quảng Trị đến trường. Đây là chương trình đầu tiên C.I triển khai tại Quảng Trị, sau đó mở rộng ra các tỉnh khác như Quảng Bình, Thừa Thiên Huế. Ngoài học bổng C.I, ông còn vận động được quỹ học bổng FPT, học bổng Việt Pháp cũng tài trợ cấp học bổng dài hạn cho hơn 200 học sinh nghèo khác theo cách như thế.

Hy vọng
Mong muốn giúp đỡ các em thì nhiều, nhưng hành động chưa được bao nhiêu vì tỉnh ta quá nghèo, nội lực trong dân không có. Mục tiêu của ông là thật nhiều đối tượng được hưởng lợi, dù của ít, nhưng lòng nhiều.
Ngồi ngẫm lại những chương trình vì trẻ em do ông “đẻ” ra và phối hợp thực hiện, chương trình nào cũng là chương trình lần đầu tiên được triển khai trong toàn quốc, có nhiều sáng kiến, cách làm hay và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tình thương và những việc làm thầm lặng của ông đã góp phần mang lại cho các em một trái tim khỏe mạnh, một cuộc sống bình thường và hy vọng để các em có thể viết nên giấc mơ hồng về cuộc đời mến yêu…
                              Bài, ảnh: NGUYỄN THANH HẢI

Về quê ăn Tết

Người thành cổ Quảng trị

Hơn vạn người sẽ dự 'Xuân Quê hương'
TP - Ngày 1-2, đoàn kiều bào tiêu biểu gồm khoảng 30 người sẽ tới chúc mừng lãnh đạo Đảng nhân kỷ niệm 80 năm thành lập Đảng CSVN và tham dự Xuân Quê hương 2010.
Số lượng người tham dự Xuân Quê hương 2010 sẽ đông gấp 10 lần năm ngoái. Hơn 600 kiều bào từ nước ngoài về quê ăn Tết và hơn 300 kiều bào đã về nước đầu tư và sinh sống sẽ cùng chung vui đón Tết với các lãnh đạo Đảng và Nhà nước, đoàn ngoại giao và đông đảo đồng bào trong nước tại Công viên Thiên đường Bảo Sơn, Hà Nội có sức chứa 11.000 người.
Sau thành công của Xuân Quê hương 2008 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình, Xuân Quê hương 2009 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Xuân Quê hương 2010 sẽ được tổ chức tại Công viên Thiên đường Bảo Sơn, Hà Nội, do Ủy ban Nhà nước về Người Việt Nam ở Nước ngoài (Bộ Ngoại giao) phối hợp với UBND thành phố Hà Nội, Ban chỉ đạo Quốc gia Kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long- Hà Nội và Đài truyền hình Việt Nam tổ chức với chủ đề Đêm hội Văn hóa Việt vào ngày 6-2 (tức ngày 23 tháng chạp Kỷ Sửu).
Đây là hoạt động mở đầu chuỗi sự kiện Đại lễ 1.000 năm Thăng Long- Hà Nội, kiều bào sẽ cùng tham gia lễ dâng hương hướng về cội nguồn dân tộc tại thềm rồng, Điện Kính Thiên, Hoàng Thành Thăng Long, vào chiều 6-2. Hoạt động này sẽ mở màn cho chương trình Xuân Quê hương kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long- Hà Nội.
Sau phần phát biểu khai mạc của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội, các đại biểu cùng lắng nghe văn tế các vị tiên đế Lý - Trần - Lê và dâng hương. Trước đó, cũng tại đây, bà con kiều bào sẽ tham quan lễ hội văn hóa dân gian và chợ hoa ngày Tết.
Đêm hội văn hóa Việt
Tại công viên Thiên đường Bảo Sơn, kiều bào sẽ tận hưởng không khí tết cổ truyền qua những bức thư pháp Hán Nôm quí của cố đại lão thư pháp Lê Xuân Hòa và đại lão thư pháp Lỗ Nguyên (Trung Quốc), thể hiện thơ Nhật ký trong tù của Bác Hồ cùng những hoạt động tặng chữ ngày xuân với sự tham gia của Hội Thư pháp UNESCO Việt Nam và các nhà thư pháp trẻ.
Kiều bào cũng được dịp chiêm ngưỡng một số tác phẩm thư pháp độc đáo như bức thư pháp bằng gỗ hình hạt gạo có kích thước 4m2 thể hiện Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) qua đôi bàn tay tài hoa của nghệ nhân Trần Thế Kôi, nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ đỉnh cao của các vùng miền như bộ sưu tập đồ đồng Đông Sơn (Trà Đồng- Thanh Hóa) của nhà sưu tập Bùi Tá Sơn, gốm đỏ Luy Lâu (Bắc Ninh) đặc sắc của nhà sưu tập Nguyễn Đăng Vông...
Một số tích trò dân gian ngày xuân độc đáo như Lễ hội trống đồng, cờ người, chọi gà, đu cây du xuân, cây nêu tết, hát đồng dao... sẽ tạo nên bức tranh phong phú của nền văn hóa phi vật thể Việt Nam, tạo không gian văn hóa đầm ấm, đậm sắc thái dân gian cho Xuân Quê hương.
Sau chiêu đãi của lãnh đạo nhà nước dành cho kiều bào và đoàn ngoại giao tại Công viên Thiên đường Bảo Sơn, kiều bào và du khách sẽ được thưởng thức các chương trình văn nghệ trong Đêm hội văn hóa Việt, cao trào của Xuân Quê hương và được truyền hình trực tiếp.
Mở đầu Đêm hội văn hóa Việt, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sẽ thực hiện nghi lễ thả cá chép và chúc tết kiều bào. Chủ đề ca ngợi quê hương đất nước thể hiện qua nhiều tiết mục được dàn dựng công phu như Hợp ca Xuân Quê hương (lời Nguyễn Thanh Sơn, nhạc Trần Phương), Hợp ca Thăng Long - Thành phố Rồng bay (Phương Linh), múa Hồn gió Việt (NSND Anh Phương), Tiếng Pháo giao thừa (cố nhạc sỹ Nguyễn Xuân Khoát- dàn nhạc gõ Phù Đổng...).
Đêm hội văn hóa Việt được đầu tư lớn về âm thanh, ánh sáng, đạo cụ, sân khấu, âm nhạc và vũ đạo. Đây cũng là nơi hội tụ các diễn viên, ca sỹ ở hai miền đất nước và một số ca sỹ, nghệ sỹ nổi tiếng trong nước như Hồng Nhung, Mỹ Linh, Trọng Tấn, Minh Quân và các ca sỹ hải ngoại như Elvis Phương, hai chị em ca sỹ Trúc Linh - Trúc Lam...
Các nghệ sỹ chủ lực của chương trình là Nhà hát Nhạc vũ kịch Việt Nam, Nhà hát ca múa nhạc Việt Nam, Nhà hát tuồng Việt Nam, Nhạc viện Quốc gia, Đoàn võ thuật Nam Anh của Việt kiều Canada.
Lan Anh

Đoàn kiều bào tiêu biểu chúc mừng lãnh đạo ĐảngTP
- Sáng 1-2, tại trụ sở Trung ương Đảng, Hà Nội, đoàn kiều bào tiêu biểu gồm 30 người, từ 14 quốc gia trên thế giới, đã tới chúc mừng các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước nhân dịp kỷ niệm 80 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.


Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết chụp ảnh lưu niệm với đoàn kiều bào tiêu biểu. Ảnh: L.A


Thay mặt đoàn kiều bào, nhà văn Nguyễn Văn Thọ (CHLB Đức) bày tỏ: "Kiều bào Việt Nam tại hải ngoại chúng tôi vẫn luôn hướng về Tổ quốc, theo dõi từng bước đi của nước nhà. Chúng tôi vẫn mong Đảng phát huy vai trò tiên phong, sự sáng suốt không mệt mỏi, mau chóng khắc phục mọi khó khăn, khuyết điểm trong quá trình điều hành, quản lí nhà nước.
Sau khi có Nghị quyết 36 của Đảng, chúng tôi cũng kì vọng, Đảng có thêm nhiều chính sách mới, cụ thể và thích hợp hơn nữa đối với kiều bào, để một mặt sẽ giúp đỡ bà con Việt kiều thêm ổn định ở hải ngoại, mặt khác tạo thêm thuận lợi cho kiều bào đóng góp công sức cùng dân tộc xây dựng quê hương, đất nước Việt Nam yêu dấu".
Tiếp đoàn kiều bào tiêu biểu có Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Nguyễn Văn Chi, Trưởng ban Dân vận Trung ương Hà Thị Khiết.
Thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh ghi nhận những đóng góp to lớn của bà con kiều bào trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tổng Bí thư một lần nữa khẳng định: "Đảng và Nhà nước luôn coi bà con kiều bào là máu thịt của Việt Nam, là bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam. Mong bà con đoàn kết, yêu thương đùm bọc nhau, hướng về đất nước, góp phần xây dựng quê hương. Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để có những chính sách thiết thực với bà con.
Năm 2010, chúng tôi sẽ tổng kết những kinh nghiệm tốt, những bài học quí để phát huy và dám nhìn thẳng vào những khuyết điểm, yếu kém để khắc phục, tiếp tục đưa đất nước đi lên. Chúng ta nhất định sẽ theo đuổi mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Lan Anh

thư của Vĩnh

Người thành cổ Quảng trị

Chào Hiếu năm mới



Ngày mai con trai mình ra Huế nhưng chắc là không ra QT thăm Hiếu được vì nó đi theo tour còn vào Đà nẵng rồi trở về lại SG.
Thôi hẹn dịp khác vậy ra năm nếu sức khỏe tốt mình sẽ ra quê thăm gặp các bạn sau .
Gởi Hiếu mấy tấm hình chụp ngày 1 Tết.

Vợ chồng con cháu nội ngoại của Bùi phước Vĩnh
Vĩnh
vợ Vĩnh lì xì con cháu đầu năm
Con trai trưởng của Vĩnh mừng tuổi ba

Hảo đến thăm

Người thành cổ Quảng trị


Chủ Nhật, 7 tháng 2, 2010

thanhcoquangtri: CỘT MỐC MÙA XUÂN

thanhcoquangtri: CỘT MỐC MÙA XUÂN

Người thành cổ Quảng trị

CỘT MỐC MÙA XUÂN

Người thành cổ Quảng trị
TRẦN KIÊM ĐOÀN -
Canh Dần 2010


Nếu chọn một số tròn để ghi lên cột mốc thời gian của những mùa Xuân lạc xứ, xa nhà thì tôi sẽ đề số 35/30 trên cột mốc năm nay.
Đây không phải là số tuổi chín muồi của một cặp vợ chồng lý tưởng; cũng chẳng phải là hai con số cặp kè của sự phân chia bí ẩn nào đó. Nó chỉ đơn giản như những mùa xuân qua đếm bằng cuốn lịch trên tường và tóc bạc trên đầu. Con số đó là dấu chỉ của dòng thời gian nhớ nhớ, quên quên: 35 năm sống trên quê mẹ và 30 năm sống ở quê người. Ở tuổi về hưu, một người sống gần trọn đời giữa hai thế giới. Người ấy sẽ là ai ở giữa mùa Xuân?
Tôi tự vẽ chân dung mình. Rướn người, cố nhìn mình thật kỹ trong gương. Người xưa nói “tâm viên, ý mã”, nghĩa là tâm thay đổi chuyền cành nhanh như vượn; ý lao vun vút như ngựa chạy đường xa. Thế nhưng tâm lý con người vẫn không chạy đuổi kịp với thời gian…
Người trong gương, ông là ai thế?! Dưới mái tóc muối tiêu – muối nhiều tiêu ít – đó là khuôn mặt góc cạnh pha nếp nhăn của một ông già châu Á. Ba mươi năm ở Mỹ, ông đã đổi thức ăn, thức uống, thức dùng. Những bữa ăn ít dần mắm muối tương cà. Những bữa uống nhạt dần hơi men rượu gạo làng Chuồn, nếp than Đồng Tháp. Những đồ dùng từ tứ xứ tinh tươm. Nhưng nhìn kỹ ông hôm nay, ông cũng vẫn là một ông già của xóm Bàu, xóm Kên, xóm Cụt làng Liễu Hạ. Đã mấy chục năm rồi, ông không còn mặc áo tơi đi trong mưa lạnh rát mặt của mùa Đông xứ Huế. Ông ngỡ như đã quên những bếp củi than, lồng ấp mùa Đông; quên cái quạt mo phành phạch mùa Hè; quên tiếng ve đất và tiếng chim cu gáy buồn buồn gọi nhớ cuối Thu. Nhưng sao ông vẫn nhớ nhà, nhớ luống cải vàng của mẹ trồng, nhớ nhà thờ họ, nhớ cổng chùa làng, nhớ mái đình xưa đầy hương khói. Nhớ quặn mình muốn khóc như trẻ thơ khi mỗi năm Tết về: Nhớ mẹ! Bà Mẹ Quê Việt Nam không phải chỉ là người mẹ sinh con ra và nuôi con khôn lớn. Nếu đem lửa thử vàng thì bà là vàng ròng trong ngọn lửa. Chiến tranh, đói nghèo, gian nan là thế mà bà vẫn gánh một đầu thúng này là con thơ và đầu kia là sự sống còn của đàn con trong cơn nguy biến.
Thì ra, người ta chỉ già theo nhân dáng, nhưng không già trong tình tự quê hương. Tự xét hoàn cảnh riêng mình và các bạn cùng trang lứa và hoàn cảnh, tôi khó mà không đồng tình với nhà tâm lý học cừ khôi hàng đầu của Mỹ là Erik Erickson khi ông ta nói về sự hình thành bản sắc của mỗi con người (establishment of personal identity) đã hoàn thiện và chấm dứt hoàn toàn trong 30 năm đầu của một đời người: 10 năm đầu cho bản sắc tuổi thanh xuân, 10 năm tiếp theo cho bản sắc tình cảm, tư tưởng và 10 năm sau cho bản sắc văn hóa. Một người sinh ra và trưởng thành trên một vùng đất nào đó tới 30 tuổi thì dẫu muốn hay không họ đã hoàn toàn thuộc về nơi đó. Một “Erickson thi sĩ” Việt Nam là Chế Lan Viên đã viết về tâm lý:”Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn.” Tâm hồn là cách gọi khác của một gốc rễ vô hình đã nằm trong góc khuất của mỗi con người. Người ta hy sinh thân mạng để đấu tranh với ngoại xâm và nội thù cũng chỉ vì dính mắc với quê hương.
Sự phát triển tâm lý ngỡ như nghịch chiều nhưng lại là một hiện thực của tuổi già nơi xứ lạ. Tuổi về hưu như một bãi sa bồi đã qua nhiều cơn sóng gió. Những bụi cát phù sa lắng xuống. Đá sỏi hiện nguyên hình và nhận ra nhau. Đó là lúc tuổi già lắng lòng nhớ quê xưa và những khuôn mặt thân yêu ngày cũ. Nơi xứ người, nếu nguồn tình cảm nầy vắng bóng thì làm sao có được những phố Tàu, phố Nhật, phố Việt, phố Đại Hàn tại nhiều thành phố lớn trên các xứ Âu Mỹ đã tự phát từ buổi di dân ban đầu cho đến ngày nay. Người Việt xa xứ mê một “Little Saigon” như tha thiết với một bản sắc tình cảm quê hương đang bị han vùi tên tuổi.
Có một sinh viên Việt Nam trên 30 tuổi, qua Mỹ du học, kết hôn, ở lại. Sau 5 năm ở Mỹ, anh được vào quốc tịch Mỹ và cũng là năm anh tốt nghiệp cao học xã hội tại đại học Sac State. Một lần, sau giờ học về quan niệm bản sắc cá nhân của Erickson, anh hỏi: “Em vừa được vào quốc tịch Mỹ và muốn làm đơn xin từ bỏ quốc tịch Việt Nam. Xin thầy giúp ý kiến.” Tôi góp ý: “Em và tôi đều rời đất nước ở lứa tuổi khi bản sắc nòi giống của cá nhân mình đã được xác lập. Bản sắc nòi giống đã biến thành tâm hồn. Người ta có thể chuyển hóa, nhưng không thể từ bỏ được tâm hồn. Thủ tục và tên gọi chỉ là nhãn hiệu bên ngoài chai nước mắm, chẳng có gì quan trọng.”
Mấy lần về thăm quê, bạn bè han tình hỏi tới: “Ở Tây, ở Mỹ lâu vậy mà bạn có bị lai căng, mất gốc gì không?” Tôi đùa mà rất thật: “Lai rai thì có nhưng lai căng, lai giống thì không!” Lai rai… thì có vô số chuyện để bàn. Cái lai đầu tiên là tiếng “Dạ” và “Không”. Trước một câu hỏi: “Ông không thích mắm ruốc à?” Mỹ trả lời: “Không, tôi không thích”. Việt trả lời: “Dạ (vâng), tôi không thích.” Hay ngắn hơn: “Dạ không!” Dịch ra tiếng Mỹ là “Yes/no!” Người Mỹ la làng, cho tiếng Việt là không rõ ràng giữa có và không. Thật ra, vì họ chưa hiểu rõ ràng về cái suối nguồn văn hóa bao la trong một câu trả lời ngắn gọn: “Dạ” trước là để bày tỏ mối quan hệ với đối tượng đang hỏi; rồi mới tới phần sau là ý kiến của riêng mình. Đó là một sự biểu hiện giao tình giữa người với ta; giữa cá nhân mình với bà con làng trên xóm dưới. Trong lúc người Mỹ với văn hóa đậm tính cá nhân, họ xác định ngay ý kiến riêng của mình từ tiếng “không” phủ nhận đầu tiên. Bởi vậy mà dân Âu Mỹ đặt Tên trước Họ; người Việt đặt Họ trước Tên.
Khi tiếp cận với một nền văn hóa mới, người ta mới thấy được những viên sỏi thường ngày trên đất nước của mình, có khi lại là những hạt quý trên xứ người: Đó là tiếng cười. Cười là một thứ ngôn ngữ không lời cao cấp nhất của văn hóa mà mình vô tình coi nhẹ nó như nắm xôi thằng Bờm. Xa xứ rồi, nếp cười hiện lên như một tiếng vọng nhắc nhở cội nguồn.
Người Việt đã trưởng thành trên quê hương khi tới xứ người có thể nói lưu loát và hùng biện những chuyện triết lý, văn chương, kỹ thuật bằng tiếng Tây, tiếng Mỹ nhưng lại rất ít người có khả năng chuyển tải qua, lại những “thông điệp cười” thống khoái trong tương quan sinh hoạt với người nước ngoài. Khó mà chia sẻ, hiểu hết được cái tinh túy trong Ngôn Ngữ Cười của một dân tộc. Đã gần ba mươi năm, thường xuyên làm việc và sinh hoạt trong thế giới người Mỹ, nhưng tôi cũng như hầu hết bạn bè cùng lứa hay một người bạn tuổi đã 70, du học Mỹ từ năm 1958 ở tuổi hai mươi, vẫn bị lạc xa tít mù khơi trong những câu chuyện khôi hài (joke) của người Mỹ và có lẽ cũng là trường hợp ngược lại, khi chúng tôi cố chia sẻ với người Mỹ chuyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Ba Giai Tú Xuất, rút từ trong kho tiếu lâm xứ mình. Tiếng cười khó thật. Chỉ là đôi tiếng “hì, hì”, không văn phạm, không câu kéo, không nội dung bí hiểm mà học một đời chắc gì thuộc nổi. Khó nhất đời là chuyện… sắc không!
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình và tẩn mẩn làm thơ – thơ 35/30 – trong cái lãng mạn xuôi dòng thời quá khứ có chút khật khừ lý tính phương Tây:
Chiều cuối năm ta ngồi nhìn nẻo ý
Trôi hoang vu như mấy trắng trên trời
Đêm vắng vẻ thân tâm về rỗng lặng
Thoảng hương Xuân mùa Tết đến nơi rồi
Ta thấy được mình khi đếm từng hơi thở
Gió đêm len vào cửa trống ơ hờ
Chút mỏi nản lắng nghe hồn suy tưởng
Không buộc ràng buông xả cõi vu vơ
Tiếng vĩnh cửu thay dòng đời du tử
Hiện bóng trong ta em còn đứng đó
Tiếng dỗi hờn ký ức thuở xa xưa
New Year Eve I sit and watch my thoughts
Come and go wildly like clouds in the sky
But tonight it is clear and all empty
I smell fragrance of the Spring and the Tet
Always in my mind when counting breaths
A night breeze enters through the open window
Tired of listening to my thoughts
Give the mind a rest
Listen to the eternity instead
Oh dear there it is
The whine of returning memoryLâu ngày đón những Noel thay cho ngày Tết, nhưng quê người vẫn váng vất hương Xuân. Bởi thế, ngày đầu năm dương lịch mà dân mình hay gọi là “Tết Tây” nơi xứ người chỉ còn lưu lại nỗi nhớ. Tuổi càng cao, nỗi nhớ càng thấm thía mà rất tự nhiên như cảm xúc tự mình nhìn nhìn sâu hút vào chính mình. Nhớ nỗi buồn và nhớ tiếng cười ngoài sân, đầu ngõ của người thân, bạn bè. Vì cười nó vừa đơn giản mà cũng vừa khó kiếm đến như thế nên xin được ghi thêm một chữ quan trọng lên Cột Mốc Mùa Xuân 35/30: Cười!
Sacramento, Cali. Trước ngõ mùa Xuân 2010.
© 2010 Trần Kiêm Đoàn