THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THI VÂN YÊN TỬ

SỚM CHIỀU DU NGOẠN CÙNG MÂY NÚI
HOA TRÁI QUA NGÀY TA VỚI TA

Thứ Tư, 31 tháng 3, 2010

Những kỳ quan bằng tăm tre



Stan Munro, 38 tuổi, từng là một người dẫn chương trình truyền hình, có niềm say mê vô tận với những chiếc tăm tre. Anh đã tạo dựng lại hàng chục kỳ quan thế giới như đền Angkor Wat ở Campuchia, đền Taj Mahal ở Ấn Độ, nhà hát opera Sydney ở Australia, tòa thánh Vatican ở Italy... Tất cả đều được làm với tỷ lệ 1:164. Stan đã sử dụng tới 6 triệu chiếc tăm, 170 lít keo và mất 6 năm để hoàn thành những công trình tăm tre.
Dưới đây là một số tuyệt tác của người đàn ông kiên trì và có đôi tay rất khéo léo này, ảnh trên Solent và  Photo Agency





Thứ Hai, 29 tháng 3, 2010

Chuyến bay đặc biệt chở Chủ tịch Fidel Castro vào Quảng Trị năm 1973

Người thành cổ Quảng trị

Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Chủ tịch Fidel Castro và Đại tướng Võ Nguyên Giáp chụp ảnh chung với tổ bay.
Năm 1973, nhà lãnh đạo kiệt xuất của nhân dân Cuba anh em, người bạn lớn từ bên kia bán cầu sang thăm Việt Nam. Ông có nguyện vọng được vào tuyến lửa để thăm Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, thăm vùng đất Quảng Trị vừa mới được giải phóng, Fidel Castro lệnh cho Đại sứ Vivo: “Trong mọi trường hợp, dù khó khăn chúng ta vẫn phải đi, dù phải đi bộ...”. Đáp lại nguyện vọng của bạn, Thủ tướng Phạm Văn Đồng yêu cầu Lữ đoàn 919 (nay là Đoàn 919) thực hiện chuyến bay đưa đoàn vào tuyến lửa, với yêu cầu tuyệt đối bí mật, đảm bảo an toàn.
Đại tá Hồ Văn A khi đó là nhân viên thông tin trên không, nhớ lại: Ngày 13/9/1973, chúng tôi nhận được lệnh đưa chiếc máy bay AN24 mang số hiệu VN - 1094 về nước. Tuy Hiệp định Pari đã được ký kết nhưng đa phần máy bay vận tải của chúng ta vẫn ở nơi sơ tán tại Tường Vân (Trung Quốc), khi nhận lệnh, anh em chúng tôi được biết rằng sẽ thực hiện chuyến bay chuyên cơ, nhưng không ai rõ nhiệm vụ cụ thể. Đầu giờ chiều chúng tôi cất cánh bay về Nam Ninh (Trung Quốc) tiếp dầu, kiểm tra kỹ thuật chờ tối bay về Gia Lâm. Như mọi lần, chuyến bay đó cũng được các bạn Trung Quốc phục vụ chu đáo.
Ngày hôm sau, sau khi đội thợ máy kiểm tra toàn bộ một cách kỹ lưỡng, bộ phận xăng dầu làm công tác hóa nghiệm nhiên liệu, chúng tôi tiến hành bay thử, rồi máy bay được kẹp chì, bàn giao cho bảo vệ, nhưng tất cả vẫn không được biết mình sẽ thực hiện chuyến bay đi đâu, phục vụ ai... mà qua công tác kiểm tra chuẩn bị chỉ đoán rằng sẽ thực hiện chuyến bay chuyên cơ A, tức là chuyến bay đặc biệt nhất.
Cuối cùng tổ bay cũng được chỉ định, bao gồm Nguyễn Oanh - Cơ trưởng, Nguyễn Văn Hội - dẫn đường, Nguyễn Văn Hợi - cơ giới trên không và tôi (Hồ Văn A) - thông tin, Phan Hồng Tâm lái phụ và 2 tiếp viên là đồng chí Đạt và đồng chí Hà. Nhận nhiệm vụ từ Lữ trưởng Nguyễn Phúc Trạch, anh em chúng tôi hào hứng hẳn lên, không ngờ mình lại hân hạnh được thực hiện chuyến bay đưa Fidel Catro về thăm vùng đất mới giải phóng.
Đại tá Hồ Văn A kể tiếp: Sự phấn chấn nhanh chóng qua đi, trước mắt chúng tôi là nhiệm vụ vô cùng nặng nề, bởi kẻ thù luôn tìm cách phá hoại, và hơn nữa với Fidel, một nhân vật đã bao lần bị kẻ địch âm mưu sát hại mà không thành thì nhiệm vụ bảo vệ ông càng phải đảm bảo ở mức cao nhất.
Bên cạnh đó, việc máy bay phải hạ cánh xuống Đồng Hới, một sân bay dã chiến, gần như không có thiết bị dẫn đường nào, tất cả chỉ bằng mắt thường và kinh nghiệm. Tuy vậy, với giọng nói rắn rỏi, Cơ trưởng Oanh thay mặt toàn bộ tổ lái hứa quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, thực hiện chuyến bay tuyệt đối an toàn.
Ngay sau đó, tất cả chúng tôi họp lại bàn phương án thực thi nhiệm vụ và được lãnh đạo Lữ đoàn chấp thuận. Thời gian gấp, lại có tin một cơn bão sắp đổ bộ vào miền Trung nên anh em chúng tôi không có điều kiện để bay thử vào Đồng Hới như đã dự định.
Sáng 15/9/1973, tổ lái chúng tôi đưa chiếc AN24 mang số hiệu VN-1094 thực hiện chuyến chuyên cơ đặc biệt đưa Chủ tịch Fidel cùng đoàn đại biểu Chính phủ Cuba và Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào tuyến lửa. 9h40', máy bay cất cánh. Theo đúng lịch trình, 11h kém 15' chúng tôi đã có mặt tại Đồng Hới.
Rất may, thời tiết hôm ấy thật đẹp, điều kiện khí tượng lý tưởng để chúng tôi thực hiện cú đáp nhẹ nhàng xuống sân bay dã chiến với đường băng ngắn và hẹp. Một sân bay mà ngài Đại sứ Cuba Vivo nói vui: “Không có tháp điều khiển mà chỉ có những đống gạch vụn”.
Máy bay dừng hẳn, ôtô đón đoàn đi vào Quảng Trị, tổ lái được cán bộ tháp tùng chuyển lời cảm ơn đã đưa đoàn bạn vào tới nơi an toàn. Sau khi kiểm tra, niêm phong, ngụy trang máy bay, chúng tôi được đưa về nhà khách của tỉnh Quảng Bình, nhưng thực ra đây là một dãy nhà cấp 4 dựng vội giữa một thị xã hoang tàn, đổ nát. Ngày ấy, Đồng Hới không còn một ngôi nhà nào nguyên vẹn, ngoài khu nhà mà chúng tôi được ở.
Đã vào mùa thu, nhưng thời tiết nơi đây vẫn nóng kinh khủng, mà nước lại rất hiếm. Tuy vậy, anh em chúng tôi rất vui vì đã thực hiện chuyến bay an toàn. Tổ lái được thông báo sẽ ở lại chờ đoàn thực hiện xong chuyến thăm và hội đàm với Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam rồi sẽ bay ra. Nhưng đột nhiên chỉ ngày sau đó, tổ bay nhận lệnh đưa đoàn trở ra Hà Nội.
Với tư thế sẵn sàng, anh em nhanh chóng trở lại sân bay, tra nạp nhiên liệu, kiểm tra kỹ thuật cho chuyến bay trở ra. Sau này, chúng tôi mới biết, do tình hình Chile căng thẳng, nên Chủ tịch Fidel Catro phải về nước sớm, khiến cho chuyến thăm tuyến lửa của ông cũng chưa thực sự được trọn vẹn.
Hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm, chúng tôi lại nhận được một bất ngờ khác, đích thân Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ra tận cầu thang máy bay đón đoàn và chúc mừng tổ lái hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đại tướng dẫn Chủ tịch Fidel lần lượt bắt tay từng thành viên trong tổ bay, Chủ tịch Fidel Castro cảm ơn anh em đã vượt qua mọi khó khăn để thực hiện chuyến bay an toàn, để ông và đoàn đại biểu của nhân dân Cuba được vào tuyến lửa Quảng Trị, được trực tiếp đến vùng đất mới giải phóng của Việt Nam. Ông chúc chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ, giành nhiều thắng lợi, chúc đất nước Việt Nam sớm được thống nhất.
Theo đề nghị của tổ bay, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Chủ tịch Fidel Castro đã vui vẻ đứng chụp ảnh lưu niệm cùng anh em chúng tôi, bức ảnh được chụp ngay chân cầu thang chiếc chuyên cơ AN24 mang số hiệu VN-1094, ghi rõ nét mặt rạng ngời trên khuôn mặt mọi người.
Bức ảnh đó hiện vẫn được lưu giữ trang trọng trong Phòng truyền thống của Đoàn bay 919, như nhắc nhở mọi người nhớ về những lần thực hiện các chuyến bay chuyên cơ trong tháng ngày gian khó.
Còn chúng tôi, những thành viên của tổ lái hôm ấy tất cả nay đã nghỉ hưu, trong cuộc đời đã được thực hiện nhiều chuyến bay chuyên cơ, nhưng lần vào tuyến lửa năm đó là chuyến bay chẳng thể nào quên
N.T.Phương Thảo

ĐÔI DÉP

Người thành cổ Quảng trị
Đến với một bài thơ hay, có nhiều đường đến và nhiều hướng để cảm nhận. Với tôi, tôi nghĩ trong đời nếu có một người để mình da diết thương, mình cuồng nhiệt yêu, mình điên cuồng nhớ... thì đó đã là một hạnh phúc. Hạnh phúc vì tin rằng dù được hoan lạc yêu hay não nùng tình phụ thì những cuộc tình đẹp vẫn tồn tại và có thật ở trên đời. Trong suy nghĩ đó, tác giả Nguyễn Trung Kiên là một người hạnh phúc. Anh đã gieo cho bạn đọc một niềm tin như thế.
LÊ MINH QUỐC

Đôi dép
Bài thơ đầu anh viết tặng em
Là bài thơ anh kể về đôi dép
  Khi nỗi nhớ ở trong lòng da diết
  Những vật tầm thường cũng có thể thành thơ
Hai chiếc dép kia gặp nhau tự bao giờ
Từ lúc ấy sẽ chẳng rời nửa bước
Cùng gánh vác những nẻo đường xuôi ngược
Lên thảm nhung xuống phố bụi cùng nhau
Cùng bước, cùng mòn, không kẻ thấp người cao
Cùng chia sẻ sức nặng đời chà đạp
Dẫu vinh nhục không đi cùng chiếc khác
Số phận chiếc này phụ thuộc chiếc kia
Nếu ngày nào một chiếc bị xa lìa
Mọi thay thế đều trở nên khập khiễng
Giống nhau lắm nhưng người đời sẽ biết
Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu
Cũng như mình trong những lúc vắng nhau
Bước hụt hẫng cứ nghiêng về một phía
Dẫu bên cạnh đã có người thay thế
Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh
Đôi dép vô tri khắng khít song hành
Chẳng thề nguyền mà không hề giả dối
Chẳng hứa hẹn mà không hề phản bội
Lối đi nào cũng có mặt cả đôi
Không thể thiếu nhau trên bước đường đời
Dẫu mỗi chiếc ở một bên phải, trái
Như tôi yêu em bởi những điều ngược lại
Gắn bó đời nhau vì một lối đi chung
Hai mảnh đời thầm lặng bước song song
Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc
Chỉ còn một là không còn gì hết
Nếu không tìm được chiếc thứ hai kia…
Nguyễn Trung Kiên

Tiếng Việt Dễ Thương Qua Hai Miền Nam , Bắc

Người thành cổ Quảng trị

Bắc bảo Kỳ , Nam kêu Cọ (gọi là Kỳ Cọ)

Bắc gọi lọ, Nam kêu chai
Bắc mang thai, Nam có chửa
Nam xẻ nửa, Bắc bổ đôi


Ôi ! Bắc quở Gầy , Nam than Ốm
Bắc cáo Ốm, Nam khai Bịnh
Bắc định đến muộn, Nam liền la trễ
Nam mần Sơ Sơ, Bắc nàm Nấy Nệ


Bắc lệ tuôn trào, Nam chảy nước mắt
Nam bắc Vạc tre, Bắc kê Lều chõng
Bắc nói trổng Thế Thôi , Nam bâng quơ Vậy Đó
Bắc đan cái Rọ , Nam làm giỏ Tre,


Nam không nghe Nói Dai, Bắc chẳng mê Lải Nhải
Nam Cãi bai bãi, Bắc Lý Sự ào ào
Bắc vào Ô tô, Nam vô Xế hộp
Hồi hộp Bắc hãm phanh, trợn tròng Nam đạp thắng


Khi nắng Nam mở Dù, Bắc lại xoè Ô
Điên rồ Nam Đi trốn, nguy khốn Bắc Lánh mặt
Chưa chắc Nam nhắc Từ từ, Bắc khuyên Gượm lại
Bắc là Quá dại, Nam thì Ngu ghê


Nam Sợ Ghê, Bắc Hãi Quá
Nam thưa Tía Má, Bắc bẩm Thầy U
Nam nhủ Ưng Ghê, Bắc mê Hài Lòng
Nam chối Lòng Vòng, Bắc bảo Dối Quanh


Nhanh nhanh Nam bẻ Bắp, hấp tấp Bắc vặt Ngô
Bắc thích cứ vồ, Nam ưng là chụp
Nam rờ Bông Bụp, Bắc vuốt Tường Vi
Nam nói: mày đi ! Bắc hô: cút xéo.
Bắc bảo: cứ véo ! Nam : ngắt nó đi.
Bắc gửi phong bì, bao thơ Nam gói
Nam kêu: muốn ói, Bắc bảo: buồn nôn !
Bắc gọi tiền đồn, Nam kêu chòi gác


Bắc hay khoác lác, Nam bảo xạo ke
Mưa đến Nam che, gió ngang Bắc chắn
Bắc khen giỏi mắng, Nam nói chửi hay.
Bắc nấu thịt cầy, Nam thui thịt chó.


Bắc vén búi tó, Nam bới tóc lên
Anh Cả Bắc quên, anh Hai Nam lú
Nam : ăn đi chú, Bắc: mời anh xơi !
Bắc mới tập bơi, Nam thời đi lội.


Bắc đi phó hội, Nam tới chia vui
Thui thủi Bắc kéo xe lôi, một mình xích lô Nam đạp
Nam thời mập mạp, Bắc cho là béo
Khi Nam khen béo, Bắc bảo là ngậy


Bắc quậy Sướng Phê , Nam rên Đã Quá !
Bắc khoái đi phà, Nam thường qua bắc.
Bắc nhắc môi giới, Nam liền giới thiệu
Nam ít khi điệu, Bắc hay làm dáng.


Tán mà không thật, Bắc bảo là điêu
Giỡn hớt hơi nhiều, Nam kêu là xạo.
Bắc nạo bằng gươm, Nam thọt bằng kiếm
Nam mê phiếm, Bắc thích đùa.


Bắc vua Bia Bọt , Nam chúa La-De
Bắc khoe Bùi Bùi lạc rang, Nam : Thơm Thơm đậu phọng
Bắc xơi na vướng họng, Nam ăn mãng cầu mắc cổ
Khi khổ Nam tròm trèm ăn vụng, Bắc len lén ăn vèn


Nam toe toét «hổng chịu đèn», Bắc vặn mình «em chả»
Bắc giấm chua «cái ả», Nam bặm trợn «con kia»
Nam mỉa «tên cà chua», Bắc rủa «đồ phải gió»
Nam nhậu nhẹt thịt chó, Bắc đánh chén cầy tơ

Bắc vờ vịt lá mơ, Nam thẳng thừng lá thúi địt
Khi thấm, Nam xách thùng thì Bắc bê sô
Nam bỏ trong rương, Bắc tuôn vào hòm.
Nam lết vô hòm, Bắc mặc áo quan
Bắc xuýt xoa "Cái Lan xinh cực !",

Nam trầm trồ "Con Lan đẹp hết chê !"
 Nguyễn Tường sưu tầm

Chủ Nhật, 28 tháng 3, 2010

Lung linh đêm hội pháo hoa

Người thành cổ Quảng trị
Cuộc thi bắn pháo hoa quốc tế (DIFC) năm 2010 với chủ đề "Huyền thoại sông Hàn" đã chính thức khai mạc vào tối qua (27-3) tại Đà Nẵng với sự góp mặt của các "cường quốc pháo hoa" Nhật Bản, Pháp, Bồ Đào Nha, Hoa Kỳ và Đội pháo hoa Đà Nẵng - Việt Nam.
 


Đúng 20h35, đội Bồ Đào Nha đã trình diễn" vũ hội" đầu tiên với chủ đề "Rồng và lửa - nơi truyền thuyết khai sinh" đưa người xem trở về thời hồng hoang khi rồng và tiên bao trùm cả đất trời bằng những chùm pháo hoa rực sáng sắc màu hòa nhịp với nền nhạc trữ tình, có lúc êm đềm lắng đọng rồi cao vút. Ngay lập tức dòng sông Hàn thơ mộng đã trở thành dòng sông của ánh sáng rực rỡ muôn màu sắc. Cả bầu trời Đà Nẵng lộng lẫy, lung linh bởi muôn hồng ngàn tía trong tiếng hò reo vang dậy của hàng chục vạn người dân Đà Nẵng và du khách thập phương.
 


Vẫn phong cách mềm mại, truyền thống nhưng hiện đại, trong 24 phút, màn trình diễn của đội Nhật Bản là những chùm pháo hoa lấp lánh muôn màu, hòa quyện rực rỡ thể hiện những hình ảnh rồng vàng bay cao lên bầu trời, rồng đẻ trứng, núi Ngũ Hành Sơn trên thành phố Cảng sôi động.
 
 

Phần chờ đợi nhất của người dân và du khách là màn trình diễn kéo dài gần 20 phút đầy ấn tượng của đội pháo hoa nước chủ nhà Việt Nam. Mặc dù được đánh giá là ít kinh nghiệm nhưng đội Việt Nam đã có nhiều bước tiến rõ rệt so với lần thi đấu năm trước. Màn trình diễn "Huyền thoại sông Hàn" trên nền nhạc mang âm hưởng bình dị, êm ả của làng quê Việt Nam được thể hiện theo 5 phần (mỗi phần gần 4 phút): Nơi rồng về khai hoa; Sông Hàn thanh xuân; Sông Hàn - nỗi đau chiến tranh; Sông Hàn dậy sóng; Sông Hàn - tình yêu và khát vọng. Lúc nhấn nhá du dương, sâu lắng, chỗ nào cao trào, ào ạt khiến nhạc nền và pháo hoa, âm thanh và hình ảnh luôn tương hỗ, tạo đà cho nhau cùng thăng hoa. Màn diễn của đội Việt Nam cũng đã kết thúc ngày bắn pháo hoa đầu tiên trong sự nuối tiếc của bao người.
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 

 
 

Viết Thành 
 

Thứ Sáu, 19 tháng 3, 2010

Về bài thơ "Màu tím hoa sim"

Người thành cổ Quảng trị
Bản gốc chính xác của Màu tím hoa sim?
Báo Tuổi Trẻ có bài viết về việc Công ty Vitek VTB mua tác quyền bài thơ Màu tím hoa sim của nhà thơ Hữu Loan và đăng văn bản bài thơ này. Nhiều bạn đọc đã hỏi về nhiều điểm khác nhau giữa các dị bản của bài thơ và đề nghị tòa soạn tìm hiểu bản gốc chính xác.
Bạn đọc truongvc@... đề cập đến chi tiết “thời chiến binh” (văn bản đăng trên Tuổi Trẻ) hay “thời chiến chinh”. Sau khi xem lại bản chép tay có chữ ký của nhà thơ Hữu Loan (ngày 12-10-2004) lẫn dấu đăng ký của Cục Tác quyền (ngày 19-10-2004) do Công ty Vitek VTB cung cấp, chúng tôi xin xác nhận chi tiết này chính xác là “thời chiến chinh”.
Một chi tiết khác từ bấy lâu cũng được rất nhiều người quan tâm nhưng không rõ chính xác là ở câu “chiều hoang tím có chiều hoang biết” hay “...chiều hoang biếc”? Bản chép tay gốc của tác giả cho kết luận chính xác là “chiều hoang biết”. Tương tự, anh Quang Hưng (quốc lộ 13, Thủ Đức) nêu ra chi tiết “ngợ ngàng nhìn ảnh chị” và “ngỡ ngàng nhìn ảnh chị” cái nào đúng, bản gốc chính xác là “Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị”.
Bạn đọc DinhChau (ndvchau@...) phát hiện có nhiều bản dị biệt khác nhau ở đoạn cuối bài thơ từ “chiều hành quân...” đến “... chiều hoang biền biệt”. Văn bản gốc ghi như sau: “Chiều hành quân qua những đồi hoa sim, những đồi hoa sim, những đồi hoa sim dài trong chiều không hết. Màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt” (đúng như văn bản đăng trên Tuổi Trẻ).
Tuy nhiên, còn hai chi tiết chưa chính xác trong văn bản đăng trên Tuổi Trẻ do lỗi từ bản đánh máy của Công ty Vitek mà ngày hôm qua 12-12, ông Lê Văn Chính - giám đốc Vitek - đã thông báo và nhờ đính chính.
Đó là: “Khi tóc nàng xanh xanh” thay vì “Khi tóc nàng đang xanh”; và “Nhỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ” thay vì “Lỡ khi mình không về...”. Ngoài ra ông Chính cũng xác định quê gốc và cũng là nơi ở hiện nay (đã đối chiếu với sổ hộ khẩu và chứng minh nhân dân) của nhà thơ là thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Như vậy sau hơn nửa thế kỷ tồn tại và được đông đảo người yêu mến, truyền tụng (đặc biệt là những bản trên mạng Internet hay sao lại từ bản nhạc phổ thơ), bài thơ Màu tím hoa sim đã có nhiều chi tiết, từ ngữ dị biệt. Việc bài thơ vừa được mua tác quyền cũng là dịp để chúng ta xác định lại chính xác tất cả theo văn bản gốc từ tác giả.
TR.N

Tác quyền Màu tím hoa sim: 100 triệu đồng

TT - Mới đây, việc nhà thơ Hữu Loan ở tuổi gần 90 bất ngờ nhận được 100 triệu đồng tiền tác quyền cho bài thơ nổi tiếng Màu tím hoa sim từ Công ty điện tử Vitek VTB được coi là một sự kiện.
Từ trước tới nay chưa có bài thơ nào được mua tác quyền với giá cao đến thế. Tuổi Trẻ đã đi tìm câu trả lời từ ông Lê Văn Chính, giám đốc Công ty Vitek VTB.
* Điều mà nhiều người thấy lạ: vì sao một doanh nghiệp lại đi mua bản quyền thơ?
Nhà thơ Hữu Loan tên thật Nguyễn Hữu Loan, sinh năm 1916. Quê gốc của ông - cũng là nơi ông đang ở hiện nay - là huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông tham gia Việt Minh từ trước Cách mạng Tháng Tám.
Hữu Loan làm thơ không nhiều nhưng ông có những bài được nhiều người thuộc, ghi lại tâm tư của con người trong thời kháng chiến như Màu tím hoa sim, Đèo Cả, Những làng đi qua...
Màu tím hoa sim viết cách đây hơn nửa thế kỷ, là những cảm xúc tức thời sau một biến cố sâu sắc xảy ra trong đời ông. Thời kháng chiến, ông kết hôn với người vợ trẻ xinh đẹp vốn là học trò cũ. Hai người sống với nhau chỉ hai tuần rồi ông phải trở về đơn vị. Ba tháng sau, ông nhận được tin vợ mất vì bị nước cuốn. Lúc ấy vợ ông mới 16 tuổi...
- Tôi muốn dùng từ “chuyển nhượng” thay cho từ mua bản quyền. Đây là một hình thức thể hiện sự trân trọng của một doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm văn hóa với một tác phẩm nghệ thuật. Dĩ nhiên là việc chuyển nhượng này còn nhằm mục đích kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp tham gia các sự kiện văn hóa - thể thao với mục đích phát triển thương hiệu.
Nhưng với các doanh nghiệp điện tử tại VN thì hầu hết là doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, họ có thiệt thòi là không biết tiếng Việt nên không hiểu được người VN thích gì, rung động trước cái gì. Họ chỉ nhận biết những gì hữu hình như người mẫu nổi tiếng, ca sĩ hát hay, một siêu sao bóng đá và đầu tư cho những đối tượng này.
Tuy nhiên, giọng hát, nhan sắc hay đôi chân cầu thủ không phải là những giá trị lâu dài. Vitek là doanh nghiệp trong nước, cảm nhận được những giá trị vô hình chính là lợi thế cạnh tranh của chúng tôi. Thơ là sự lắng đọng, khêu gợi sự rung cảm. Lý do chúng tôi chọn mua tác quyền bài thơ là như vậy.
* Thưa ông, tại sao lại là Màu tím hoa sim mà không phải một tác phẩm nào khác?
- Trong thế kỷ trước, dấu ấn đậm nhất của thế giới về VN là chiến tranh cách mạng. Có rất nhiều bài thơ viết về chiến tranh, nhưng theo chúng tôi, Màu tím hoa sim là bài thơ nhiều giá trị. Chiến tranh luôn kéo theo mất mát, đau khổ.
Trong những năm 1950 người ta cần nhiều bài thơ hô hào, những tiếng xung phong. Nhưng khi chiến tranh đã đi qua, người ta cần nhìn về nó với cái nhìn nhân bản hơn. Nỗi khổ mà chiến tranh gây ra không phải là nỗi khổ của người lính ra chiến trận mà là sự chờ đợi của những người phụ nữ ở nhà, không biết khi nào chồng, cha, anh, em mình mới trở về.
Một khi bài thơ này dịch ra tiếng Anh và đem ra với thế giới, người nước ngoài sẽ có một ấn tượng khác hơn về một VN trong chiến tranh - thổn thức và lắng đọng hơn. Bài thơ là tiếng thở dài, tiếng khóc của một người lính khóc vợ. Người vợ của anh chết trẻ, do lỗi gián tiếp thuộc về chiến tranh.
Ông Lê Văn Chính, giám đốc Công ty Vitek VTB
* Bài thơ này sẽ được sử dụng như thế nào?
- Chúng tôi đưa bài thơ đã được diễn ngâm vào một sản phẩm của chúng tôi. Bài thơ sẽ như một dấu ấn văn hóa của một sản phẩm VN, đi cùng sản phẩm này ra thị trường trong và ngoài nước. Trong tương lai, chúng tôi có dự định mua tác quyền của những tác phẩm khác nữa, tổ chức các hoạt động văn hóa như thi ca khúc, thi thơ, thành lập quĩ phát triển văn hóa để bày tỏ sự trân trọng, biết ơn của mình đối với những tác phẩm nghệ thuật.
Đây cũng là một hình thức bảo vệ sản phẩm văn hóa. Cụ thể, chúng tôi sẽ lưu giữ và phổ biến bản chuẩn nhất để tránh tình trạng có rất nhiều dị bản của cùng một tác phẩm có thể sẽ khiến tác phẩm bị mai một.
* Kéo theo việc mua tác quyền bài thơ Màu tím hoa sim sẽ là một loạt hoạt động liên quan, chẳng hạn như một đơn vị, cá nhân nào đó sẽ xin phép dùng bài thơ để phổ nhạc, diễn ngâm hoặc xuất bản... Vitek sẽ xử lý những việc này như thế nào?
- Tiền tác quyền thu được từ việc sử dụng bài thơ sẽ được chuyển vào quĩ phát triển văn hóa của chúng tôi.
* Xin cảm ơn ông.
LÊ THƯƠNG thực hiện

Nhà thơ Hữu Loan: "Thơ tôi, dấu ấn đời tôi"

Người thành cổ Quảng trị

Hơn một năm sau ngày Hữu Loan chuyển nhượng quyền sử dụng bài thơ Màu tím hoa sim cho Công ty điện tử Vitek, tôi quay lại thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn (Thanh Hoá) và có cuộc trò chuyện với lão nhà thơ vừa bước sang tuổi 87.

Cuộc đời ông trải qua quá nhiều thăng trầm. Tham gia khởi nghĩa giành chính quyền, là Ủy viên Thông tin tuyên truyền của Ủy ban lâm thời tỉnh Thanh Hoá, sau đó về công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam... Nhưng rồi sau thời kỳ "nhân văn giai phẩm", ông đã về sống ẩn đến tận bây giờ.
Nhà thơ Hữu Loan cho biết, kể từ sau ngày "bán" bài thơ Màu tím hoa sim (100 triệu đồng) đến nay đã có một số tổ chức, cá nhân khác ở trong và ngoài nước đến đặt vấn đề muốn được khai thác toàn bộ những tác phẩm thi ca do ông sáng tác. Song ông không đồng ý bởi nhiều lý do.
Cái lý do cơ bản nhất là: "Thơ tôi làm ra không phải để bán. Tôi làm thơ chủ yếu là để phục vụ cho phong trào cách mạng đấu tranh chống giặc ngoại xâm của quân và dân ta. Để ca ngợi tình con người với con người và để chép lại những câu thiên tình sử đẹp nhất mà tôi đã gặp, đã chứng kiến. Những bài thơ đó, giờ nó đã trở thành tài sản chung của mọi người rồi". Ông cũng cho biết, những bài thơ do ông sáng tác đến giờ phút này đã bị thất lạc rất nhiều, do ông không có thói quen ghi chép và lưu trữ.
Tuy nhiên, những tác phẩm thi ca của nhà thơ Hữu Loan khó có thể lẫn đi đâu được vì nó có một bút pháp riêng, tạo nên một phong cách đặc biệt, mà Tình thủ đô của ông do Dương Tường và Mạc Lân nhớ lại vào cuối năm 2004 là một ví dụ rất cụ thể. Hiện Hữu Loan đã giao toàn quyền việc sưu tầm, lưu trữ các tác phẩm thơ do ông sáng tác cho người con trai thứ 8.
Đó là anh Nguyễn Hữu Đán - cán bộ Cty Tu bổ di tích và Thiết bị văn hoá trung ương thuộc Bộ VH-TT. Anh Đán cho hay, đến nay anh đã "tìm thấy" được cả thảy 60 bài thơ của ông sáng tác. Có những bài anh chỉ sưu tầm được 4-5 câu, nhưng cũng có những "trường ca" dài tới 60 trang.
Anh Đán cho biết việc sưu tầm tuy rất khó khăn, nhưng vì trân trọng những giá trị trong thơ, đã có những người tự mang thơ đến đưa lại ông sau nhiều năm thất lạc. Mới đây nhất, bà Nguyễn Thị Thanh ở đường Trần Hưng Đạo (Hà Nội) đã gửi lại cho nhà thơ Hữu Loan một bài thơ vô đề.
Bài thơ ca ngợi những y, bác sĩ đã hết lòng chăm sóc cho các thương binh trở về sau trận chiến chống lại kẻ thù xâm lược bảo vệ tổ quốc. Bài thơ có đoạn. "... Áo quần loang bết mủ/ Vết thương nhày hôi tanh/ Em đem về giặt giũ/ Chong đèn vá thâu canh/ Mai những người vui được áo lành...". Vào một thời điểm nào đó thích hợp anh Nguyễn Hữu Đán sẽ cho ra mắt Toàn tập Hữu Loan.
* Chắc bác vẫn còn nhớ cảm xúc của mình khi viết nên bài Màu tím hoa sim được nhiều người coi là một "kiệt tác" của thi ca VN thế kỷ 20?
- Làm sao tôi có thể quên được điều đó. Màu tím hoa sim là màu tang thương của một tình yêu định mệnh, tình vợ chồng ngắn ngủi mà giờ đây nó chỉ còn lại trong ký ức của riêng tôi. Đó là một mối tình ly kỳ nhất và tôi là người may mắn nhất được tạo hoá ban tặng. Ngày tôi đặt chân đến gia đình ông Lê Đỗ Kỳ (sau này là nhạc phụ) làm gia sư cho ba người con trai của ông, cũng là ngày vợ ông ấy sinh hạ một bé gái xinh xắn.
Nhưng có một điều khác thường ở chỗ là cô bé không cất tiếng khóc chào đời như mọi đứa trẻ khác. Gia đình họ mang cô bé đặt lên trên nắp một cái thùng phuy để cầu nguyện một điều gì đó, tôi tò mò lại ngắm nhìn thì cô bé nhoẻn miệng cười với tôi. Lớn lên, tôi đi đâu cô bé ấy cũng đòi đi theo.
Và còn một điều kỳ lạ nữa là khi tôi quay trở lại làm gia sư dạy học cho chính cô bé sau này là vợ mình, nhà ông tham Kỳ lúc nào cũng có vài ba mươi người ăn, kẻ ở hầu hạ thế nhưng cô ta luôn giữ vali và không cho bất kỳ ai giặt quần áo của tôi, mà tự tay cô ấy giặt, là lấy rồi gấp xếp vào vali cho tôi.
Cô bé càng lớn càng đẹp, một vẻ đẹp thánh thiện. Chúng tôi cưới nhau ngày 16-2-1949 thì đến ngày 29-5 cùng năm đó, vợ tôi tên là Lê Đỗ Ninh mất do chết đuối, khi tôi đang hoạt động cách mạng ở Nưa (huyện Triệu Sơn, Thanh Hoá). Đau thương này kéo dài lắm. Và cũng chính vì lẽ đó nên sau khi cô ấy mất, tôi có ý định không lấy vợ nữa. Mỗi lần nhớ tới cô ấy là tôi lại "khóc" ra một quãng của bài thơ Màu tím hoa sim hoàn chỉnh bây giờ.
* Nhưng rồi định mệnh lại dắt bác đến với một người phụ nữ khác, sống cùng bác đến ngày hôm nay và đã sinh cho bác tới 10 người con.
- Người vợ thứ hai là bà Phạm Thị Nhu, sống với tôi hơn 50 năm rồi. Bà ấy cũng là một người phụ nữ sâu sắc. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé vào mỗi buổi chiều lại lén lút đứng bên ngoài song cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Khi gặp nhau, cô bé ấy mới nói vì đi nghe tôi giảng Kiều nên nhiều hôm để trâu ăn lúa, nên bị bắt phạt. Thì ra cô ta cũng là người có tâm hồn. Khiến tôi vẫn phải suy nghĩ rất nhiều mới có quyết định này. Rất may là sự quyết định của tôi đã không nhầm.
* Với bác, điều tâm đắc nhất trong những tác phẩm của mình là gì, có thể định nghĩa được không?
- Trong thơ tôi có niềm khát khao cháy bỏng cho một đất nước được tự do, cho dân tộc được giải phóng khỏi ách đô hộ, đó là niềm lớn nhất. Còn nhớ, ngày đó có một viên trung tướng phục vụ cho thực dân Pháp được giao nhiệm vụ theo dõi để ám sát tôi. Vì lý do gì thì tôi không biết, nhưng ông ấy đã tìm gặp và nói với tôi rằng, khi ông ta đọc xong bài thơ Yên Mô thì ông ấy đã từ bỏ ý định ám sát tôi. Ông ấy rất yêu bài thơ Yên Mô của tôi viết về quê hương ông.
Viên trung tướng nói, mỗi một lúc ông nhớ quê là lại đọc bài thơ Yên Mô. Mỗi lúc định giết tôi, viên tướng lại nhớ đến quê mình nên lại thôi. Nhà nghiên cứu và phê bình văn học Đặng Thai Mai cũng đã từng nói rằng, ông rất thích câu thơ cuối cùng trong bài Yên Mô: "Canh làng du kích Yên Mô/ Nửa đêm trăng mọc đỏ như cháy đồi".
Ông Đặng Thai Mai nhận xét rằng, câu thơ đã đốt cháy rực cả bài thơ lên. Nửa đêm trăng mọc, nhưng người ta cứ tưởng là du kích đánh cháy đồn địch. Cái sức sống mạnh mẽ trong mỗi tác phẩm thi ca là ở chỗ phải ghi được dấu ấn trong một thời khắc đặc biệt.
Bài thơ Tình thủ đô cũng là một minh chứng xác thực cho niềm tâm đắc mà tôi vừa nói ở trên. Vào những năm 50 của thế kỷ trước, đất nước ta gặp rất nhiều khó khăn trước kẻ thù xâm lược là thực dân Pháp. Một bộ phận trí thức chán nản, muốn quay lại nội thành Hà Nội. Nhưng bài thơ Tình thủ đô đã kêu gọi được tầng lớp trí thức là giáo viên, bác sĩ vững tin ở lại với kháng chiến, phục vụ cho kháng chiến.
* Cháu xin tò mò một chút! Khoản tiền 100 triệu đồng thu về từ việc "bán" bài thơ Màu tím hoa sim đến nay bác sử dụng thế nào rồi?
- Sự thật tôi không có ý định "bán" Màu tím hoa sim, nhưng thấy họ giải thích thuyết phục nên mới xuôi lòng. Khoản tiền 100 triệu đồng, trừ thuế còn 90 triệu, chia "lộc" cho 10 người con hết 60 triệu đồng. Tôi giữ lại 30 triệu, phòng ốm đau lúc tuổi già.
- Xin cảm ơn bác và chúc bác một năm mới dồi dào sức khoẻ!
Theo Lao Động

Nhà thơ Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 14-6-1919 tại làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa. Ông đỗ tú tài Tây sau đó đi dạy học, tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền ở huyện Nga Sơn. Khi cách mạng thành công, Hữu Loan giữ chức Ủy viên Thông tin tuyên truyền trong Uỷ ban lâm thời của chính quyền tỉnh Thanh Hoá.
Hữu Loan nổi tiếng với nhiều bài thơ tình lãng mạn như: Màu tím hoa sim, Tình thủ đô, Hoa lúa, Yên Mô... Các tác phẩm thi ca của Hữu Loan bị thất lạc hiện đang được người con trai út Nguyễn Hữu Đán sưu tầm và lưu giữ. Tuy nhiên đến thời điểm này nhà thơ Hữu Loan vẫn chưa cho ra mắt bạn đọc một tập thơ nào. Ông sống trong một ngôi nhà nhỏ tại quê hương, các con của ông đã trưởng thành và có cuộc sống tương đối ổn định.
Ông đã từng trải qua những năm tháng rất cơ cực, ông đi thồ đá vợ tráng bánh bèo nuôi các con ăn học. Song cho đến bây giờ như ông nói: "Tôi đã được trả lại tất cả rồi. Hiện tôi đang sống bằng một khoản tiền 400 nghìn đồng do Hội Nhà văn Việt Nam trả hàng tháng".

Thi sĩ Màu tím hoa sim qua đời

Người thành cổ Quảng trị

- Sáng nay 19-3, nguồn tin từ huyện Nga Sơn (tỉnh Thanh Hóa) cho biết thi sĩ Hữu Loan - tác giả bài thơ nổi tiếng Màu tím hoa sim - đã qua đời tại nhà riêng ở thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh (huyện Nga Sơn) vào lúc 19g ngày 18-3 (tức ngày 3 tháng 2 năm Canh Dần), hưởng thọ 95 tuổi.
Nhà thơ Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh năm 1916 tại thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh. Ông đỗ tú tài năm 1943, từng đi dạy học, tham gia Mặt trận bình dân, tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa (nay là TP Thanh Hóa).

Năm 1943, ông về quê gầy dựng phong trào Việt Minh. Khi Cách mạng tháng Tám diễn ra, ông làm phó chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Trước năm 1945, ông đã từng là cộng tác viên trên các tập san Văn học, xuất bản tại Hà Nội.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Ủy viên văn hóa trong Ủy ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: giáo dục, thông tin, thương chính và công chính.
Bước sang cuộc kháng chiến chống Pháp, Hữu Loan tham gia quân đội nhân dân Việt Nam, phục vụ trong Đại đoàn 304. Sau năm 1954, ông có thời gian làm việc tại báo Văn nghệ (Hội nhà văn VN). Sau đó, ông về sinh sống tại quê nhà đến khi qua đời.
Nói đến gia tài thơ của thi sĩ Hữu Loan, người yêu thơ nhớ đến bài thơ Đèo cả mở đầu sự nghiệp thi ca của ông, đã vang danh khắp chiến trường kháng chiến chống Pháp.
Sau đó, khi người vợ đầu tiên của ông là bà Lê Đỗ Thị Ninh mất tại quê nhà (năm 1949), thi sĩ nghe tin dữ khi đang trên đường hành quân khiến ông đã viết lên những vần thơ bất hủ Màu tím hoa sim đi sâu vào lòng người đọc cho đến tận bây giờ.
Bài thơ này đã được Công ty cổ phần điện tử Tân Bình (VTB Viettronics Tân Bình, TP Hồ Chí Minh) mua bản quyền với giá 100 triệu đồng vào năm 2004.
Nhà thơ Hữu Loan và vợ - bà Phạm Thị Nhu năm 2009 - Ảnh tư liệu
Được biết, gần hai năm qua, thi sĩ Hữu Loan bị bệnh thấp khớp nặng. Dù được gia đình và các thầy thuốc chăm sóc chu đáo, tận tình, nhưng do tuổi cao, sức yếu, thi sĩ đã ra đi ở tuổi 95.
Lễ phát tang diễn ra lúc 1 giờ 30 phút sáng nay 19-3, lễ an táng diễn ra lúc 15 giờ 30 phút tại nghĩa trang quê nhà.
Sáng 19-3, đoàn cán bộ của huyện Nga Sơn và nhiều đoàn cán bộ trong, ngoài tỉnh đã đến viếng thi sĩ Hữu Loan.
HÀ ĐỒNG
Màu tím hoa sim là một bài thơ rất nổi tiếng của nhà thơ Hữu Loan, được sáng tác năm 1949 tại Thanh Hoá, vào thời điểm được cho là sau khi người vợ đầu tiên của tác giả qua đời.
Bài thơ xuất hiện đầu tiên trên tờ Trăm Hoa của Nguyễn Bính và cũng được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc thành những bài hát nổi tiếng.
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
Hữu Loan
(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)
Theo Thi Viện

Thứ Năm, 18 tháng 3, 2010

Sai hoàn toàn và không có giá trị pháp lý

Người thành cổ Quảng trị
TT - Thông tin Hội Địa lý quốc gia Hoa Kỳ đưa bản đồ sai sự thật về quần đảo Hoàng Sa khiến công chúng còn chưa nguôi bức xúc thì trên trang Google Maps lại cung cấp một bản đồ không thể hiện đúng về đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Theo đánh giá của các nhà khoa học, việc vẽ đường biên giới này quá sai lệch và thể hiện sự thiếu trách nhiệm của Google Inc khi vẽ đường biên giới chủ quyền quốc gia của Việt Nam.
Công ty Google Inc, có trụ sở tại Mountain View, California, Hoa Kỳ, mới đây đã cung cấp dịch vụ ứng dụng và công nghệ bản đồ trực tuyến miễn phí tại trang web http://maps.google.com/, trong đó đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã được vẽ với nhiều sai lệch nghiêm trọng.
Nhiều vùng lãnh thổ Việt Nam bị nằm bên kia biên giới
Trên bản đồ của Google Inc, hàng loạt địa danh trên lãnh thổ Việt Nam với diện tích lên đến hàng ngàn kilômet vuông đã bị vẽ nằm bên biên giới Trung Quốc. Sự sai lệch này kéo dài từ Apachải (tỉnh Điện Biên) cho đến TP Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh).
Một trong những điểm sai nghiêm trọng là đường biên giới đi qua TP Lào Cai. Theo đường biên giới (nét đậm, vạch liền trên ảnh - PV) được thể hiện trên bản đồ, gần một nửa TP Lào Cai bị dịch chuyển sang bên biên giới Trung Quốc gồm toàn bộ chợ Cốc Lếu, cầu Cốc Lếu, các trường Nguyễn Công Hoan, THCS Lê Quý Đôn...
Tại địa phận tỉnh Lào Cai, đường biên giới thể hiện trên bản đồ của Google đều bị vẽ lấn vào địa phận Việt Nam nhiều kilômetvới toàn bộ phần sông Hồng, từ Lũng Pô đến TP Lào Cai, đều thuộc về phía bên kia biên giới.
Trao đổi với Tuổi Trẻ, phó bí thư Tỉnh ủy Lào Cai Sùng Chúng cho rằng đây là một chuyện không thể tin được. Ông cho biết tỉnh Lào Cai mới đây đã hoàn thành việc phân giới cắm mốc biên giới Việt - Trung nên không thể chấp nhận việc có một bản đồ được cung cấp rộng rãi trên thế giới lại sai lệch nghiêm trọng như vậy.
Trên bản đồ trực tuyến này, hàng loạt cửa khẩu của Việt Nam cũng bị xê dịch. Cụ thể, các cửa khẩu Thanh Thủy (Hà Giang), Tà Lùng, Trà Lĩnh (Cao Bằng), Tân Thanh (Lạng Sơn) đều bị vẽ nằm sâu phía bên kia đường biên giới nhiều kilômet. Đáng chú ý, theo bản đồ này, toàn bộ thác Bản Giốc của Việt Nam đều không còn nằm trong lãnh thổ.
Phần thác Bản Giốc thuộc địa phận nước ta đã được phân giới cắm mốc lại nằm sâu trong lãnh thổ Trung Quốc với chú thích hoàn toàn bằng tiếng Trung Quốc và phiên âm tiếng Anh, khi dịch ra tiếng Việt là thác Đức Thiên. Trên bản đồ này không có bất kỳ chú thích nào về các địa danh trên thuộc chủ quyền lãnh thổ nước ta.
Ngoài ra còn hàng trăm khu vực và địa điểm trên lãnh thổ Việt Nam cũng đã bị chia cắt theo bản đồ của Google Inc. Cách thể hiện bản đồ của Google Inc mang đến cho người xem bản đồ cách hiểu những địa danh trên không thuộc về Việt Nam.
Sai hoàn toàn
Ông Đỗ Viết Thi, phó giám đốc Trung tâm Biên giới và địa giới (Bộ Tài nguyên - môi trường), cho biết đường biên giới được thể hiện trên bản đồ của Google Maps là sai hoàn toàn và không có giá trị pháp lý.
Ngày 18-11-2009, Việt Nam và Trung Quốc đã ký nghị định thư về phân giới cắm mốc biên giới và hai văn kiện gồm hiệp định về quy chế quản lý biên giới và hiệp định về cửa khẩu. Hai bên đang làm các thủ tục để phê chuẩn theo pháp luật của hai bên. Hiện nay bản đồ phân giới cắm mốc hai bên đều đã in và trao cho nhau.
Về đường biên giới phân giới cắm mốc, ông Thi cho biết cơ bản được xác định theo công ước Pháp - Thanh trước đây và chỉ có một vài điều chỉnh nhỏ ở một số khu vực theo thỏa thuận từ năm 1999. Riêng đoạn Lào Cai, từ thượng cổ đến nay, biên giới Lào Cai chủ yếu theo sông, trên bản đồ và các cuốn Atlas của Việt Nam hoặc Trung Quốc đều vẽ như vậy.
Trung tâm Biên giới và địa giới đã kiểm tra và nhận thấy bản đồ của Google Maps có rất nhiều sai lệch. Rõ ràng nhất là sông suối, biên giới giữa tỉnh Lào Cai (Việt Nam) và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) chủ yếu đi theo sông biên giới gồm sông Lũng Pô, sông Hồng, sông Nậm Thi, sông Ba Kết, sông Xanh, sông Chảy. Các sông này trên ảnh vệ tinh đều có thể nhận biết bằng mắt thường, đặc biệt là sông Hồng.
Nhưng trên Google Maps, hệ thống sông này đều có những đoạn bị vẽ sai. Đáng nói là đường biên giới từ xưa đến nay đều thể hiện giữa sông nhưng trên bản đồ Google Maps lại lấn lên phần đất liền vào sâu lãnh thổ Việt Nam. Tương tự, tại TP Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, đường biên giới đi theo sông Bắc Luân, sông Ka Long nhưng trên bản đồ Google Maps lại không vẽ theo các con sông này mà lấn vào phần đất liền Việt Nam.
Một điểm sai nghiêm trọng nữa là ngay trên ba lớp hiển thị (lớp bản đồ về đường sá, lớp ảnh vệ tinh, lớp địa hình) của bản đồ do Google Maps cung cấp có nhiều điểm sai lệch với nhau, giữa lớp đường sá thể hiện trong bản đồ so với lớp ảnh vệ tinh cũng có rất nhiều sai sót.
Vẫn theo ông Thi, bản đồ của Google Maps là bản đồ không có giá trị pháp lý vì không có tổ chức, quốc gia nào công nhận hay chịu trách nhiệm về tính chính xác của nó. Tuy nhiên, nguy hại ở chỗ bản đồ này được tung lên mạng nên những sai sót trên bản đồ sẽ dẫn đến hiểu lầm cho người xem bản đồ, nhất là những người không được tiếp cận đầy đủ thông tin về biên giới. Thậm chí có thể đặt câu hỏi Google vẽ bản đồ như thế này có dụng ý gì.
Trao đổi với Tuổi Trẻ, một lãnh đạo Cục Đo đạc và bản đồ Việt Nam (Bộ Tài nguyên - môi trường) cũng khẳng định bản đồ này có rất nhiều điểm sai, những thông tin cung cấp từ bản đồ này không hề có tính pháp lý.
Bản đồ Google Maps không có căn cứ pháp lý
Bà Nguyễn Thị Hạ, phó trưởng phòng công nghệ và thẩm định, Cục Đo đạc và bản đồ Việt Nam, khẳng định đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã được thể hiện trên bộ bản đồ quốc gia, được ký kết theo nghị định thư về phân giới cắm mốc biên giới.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, bản đồ khi được phát hành trên lãnh thổ Việt Nam, kể cả từ nước ngoài nhập vào, chỉ được công nhận có tính pháp lý khi và chỉ khi đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc chính xác như bản đồ đính kèm trên nghị định thư.
Như vậy, tất cả những đường biên giới thể hiện trên các bản đồ không tuân thủ theo đúng quy định này thì không có tính pháp lý và không được công nhận. Google Maps cung cấp bản đồ với đường biên giới quốc gia như trên mang tính chất trôi nổi vì không có cơ quan nào, quốc gia nào đứng ra nhận trách nhiệm về thông tin thể hiện trên Google Maps.
Mặt khác, cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam chưa có xác nhận tính chính xác và đúng đắn về bản đồ trên, do đó bản đồ này không có tính pháp lý nên không có giá trị pháp lý về biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
MINH QUANG - XUÂN LONG

---------------------------

Về trả lời của Hội địa lý quốc gia Hoa Kỳ:
Rõ ràng là chưa thỏa đáng
Ngày 17-3, Hội Địa lý quốc gia Hoa Kỳ đã ra thông cáo báo chí trả lời việc Chính phủ và nhân dân Việt Nam yêu cầu hội sửa lỗi sai về thông tin liên quan đến vị trí quần đảo Hoàng Sa trên bản đồ trực tuyến.
Thông cáo có đoạn viết: “Gần đây chúng tôi nhận được những lời phàn nàn về cách mô tả trên bản đồ thế giới, ở tỉ lệ mà khó cho chúng tôi đưa thông tin chi tiết về quần đảo nhỏ như Paracel Islands. Chúng tôi đã xem xét tình hình một cách cẩn trọng và nhận thấy rằng chỉ đơn giản biểu thị quần đảo bằng tên Trung Quốc và từ “China” mà không giải thích thêm có thể dẫn tới hiểu sai và hiểu nhầm.
Trong tương lai, chúng tôi sẽ giải thích thêm trên các bản đồ khác như mô tả bên trên, hoặc sẽ bỏ đi mọi cách định danh (đối với vị trí này)”.
Tuổi Trẻ nhận thấy vẫn còn chữ Xisha Qundao (quần đảo Tây Sa) như tên chính thức của vị trí quần đảo Hoàng Sa, chữ “China” màu đỏ ở bên dưới thể hiện Trung Quốc đang sở hữu vị trí này.
Như vậy, ít ra Hội Địa lý quốc gia Hoa Kỳ cũng đã thừa nhận có sai sót và đưa ra hướng sửa sai dù còn nửa vời, thậm chí là cực đoan, khi cho rằng “sẽ bỏ hết mọi định danh (đối với vị trí này)”.
Chúng tôi cho rằng nội dung trả lời này là chưa thỏa đáng. Rõ ràng hội không thể tự bào chữa cho sai sót của mình vừa qua là “chỉ đơn giản biểu thị” và đổ lỗi cho người xem là hiểu nhầm và hiểu sai. Không thể cố biện bạch là chỉ ghi chú theo hiện trạng bởi sự khinh suất, vô tình hay cố ý, của một tổ chức đã có bề dày cả trăm năm đã cho thấy một sự thiếu khách quan khoa học cần thiết, và tự nó không khỏi không bao hàm một thái độ chính trị thiên lệch..
Về hướng sửa sai, chúng tôi cũng cho rằng không thể chuyển từ một cực này sang một cực khác bởi mọi thái cực đều sai với sự thật. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là sự thật không thể chối cãi.
KHỔNG LOAN - ĐÌNH TẤN

Thứ Bảy, 13 tháng 3, 2010

Ai về Quảng Trị Đông Hà…35 năm sau Mùa Hè Đỏ Lửa

Người thành cổ Quảng trị


Kỷ niệm 35 năm Mùa Hè Đỏ Lửa (1972-2007),
viết tặng các học sinh Nguyễn Hoàng
và thanh niên Hồng Thập Tự Quảng Trị
TKĐ
Ai về Quảng Trị Đông Hà,
Hỏi o lòng thả, heo bà… lặt chưa ?!        
Hồi còn làm trưởng Thanh Niên Hồng Thập Tự Quảng Trị thời Hồi Cư năm 1973, các em học sinh và đoàn sinh của tôi vẫn thường đặt bày hát “đía” như thế để chọc mấy em nữ sinh bán quán lòng thả ở Hải Lăng, Diên Sanh. Và nghe đâu, giới giàu kinh nghiệm món lòng thả cho rằng, giống heo đực lặt… tiệt sau ba tháng, đem nấu lòng thả mới ngon tuyệt cú mèo (?).
Rồi không biết ai là tác giả, các em đã biến câu hát đùa thành điệu hò nện “Ai về Quảng Trị Đông Hà. Là hù, là khoan…” và thầy trò hát nghêu ngao cho vui miệng, vui chân trong những chuyến công tác cứu trợ vô sâu trong các vùng quê mới hồi cư.  Nhưng tiếng hát vui không che nổi cảm giác rờn rợn của bao nhiêu mảnh bom đạn chưa nổ còn ghim trong lòng đất khắp các nẻo đường quê hương Quảng Trị.
Tưởng cũng nên mở ngoặc nhỏ nơi đây để viết đôi dòng về một món ăn truyền thống Việt Nam mà rất có thể có nhiều người Việt hay kể cả một số người Quảng Trị “toàn ròn” vẫn chưa có dịp thưởng thức.  Đó là món Lòng Thả (hay Lòng Sả).  Món Lòng Thả là món ăn đặc biệt, một trăm phần trăm thuần Quảng Trị.  Khắp nước Việt Nam và, có thể nói bạo miệng mà không sợ nhầm rằng, khắp thế giới không nơi nào có món lòng thả nầy cả.  Lòng thả nấu bằng những phần chọn lọc lấy từ lòng, huyết, xương, tinh chất… của con heo cộng với bún, sả và các gia vị và phẩm vị mà, một thời, người viết bài nầy chỉ biết thích thú thưởng thức hơn là nắm vững công thức như món bún bò, cơm hến.  Chỉ mới gần đây thôi, lần đầu tiên, tôi được biết một nơi ngoài Quảng Trị có món Lòng Thả nầy là quán Rất Huế tại Sài Gòn mà chủ nhân là một nhà thơ gốc Quảng Trị, anh Nguyễn Đăng Mừng.
Mới ngày nào còn thú vị với món Lòng Thả buổi sáng ở Diên Sanh; “là hù là khoan” rộn rã tiếng cười, bất chấp đạn bom còn rơi rớt đâu đó đầy đe dọa và dòng đời tạm bợ, trôi nổi chung quanh đó mà đã 35 năm trôi qua.
Mùa Hè năm 1972… hình ảnh cuối cùng của Đông Hà trong ký ức của tôi là con đường Quốc Lộ 1, đoạn băng qua phi trường Ái Tử cháy nắng, mịt mờ khói đạn bom pháo kích.  Tôi đèo thầy Dương Đình Trọng – ông anh cùng dạy trường Nguyễn Hoàng – trên chiếc xe “Honda Đam” của tôi chạy chao đảo một đoạn ngắn rồi ngừng lại. Nhiều người cùng vất xe nằm sát bên vệ đường.  Hầm trú ẩn là bầu trời xanh lồng lộng.  Số phận sống chết của con người bọt bèo không hơn một xoáy cát bay bay.  Cơn pháo kích đi qua.  Khói đạn, khói bụi, khói nắng, khói trần gian… che khuất những nụ cười hanh nắng. Chẳng có mảnh đạn nào lạc lối ghim vào thể xác; mà chỉ có mảnh vỡ của cảm xúc ghim vào tâm tư.  Tôi mang mảnh đạn vô hình đó mà đi về phương Nam.
Sau đó là Mùa Hè Đỏ Lửa 72 và Đông Hà nằm lại bên kia bờ Thạch Hãn, một vĩ tuyến mới của lịch sử; nhưng đồng thời cũng là một vết cắt mới của tâm hồn Việt Nam.
Những ngày tiếp theo… tôi chạy qua Cầu Dài cũng trong bão lửa pháo kích.  Rồi tản cư, tạm cư, hồi cư, bảy lăm, lây lất bến xe Lam, chợ Trời, vượt biên, cu-li ta, cu-li Mỹ, thầy ta, thầy Mỹ… và một sớm mai vàng của tuổi mùa Thu, tôi dừng lại.  Cuộc hành trình của một thế hệ chiến tranh Việt Nam bước chậm dần chờ ngày khép lại:  Về hưu!
Hai tiếng “Về hưu” đối với người Mỹ là Golden Age, là Tuổi Vàng, là sự thở phào sung sướng.  Vậy mà sao tôi nghe như trong tôi có tiếng thở dài rưng rưng thầm lặng.  Tôi là người viễn khách may mắn một cách xót xa đang về cuối chặng đường.  Trong khi đó, hơn hai phần ba người thân, bạn bè đã nằm xuống mất hút trên những dặm đường mịt mù, bão liệt của quê hương.
Về Quảng Trị.  Sau gần tròn 33 năm tôi mới có dịp đi lại trên con đường Quốc Lộ 1 dài 60 cây số từ Huế ra Quảng Trị vào mùa Hè năm 2007.  Trước mắt tôi, con đường hiện ra lạ hoắt.  Ba mươi năm trước, mỗi lần chạy xe Honda một mình trong cảnh trời mưa tối sầm hay chiều xuống âm u tôi thường vừa lo, vừa sợ.  Lo, vì lỡ như xe bị hư bất ngờ thì chẳng có chỗ nào để dừng lại trú chân nhờ giúp đỡ.  Sợ, vì đường vắng quá, hai bên là đồng không mông quạnh hay chỉ là những bãi cát lơ thơ tràm chổi mọc hoang nối đuôi nhau không một bóng người.  Nhất là chặng đường từ An Lỗ ra tới Mỹ Chánh; rồi từ Mỹ Chánh ngang ngã rẽ Diên Sanh, qua Cầu Dài cho tới Quảng Trị.  Nếu có chăng một bóng người hiếm hoi trên đồi cát hay trên đồng vắng thì sự cảm nhận “thỏ đế” của tôi thường cho đó là… ma!  Bảo đảm khai đúng sự thật là vào những năm hồi cư sau 1972, tôi ngủ lại trường Hiền Lương Nghĩa Thục nằm trên vùng đồi cát Hải Trường đã nghe tiếng cười, tiếng khóc của ma từ Cầu Dài sầm sập chạy trên Quốc Lộ 1.  Không rõ ảo giác ma quỷ làm cho tôi sợ ma một cách đầy “sáng tạo và nên thơ” như thế; hay hoàn cảnh chiến tranh đã làm cho người và ma cặp kè nhau giữa hai đầu sống chết đã tạo nên một tâm lý sợ ma từ trong vô thức của tuổi thơ…
Ngày ấy vắng thế mà bây giờ, cả hai bên Quốc Lộ 1 – con đường huyết mạch của quê hương – nhà cửa đã mọc lên san sát.  Từ Huế ra Đông Hà, có rất ít khoảng trống hai bên đường để cho tầm mắt tìm ra những mảnh không gian trải dài tới ruộng đồng, làng mạc tít tắp về mé biển hay mé núi.  Nhà cửa lấp đầy khi con người tìm về nguồn sống như cá tìm về sông.  Cố gắng tìm về ven quốc lộ đã lũ lượt diễn ra như một khuynh hướng đô thị hóa mạnh mẽ từ Nam chí Bắc trong suốt 30 năm qua.  Tôi bất ngờ đi trên khoảng đường dài ba mươi năm trước mà ngỡ như mình bị lạc. Lạc vì không tìm ra hướng mới hay chẳng tìm về lại được khung trời cũ đều có nỗi niềm riêng.  Nhưng cái khoảng trống cô đơn trong cảm nhận lạc đường thì vẫn thế.  Nó mất đi ý niệm “tìm thấy” hay “thuộc về” đã nằm sâu trong lòng mình.
Đến thành phố Quảng Trị cũ, tuy tất cả những chi tiết đều đổi khác, nhưng tôi vẫn mường tượng ra con đường Trần Hưng Đạo, đường Quang Trung, khuôn viên trường Nguyễn Hoàng, bờ sông Thạch Hãn.  Có chăng hình ảnh không thay đổi là dòng sông Thạch Hãn với những bãi sa bồi.  Đất cát như mẹ hiền; nước tươi như dòng máu.  Những gì ít thay đổi nhất vì được làm nên bằng nguồn tình, không bằng hình tướng.
Ở Quảng Trị gần 5 năm, có lẽ thời gian chưa đủ thấm để cho những gốc rể ăn sâu vào mạch đất.  Tôi đến và đi với Quảng Trị với nỗi vui buồn của một người tình hơn là một người ruột thịt. Người ruột thịt se lòng khi nhìn Cổ Thành tan nát; nhìn trường Nguyễn Hoàng yêu dấu từ thuở hoa niên chỉ còn là đống gạch vụn; nhìn tất cả thành phố thân thương sau biến cố 1972 sau màn nước mắt và bóp chặt tay anh em hẹn ngày trở lại.  Còn tôi, tôi mờ nước mắt nhìn Quảng Trị và nuốt vào tâm khảm những hình ảnh tan nát sau cùng; rồi nhớ mãi để ra đi.  Trước mắt tôi Cổ Thành đổ nát như như chiếc áo quan của người tình áo trắng vừa qua đời.  Nhưng đối với Lê Hữu Nam, Lê Hữu Thăng, Đổ Tư Nhơn, Nguyễn Bảo, Lê Mậu Tâm, Hoàng Văn Liệu… thì Quảng Trị tan tành là hình ảnh đầy biểu tượng của ngôi mộ mẹ hiền bị sét đánh tang thương.
Mùa Hè năm 2007… Về lại Quảng Trị lần nầy, lòng tôi như một đại dương đã lặn sóng.  Ở tuổi về hưu, tôi nhìn Quảng Trị qua dấu tích nghìn năm như Thăng Long với Cổ Thành, Cổ Lũy, Ái Tử, La Vang.  Ngày xưa, sau những chiều dạy học, sống xa nhà, tôi vẫn thường đi loanh quanh trên những con đường phố xá Quảng Trị.  Thành phố nhỏ nhắn ngày ấy mang một vẻ dịu dàng riêng của nó.  Dòng Thạch Hãn không có nét xõa tóc về xuôi đầy lãng mạn như Hương Giang, nhưng buổi chiều mùa Thu vẫn in dấu mây trắng giăng ngang từ phía Trường Sơn về Nam Hải.  Thạch Hãn không có “yên ba giang thượng” – khói sóng trên sông – nhưng lại có nét cau mặt của những vờn sóng đáng yêu khi những ngọn gió chướng sỗ sàng quét mái trên sông. Ngày ấy, chân tôi bước đi trên phố xá Quảng Trị mà tâm lý “giang hồ vặt” cứ hướng về những phương trời Tây, Tàu bao la mơ ước.  Nhưng hôm nay về lại, khi chân đã mỏi, giày vệt gót qua những phương trời viễn mộng ngày xưa, tôi ước muốn dừng lại.  Ước chi kiếm một gian nhà nhỏ trông ra bờ Thạch Hãn, tính thời gian qua con nước ròng, nước lớn trên những bãi sa bồi.  Rồi những chặng đời sẽ qua đi.  Về Quảng Trị là một hành trình rất thực như chân trần bấm trên đất phèn làng xóm.
Lưu luyến chi rồi cũng phải ra đi như người du khách.  Trong thơ Việt, có lẽ khó mà tìm ra một câu hay hơn Chế Lan Viên: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở.  Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn…” Ba mươi năm trước tôi rời Quảng Trị như tạm biệt một vùng đất ở;  ba mươi năm sau, rời nơi đó như rứt áo ra đi từ nỗi níu kéo trong lòng.
Và lạ quá một điều mà tôi chưa hề nghĩ tới, Đông Hà lại có một ngày trở thành “thủ đô kinh tế” của Quảng Trị.  Vâng, tôi vừa quên Đông Hà là cửa khẩu của đường 9 Nam Lào. 
Nếu bất ngờ bịt mắt và được thả xuống Đông Hà, có lẽ tôi hoàn toàn mù tịt không biết mình đang ở đâu.  Đông Hà thuở ấy trong tôi là khu phố nhỏ. Đi quanh, hút chưa tàn điếu thuốc đã lên dốc Ga tàu.  Nhưng giờ đây Đông Hà đã biến thành một thành phố cỡ hạng nhì Việt Nam như Hải Phòng, Quảng Bình, Nha Trang, Phan Thiết, Cần Thơ… mà tôi vừa mới đi qua.  Khung cảnh và bầu không khí của một Đông Hà mới làm tôi cảm thấy xa lạ.  Mình không lạc phố, lạc nhà; mà phố xá lạc mình.  Một Đông Hà đóng vai chợ phiên của Gio Linh, Cam Lộ, Lao Bảo… không còn nữa.  Khi tôi về lại, những tiểu thư guốc mộc cuả ba thế hệ đàn chị, đàn bà cùng trang lứa và đàn em đã từng khoe sắc rực rỡ,  làm tươi mát khu phố thị Đông Hà một thời nay “bất tri hà xứ khứ – không biết về mô… ”.  Những Phù Thị Lan, Huệ, Cao Thị Lành, Hiền, Túy… vang bóng một thời.  Những Học, Tình, Cam, Chưởng, Lân, Hường, Lý… ngày ấy “xôn xao ngoài cửa thiếu gì yến anh” đang ở nơi mô.  Thời gian dịu dàng trôi mà lại tàn nhẫn như những lọn tóc bạc, những đường nhăn xêp nếp quất vào vùng thanh xuân tươi mát với vẻ lạnh lùng.  Trong buổi tiệc vui tại nhà hàng Lạc Khanh ở Đông Hà với hơn bảy chục khuôn mặt bạn bè thân thương tới dự  – mà hầu hết sinh ra ở vùng quê hương Quảng Trị, Đông Hà và cũng là học trò Nguyễn Hoàng một thời yêu dấu – đã cho tôi nét nhìn rõ hơn về vết quất của thời gian.
Tôi và Lê (nhà tôi… bên chiếc cầu soi nước) từ California, cùng với cặp bồ tèo là hai người bạn thân, Nguyễn Tuấn Năng và Nguyễn Thị Học – gốc ở Đông Hà; gác ở Minesota – rủ nhau về thăm quê.  Khách sạn “muôn sao” của chúng tôi ở Đông Hà là nhà của anh Tịnh, chị Mai.  Đêm nằm trên gác của căn nhà xinh xắn mà cứ ngờ ngợ có dư âm tiếng đại bác từ phía Tây vọng về và mơ hồ có tiếng ếch bên tai của vùng ruộng đồng ngày xưa nay thành phố chợ.  Chặng đường 72 – 07, ba mươi lăm năm một thoáng phù du.  Nếu tâm đắc với ý niệm một sát na đã qua bờ sinh tử thì mọi sự thay đổi đều là viễn du, thông thoáng, hồn nhiên.  Bởi thế, sau đó khi trên đường ra Bắc, khi xe qua Đèo Ngang, tôi lại nhớ Bà Huyện Thanh Quan
Từ Đông Hà, tôi ra động Phong Nha theo con đường Trường Sơn Đông.  Con đường tuyệt đẹp vắt qua nhiều sườn núi rộng rãi và phẳng phiu hơn cả Quốc lộ 1 ven biển dưới kia.  Hai bên đường rừng cây cao su bạt ngàn, cây tiêu, cây hạt điều và các loại cây công nghiệp xanh mượt mà.  Tất cả cây công nghiệp đều đang độ tuổi thanh xuân đầy sức sống. Xe vẫn chạy trong nắng mai, tôi cố rướn người ra nhìn bên nầy rồi bên kia đường không chớp mắt.  Sự xúc động ở đâu ùa tới.  Nếu không đi trên con đường nầy, có lẽ một Quảng Trị trong định kiến của tôi chỉ có những rừng tre, đồi tranh, độn sim, độn móc…  còm cõi trong những cơn gió Lào nóng nung người và gió bấc lạnh rát mặt.  Rừngcao su xanh tốt Quảng Trị vượt lên cả rừng cao su đất đỏ Long Khánh là điều gần như… hoang tưởng đối với tôi nếu chỉ có thời gian năm năm ở Quảng Trị, dạy trường Nguyễn Hoàng rồi ra đi khi chưa có cơ hội trở lại đất nầy ba mươi lăm năm sau đó.  Nhưng trước mắt tôi rõ ràng là rừng Trường Sơn mở rộng.  Khi có tình yêu – yêu người hay yêu quê hương – thì cái nhìn sáng tạo “thuở ban đầu” bao giờ cũng hướng đến  những gì cao viễn nhất.
Ôi chao!  Con sông Hiền Lương và chiếc cầu Bến Hải.  Gần bốn mươi năm trước, là một sinh viên văn khoa Huế biết nói khá tiếng Anh, tôi ở phía đầu cầu phía Nam bên kia, làm công việc thông dịch cho những phái đoàn “thóc mách”, kể cả báo chí, báo cáo và báo đời.  Họ muốn biết đến giòng sông chia cắt và chiếc cầu xây theo kiểu “phúc lợi” của Pháp, đơn điệu, đen đủi và buồn tênh đó có tác động gì lên tâm tình người xứ Việt.  Với người phương Tây, khó mà giải thích cho họ hiểu vì sao mà “mẹ bồng con ra ngồi cầu Ái Tử; vợ trông chồng lên núi Vọng Phu…”  Nhưng trong tâm tư nguời sinh viên trẻ, lần nào tôi cũng quay mặt không dám nhìn thật kỹ chiếc cầu như một vết chém đùi lây ngang thắt lưng chiếc áo tứ thân của tổ quốc, có bao nhiêu tấm ván, bao nỗi ưu tư – như Nguyễn Tuân – khi tôi tay chỉ chỏ, miệng bi bô “dzu mi tao mầy” để giới thiệu chiếc cầu với những người khách từ bên kia đại dương, râu ria xồm xoàm, nói cười hềnh hệch.
Rồi một buổi chiều, như chiều nay… trên tuyến đường bộ từ Bắc vô Nam, tôi xúc động dừng lại bên cầu.  Nhìn chiếc cầu hiền lương (tĩnh từ, không viết hoa) vẫn lặng lẽ vắt ngang trên dòng sông không đục, không trong, gieo neo nước chảy dưới cầu như mẹ già tưới tẩm cho những cánh đồng con cháu tương lai, tự nhiên tôi muốn khóc bằng những giọt nước mắt của Mẹ Gio Linh, của đồi hoang Ái Tử , của vôi gạch Cổ Thành… Thế nhưng mắt tôi vẫn ráo hoảnh, buồn thiu.  Nước mắt Việt Nam đã đổ xuống nhiều hơn sông hơn biển.  Xương máu Lạc Hồng đã tưới tẩm cả Trường Sơn.  Thêm bớt một giọt, khô cạn một dòng thì đời em vẫn trôi, sông kia vẫn chảy.  Tôi tự hỏi, có chăng trong ta một sự trở về.  Chiều xuống thấp, trời ửng mầu cam trên Trường Sơn.  Trước mùa Hè 1972, bên bờ Bắc cầu Bến Hải – nơi tôi đang đứng nhìn chiều xuống 35 năm sau – Đông Hà Quảng Trị là một “nước” khác.  Nước sông núi đã xa vời mà nước trong lòng người lại càng xa hơn nữa.  Tôi dợm chân bước qua xứ ấy.  Sông núi đã liền lặn.  Vết thương có còn gì dấu tích trong tôi?  Nắm tay Lê, tôi giục: “Đi thôi, em.  Tối nay ở lại Đông Hà.  Mai ta về Quảng Trị.”         
Sacramento, mùa Hè 2007
Trần Kiêm Đoàn

Thứ Tư, 10 tháng 3, 2010

Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường - Tập I

Người thành cổ Quảng trị

TỆP 3
Truyện kí thứ hai
TRẦN XUÂN AN
NGƯỜI THẦY THUỐC– THẦY GIÁO TRẺ TUỔI
Truyện kí thứ hai
1
Người đàn ông khoảng năm mươi tuổi, dáng vẻ tiều tụy, gương mặt tái xanh đầy vẻ bệnh hoạn, dè dặt ngồi xuống chiếc ghế trường kỉ bằng gỗ cũ đã lên nước nhưng không một đường nét chạm trổ, sau khi đan tay xá chào vị thầy thuốc trẻ tuổi.
- Bác cứ tự nhiên. – Thầy Tường nhìn người bệnh, ân cần nói –.
Thầy Tường giấu cái giật mình, khi trông thấy một bên má, chỗ gần vành tai, hai chữ “tả đạo” bị khắc xăm rõ nét. Anh cố giữ cái nhìn đừng có vẻ soi mói để người “dữu dân” ấy khỏi chạnh lòng.
- Bác thấy trong người ra răng?
- Dạ, bẩm thầy, không ngủ được, cũng không ăn được nhiều.
Thầy Tường nhìn vào đôi mắt ông ta, trông hơi lờ đờ. Anh lại hỏi các triệu chứng bệnh.
- Bác cho tôi xem mạch.
Vén cổ tay áo, người bệnh duỗi ngửa cánh tay trên mặt bàn. Ngón trỏ và hai ngón kế đặt vào mạch, ngón thứ tư là ngón cái kềm phía dưới cườm, thầy Tường lắng nghe, tất cả tinh thần đều tập trung vào cảm giác ở đầu ba ngón tay. Anh khẽ nhíu mày suy nghĩ.
- Bác bị bệnh đã khá lâu, sao không sớm chữa chạy!
- Dạ, bẩm thầy, tôi bị phân tháp. Bệnh, yếu quá, may mới được phóng thích.
Thầy Tường ái ngại, không biết nói gì. Sau khi đã nhìn sắc diện, hỏi triệu chứng, bắt mạch, người thầy thuốc trẻ nhưng rất có uy tín ở huyện lị Đăng Xương này cầm ngọn bút lông kê đơn.
- Bác qua quầy kia lấy thuốc. – Thầy Tường đưa phái thuốc cho người bệnh –. Uống thuốc và nhớ thắp hương cho ông bà tổ tiên.
Người đàn ông hơi chạnh lòng, đứng dậy, đan tay chào, không nói gì.
- Bác nhớ đó, phải vừa uống thuốc, vừa thắp hương cho ông bà tổ tiên. Quên uống thuốc hoặc quên ông bà tổ tiên thì không lành bệnh được đâu! Xin thành khẩn với bác như thế. – Với tấm lòng của một nhà nho trẻ lỡ vận trên đường khoa cử, thầy Tường khẽ nói –.
Người đàn ông bị gọi là “tả đạo”, “dữu dân” đã hiểu ý. Ông ta lặng thinh làm dấu thánh, trong khi quay bước, chầm chậm tiến tới chỗ quầy thuốc bắc, thuốc nam. Phía sau quầy, trước một dãy kệ để đầy các thùng thiếc, hộp gỗ, hũ sành, thẩu thuỷ tinh có dán những mảnh vuông giấy điều, trên đó viết chữ Hán, chữ Nôm bằng mực xạ đen, là một cụ già quắc thước, mái tóc đã thưa với búi tó đã nhỏ lại, bạc trắng.
Thầy Tường ái ngại nhìn theo người bệnh ấy. Rồi anh lại tiếp tục bắt mạch, kê đơn cho người bệnh tiếp theo.
Sau bốn năm trời miệt mài, say mê học y lí về người và bệnh, học dược tính các loại thuốc, đồng thời học kinh nghiệm điều trị qua thực tiễn hằng ngày với những thầy thuốc già ở Huế, Tường đã trở thành một lương y trẻ nổi tiếng ở quê nhà. Sáu tháng nay, anh ở hẳn trong tiệm thuốc bắc này và cùng cụ chủ tiệm già đang bốc thuốc, cân đếm, gảy bàn tính kia phối hợp trong nghề y dược. Bốn năm trời học nghề thuốc ấy, Tường cũng không hề xao lãng thi thư kinh sử. Hơn nữa, ở Huế, Tường càng có dịp tìm đọc các cuốn sách quý trong các tủ sách gia đình và tìm mua được ở hiệu sách lớn của kinh đô. Bốn năm trời, Tường đã chín chắn, trầm tĩnh, uyên bác hơn xưa đến mức anh cũng không ngờ. Lúc này, với chiếc khăn đóng trên mái tóc bối tó, trong chiếc áo the đen, ngồi bắt mạch, kê đơn cho bệnh nhân từ các làng thôn ra Ái Tử, lị sở của huyện, ở gương mặt trắng trẻo, đẹp một cách cương nghị, toát ra vẻ trang nghiêm. Đó là vẻ trang nghiêm thân ái, ân cần, khiến người đối diện vừa kính nể, vừa cảm thấy dễ gần gũi.
Khi viết phái thuốc cho người bệnh là một người đàn bà có lẽ ở tuổi bốn mươi xong, thầy chợt nghe chú nhỏ đi theo mẹ hình như không thể kìm chế được nữa, buột miệng nói:
- Mạ, khi hồi có ông “tả đạo” vô đây!
Bà mẹ nhăn mặt:
- Kệ người ta! Có quan, có lính, việc chi con! Họ nghe được, sinh chuyện thêm phiền. – Bà mẹ đang bệnh vẫn mắng khẽ con trai, áy náy muốn xin thầy thuốc thứ lỗi –. Dạ, cháu nó còn con nít, tò mò, nói bậy… Dạ, xin thầy cảm phiền…
Bà mẹ bối rối bước về phía quầy thuốc, sau khi thầy Tường lắc bàn tay mở ra, đưa lên, với nụ cười tỏ ý không có gì đáng trách trẻ con cả.
Người bệnh kế tiếp là một cụ ông trông không đến nỗi trầm kha lắm, cũng buột miệna!
- Bẩm thầy, tháng ba vừa rồi, Tây gây sự ở Đà Nẵng, cũng vì bọn “tả đạo” nớ đó!
Thầy Tường gật đầu nhưng lại nói:
- Tất cả là do bọn Tây dương! Nổ súng, truyền “tả đạo” cũng đều do Tây cả. Mình là người Việt với nhau, thương cho người mình nhẹ dạ, cũng trách là người mình trót nhẹ dạ, thậm chí mê muội mất rồi. Triều đình đã hết thuốc chữa! – Quên vẻ trầm tĩnh, thầy thuốc trẻ hơi đanh giọng, và chợt biết phải ngừng lại –. Nhưng, thôi… Người Việt mình còn bệnh, bệnh thiếu ăn, thiếu mặc, bệnh thiếu súng thép, tàu đồng… Ồ, thôi… Cụ cho tôi hỏi bệnh đã. Rứa cụ cảm thấy bệnh trong người ra sao?
Nhìn sắc diện, hỏi han, lắng nghe, thăm mạch, kê đơn, vị lương y trẻ ân cần trong công việc của mình. Thầy Tường cũng lắm khi gặp những nỗi đời, niềm thời sự, những dự cảm, báo động về vận nước.
Đó là một buổi sáng trong một ngày đầu mùa hè năm Thiệu Trị thứ bảy (1847), năm đã xảy ra vụ thứ hai thực dân Phú Lãng Sa (France) khiêu khích triều đình, sau vụ đầu tiên cách đây đã bảy năm, hồi nhà vua đương kim mới lên nối ngôi! Lần này, chúng bắn chìm đến năm chiếc thuyền binh của nước ta cũng tại Đà Nẵng, rồi bỏ chạy ra khơi xa (1)! Không thể không thao thức, suy tư, thầy thuốc đông y Nguyễn Văn Tường còn nghe dậy lên trong lòng khát vọng dấn thân, nhập thế bằng hành động mạnh mẽ hoặc tích cực hơn của nhà nho. Có điều, kẻ sĩ Nguyễn Văn Tường vẫn chưa được ban sắc chỉ xoá án “bất đắc ứng thí”! Thầy vẫn ân cần, ẩn nhẫn, lặng lẽ trong công việc y dược của mình. Sinh ra đời bảy ngày sau Tết Trung thu tháng tám nguyệt lịch năm Giáp thân, Minh Mạng năm thứ năm (1824), đến nay, Nguyễn Văn Tường đã hai mươi bốn tuổi, kể cả một tuổi trong lòng mẹ. Trải qua đằng đẵng mười tám năm đèn sách, đã một lần đỗ tam trường (tú tài) nhưng bị truất, đến giờ, thầy thuốc trẻ này vẫn trắng tay khoa cử, không một mảnh bằng cấp, học vị của triều đình!
2
Ngày quý mão, hai mươi bảy, cuối tháng chín lịch mặt trăng Đinh mùi (1847) năm ấy, vua Thiệu Trị băng hà!
Tiệm thuốc cũng là phòng thăm mạch đông y của cụ già và của kẻ sĩ lỡ vận Nguyễn Văn Tường khép cửa trong những ngày quốc tang. Tin tức kinh đô qua những kẻ bộ hành trên đường thiên lí Bắc – Nam, ghé lại quán cơm, quán nước ở huyện lị Ái Tử này, thầm thì rỉ tai, đã lan truyền khắp làng thôn trong huyện Đăng Xương. Người ta ngạc nhiên khi người lên nối ngôi vua cha mới mất không phải là thái tử Hồng Bảo. Người con thứ, Hồng Nhậm, nổi tiếng về văn chương thơ phú nhưng hơi ốm yếu của đại hành hoàng đế Thiệu Trị đã lên ngôi theo di chiếu, được sự phù giúp của bốn cố mệnh đại thần: Trương Đăng Quế, Nguyễn Tri Phương, Vũ Văn Giải và Lâm Duy Thiếp (2).
Trong những ngày quốc tang, thầy Tường không bước sang tiệm thuốc bắc và phòng mạch. Ngôi nhà tranh vợ chồng thầy thuê ở Ái Tử này cũng không xa tiệm thuốc của cụ già bao đỗi, chỉ cần bước vội chân một chút, là đến ngay nếu có việc cần kíp. Sáng nay, ngồi trước cuốn sách mở, nhưng tâm trí thầy Tường không thể không nghĩ ngợi, bâng quơ nhìn ra ngoài vuông cửa sổ trổ ngay căn giữa, thấy Đích, vợ của thầy, đang sắp những lát thuốc Nam trên mấy chiếc nong, dưới ánh nắng cuối thu vẫn còn rực rỡ. Thật lòng, thầy không ngờ đời vua Thiệu Trị lại ngắn ngủi đến thế. Mấy năm rồi, chờ sắc chỉ ân xá mãi đến mức thầy cũng đôi khi an phận. Và mới năm kia đây, khi đang còn học đông y ở Huế, trong một lần về thăm nhà, anh được biết cụ khoá Dương Văn Thu, thân sinh của Đích, đã đồng ý nhận lời cầu hôn cho con trai của cha anh. Sau lễ thăm, lễ hỏi và lễ cưới, Đích về làng An Cư làm dâu nhà anh, trong khi chờ anh học xong nghề thuốc. Vợ chồng son chưa sống với nhau nhiều nhưng đủ mặn nồng, nên đến bây giờ đã có chung với nhau một đứa con trai đầu lòng. Dương Thị Đích, người mẹ trẻ mười chín tuổi của thằng bé Thiều, chính là người con gái út của cụ khoá Thu, chủ tiệm thuốc đông y cũng là phòng thăm mạch của anh. Thầy Tường hạnh phúc và cũng không hiểu rõ mình có an phận hay không. Có điều, với thầy, an phận hay không, cũng mê say, miệt mài đèn sách. Nói đâu xa, ngay ở nước mình, dưới thời Lê, vẫn có những cụ già bảy mươi tuổi lều chõng đi thi hương, thi hội kia mà. Chí học hành của kẻ sĩ đâu kể gì tóc xanh hay bạc tóc!
O Đích, bây giờ láng giềng đã quen gọi là o Thầy. Đó là cách gọi người vợ theo công việc của chồng. O Thầy đã vào nhà, đang ngồi trên chiếc đòn gỗ, bên nôi của thằng cu Thiều, và một bên thuyền tán. O đang nắm hai tay cầm của dao cầu (một bánh nghiền bằng sắt, khá nặng), lăn tới lăn lui cho thật mịn những thứ thuốc mà cụ khoá Thu giao cho. Hương thuốc đông y thơm lạ lùng.
Nghe tiếng bước chân của thầy Tường bước ra cửa, o Thầy ngước mắt lên.
- Ta đi ra bờ sông một lát. Mình ở nhà.
- Có việc chi mà ra bờ sông? Anh Thầy nhớ về sớm nghe.
Thầy Tường gật đầu, bước ra ngõ. Anh vừa đi vừa nghĩ ngợi. Thế mà đã bảy ngày trôi qua, từ khi vua Thiệu Trị băng hà. Không rõ lòng mình, anh chỉ thấy bâng khuâng. Ngồi xuống một phiến đá lớn dưới gốc cây sầu đâu rợp bóng bên bến sông vắng, cuốn sách cầm ở tay, nhưng thầy Tường nghĩ ngợi đâu đâu.
Dòng sông Ái Tử ngập nắng, chầm chậm trôi lững lờ trước mặt. Cơ hồ cái chết của đại hành hoàng đế đang đẩy đưa tâm thức thầy Tường về khởi nguyên của triều đại. Chính dòng sông Ái Tử này đây, nơi vua Trần Quang Đế nhà hậu Trần bị tên tướng Tàu nhà Minh đánh bại, cũng là nơi Mạc Lập Bạo nhà Mạc bị tiên chúa thái tổ Nguyễn Hoàng tiêu diệt, do được Qua Qua phu nhân linh thánh hiện ra hiến kế mĩ nhân trong giấc mộng mị của ngài (3)! Tiếng trẻ con khóc “oa oa” trên sóng nước hẳn cũng chỉ nảy sinh từ hai chữ “Ái Tử”, thương con. Dân gian chẳng hát “mẹ thương con ngồi cầu Ái Tử” đó sao! Thương con mà hiến độc kế giết tướng Mạc, con cháu Mạc Đăng Dung, gã đô lực sĩ cướp ngôi nhà Lê, hẳn chỉ là mộng mị của thái uý Đoan quận công Nguyễn Hoàng, hay thương con như thế mới là tình thương mãnh liệt, tích cực của dân gian? Từ tiên chúa Nguyễn Hoàng, trải qua mấy đời chúa, đến tiên đế Gia Long, ngót hai trăm bốn mươi bốn năm (1558 – 1802). Từ ngày tiên đế Gia Long lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Nguyễn với nước Việt Nam nhất thống, địa dư rộng lớn nhất lịch sử mấy ngàn năm, đến nay, cũng tròn bốn mươi lăm năm (1802 – 1847).
Thời gian! Lịch sử! Bao nhiêu dâu bể thăng trầm, in dấu ngay ở từng cây đa, giếng nước làng quê với những sự tích!
Thầy Tường bâng khuâng với một câu thơ thiền thời Lí – Trần: “Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”. Quả thật, ở vùng đất trận mạc tranh chấp này, có đó rồi mất đó, thoắt xanh tươi cây trái, thoắt vườn không nhà trống, mong manh như hạt sương treo đầu ngọn cỏ. Nhưng lạ lùng thay, sức sống Quảng Trị bền bỉ đến phi thường!
Dòng sông ngập nắng đưa đẩy ý nghĩ thầy Tường đi về làng quê của mình. Làng An Cư là ngôi làng đầu tiên của tổng An Cư trên đất châu Ô này, được phát hoang, gầy dựng bởi những cư dân châu Diễn, châu Hoan, châu Ái từ thuở Huyền Trân công chúa theo vua Chế Mân về Chiêm Thành. Dòng họ Nguyễn của thầy Tường vào đây cũng già năm trăm năm! Sau hai trăm năm, châu Thuận thân yêu này, vốn là Ô châu, vẫn là mảnh đất tranh chấp, là trận mạc. Ba trăm năm gần đây, dẫu chiến trường của cuộc nội chiến hai thế kỉ giữa Đàng Trong – Đàng Ngoài thuộc vùng đất xa hơn, phía châu Lí (Bố Chính, Ma Linh, Địa Lí – Quảng Bình), quê hương Quảng Trị không phải không đao binh. Ba trăm năm ấy, dòng họ anh sinh sống dưới ơn mưa móc của các đời chúa, đời vua nhà Nguyễn, triều đại hiện thời, triều đại mà một kẻ sĩ như anh phải tận lòng phụng sự, nhất là trong thời điểm này.
Bây giờ, đã bảy ngày, sau cuộc băng hà của đại hành hoàng đế Thiệu Trị, cũng chẳng hiểu sao thầy Tường lại ra ngồi đây nghĩ ngợi vẩn vơ, thoáng có chút gì u hoài nữa!
- Anh Thầy ơi, có nghe mõ làng rao không? Vua ban ân chiếu! – Rõ là giọng của o Đích –.
Thầy Tường vụt đứng dậy, quay lại, nhìn vợ đang vội bước với niềm vui mừng rạng rỡ.
- Mõ rao ân chiếu? – Thầy Tường hỏi lại –. Mình nghe răng chừ?
- Chú mõ làng mới vừa đi rao ngang ngõ nhà mình!
Hai vợ chồng bước về nhà.
- Mình để thằng cu Thiều ở nhà một mình sao?
- Em đã bồng qua gửi bên mệ ngoại.
Thầy Tường bảo vợ về nhà, một mình anh bước về phía dinh huyện lị.
Ngày kỉ dậu hôm nay, mùng ba, đầu tháng mười, kỉ nguyên Tự Đức đã bắt đầu mở ra với ân chiếu gồm 25 điều ban khắp thiên hạ. Vị lương y trẻ tuổi Nguyễn Văn Tường run lên khi đứng đọc những dòng chữ trên bảng bố cáo:
“Các địa phương có nhân sĩ nào tài đức giỏi giang mà ẩn dật nơi rừng núi, chuẩn cho quan thượng ti ở nơi ấy xét thực tâu lên, lượng cho bổ dụng”.
“Từ tờ mờ sáng ngày mồng 3 tháng 10 năm Thiệu Trị thứ 7 trở về trước, phàm các tội phạm phải sung quân hay phát lưu trở xuống, không cứ là đã kết án hay chưa kết án, đều cho khoan miễn tha ra” (4).
Thầy thuốc đông y Nguyễn Văn Tường cố giữ vẻ trầm tĩnh thường ngày, bước thong thả về nhà, với niềm vui rộn rã trong lòng. Ân chiếu!
Anh về đến nhà, Đích bỏ dao cầu thuyền tán, đứng đậy bồng con ríu rít hỏi chuyện. Thầy Tường cầm bàn tay mũm mĩm của chú bé Thiều, đứa con trai đầu lòng của vợ chồng anh, nhìn vào đôi mắt đen láy đã ràn rụa nước mắt xúc động của Đích, nói với giọng trầm tĩnh đến lạ lùng:
- Ta sẽ được xoá án! Mình vui đi!
Sau đó, tháng mười một, lại có một chiếu ban ơn gồm 19 điều nữa, cũng được rao truyền, niêm yết khắp thiên hạ.
Ở Quảng Trị, vào đầu năm Mậu thân (1848), Tự Đức nguyên niên, tuần vũ Lê Trường Danh (5) và án sát Lê Văn Vĩ (Lê Hồng Miên) (6) đã chiểu theo ân chiếu, lập thủ tục đệ trình lên Bộ Hình, xin xoá án cho Nguyễn Văn Tường, tú tài bị truất, bị kết án tội đồ đã chấp hành án, sáu năm về trước, vì không chịu đổi tên trùng với quốc tính.
Sáu năm về trước, Văn Tường chẳng buồn bã trông chờ một kỉ nguyên mới với sự xuất hiện minh đế của triều Nguyễn đó sao! Anh những tưởng phải hai mươi năm, ba mươi năm hoặc có khi phải lâu hơn nữa mới có ngày nay!
3
Sau một tháng được xoá án “bất đắc ứng thí”, tỉnh Quảng Trị của người thầy thuốc trẻ lại phải đối phó với nạn thổ phỉ Lào. Phủ Cam Lộ, nơi đã có một thời gian dăm năm, gia đình cha mẹ anh phải lên đó tìm đất mưu sinh bởi nạn cường hào ác bá ở quê nhà An Cư. Trên vùng đất đó, bọn thổ phỉ nước láng giềng đang tràn sang cướp phá. Hai châu Ba Lan, Mường Bổng gồm những người nhân tộc thiểu số đồng bào lại một phen điêu đứng, tang tóc. Cam Lộ, đó là cửa ngõ phía tây của Đất nước, của kinh đô, Xiêm rồi Lào đã chín lần quấy phá dưới hai triều Minh Mạng, Thiệu Trị. Đây là lần thứ nhất dưới triều Tự Đức!
May sao tri phủ Lê Văn Dự và quản vệ Nguyễn Nhuận của Cam Lộ đã kịp thời đánh tan, vỗ yên được bọn phỉ Lào trong một thời gian ngắn (7).
Qua vui mừng trước ân chiếu, qua xôn xao, kinh động bởi thổ phỉ, Quảng Trị và Nguyễn Văn Tường lại thầm lặng với ruộng nương, sách đèn, bắt mạch, kê đơn thuốc, theo nhịp sống bình thường. Thật ra, trong những ngày tháng này, thầy Tường lại sôi kinh nấu sử hơn bao giờ hết. Những cuốn sách triết học, sử luận thuộc kinh điển tam giáo, đặc biệt là của Nho giáo với tứ thư, ngũ kinh như Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử, Kinh dịch, Kinh Xuân thu… cho đến Bắc sử và các pho quốc sử từ Việt sử lược, Việt điện u linh, Đại Việt sử kí toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Phủ biên tạp lục, Đại Nam thực lục tiền biên, và cả Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỉ… được viết bằng chữ Hán, hầu như đã trở thành máu thịt trong anh. Ngoài ra, cũng như các sĩ tử khác, anh vận dụng nhuần nhuyễn các thể văn cử nghiệp, quan trường và trước tác (8). Đúng là sôi kinh nấu sử để những hạt ngọc chữ nghĩa trở thành cơm ăn nước uống hằng ngày của kẻ sĩ!
Lắng đi vài tháng, lại tàu Pháp ghé vào dòm ngó, đòi xin được lấy củi, lấy nước ngọt để chạy tàu thuỷ với máy hơi nước! Triều đình chấp thuận như thế (9). Nhưng đâu chỉ thế, trong thâm ý, với kế hoạch tằm ăn lá dâu lâu dài, chúng đang ra sức tuyên truyền, đào tạo lực lượng hậu thuẫn bên trong nước ta, lại đo đạc mực nước các cửa biển, cửa sông, hòng chiếm một vùng đất của ta làm trạm dừng chân, cung ứng vật hạng, nhân lực, làm bàn đạp ban đầu.
Rồi lại bùng lên vụ thổ phỉ Lào với tên tay sai Phù Xu Phì ở châu Mường Bổng trên Cam Lộ! Phù Xu Phì phản quốc, phản buôn làng chỉ vì một chức ma tà vằn của giặc (10)!
Và tháng sáu nguyệt lịch (1848), điều cấm đạo Gia Tô (Catholicisme) lại phải ban bố (11)! Cây thập tự được đặt trên đất để thử thách “dữu dân” có chịu bước qua hay không! Có người thức ngộ thú nhận đã bị thực dân lợi dụng, bước qua cây thập giá một thời tôn thờ, người ấy được tẩy hai chữ “tả đạo” khắc xăm trên mặt. Có người cam chịu tử đạo như Chúa Giê Su (Jésus) trên hai thanh gỗ thập tự tử hình! Các đạo trưởng (giám mục, linh mục) người Tây dương lén lút đổ bộ vào bờ biển, sống dưới hầm, lẩn trong nhà “dữu dân”, một số bị bắt được và bị hành hình về tội xúi giục dân trong nước làm giặc! Ở nước ta, bờ biển dài suốt mấy ngàn dặm, thật khó lòng kiểm soát. Cấm đạo, triều đình đành phải bức hại dân mình, bi kịch ấy đâu chỉ của nước ta, mà khắp châu Phi, châu Á, nhất là ở các nước: Thanh (Trung Hoa), Nhật Bản, Triều Tiên, Ấn Độ, Xiêm, Miến…
Có một buổi sáng lương y Nguyễn Văn Tường không bao giờ quên được. Quanh bãi cát ở phía tây cột cờ Dinh Cát ngày xa xưa, thầy Tường có mặt trong dãy ghế phía sau các quan chức tỉnh huyện. Là sĩ phu của huyện, thầy đang ngồi cạnh các quan viên về hưu, các cử nhân, tú tài chưa được bổ nhiệm, nhìn ra vuông cát rộng. Một cây thập tự bằng gỗ đặt nằm ở giữa. Phía trên thập tự, những người đã cải đạo, “chối đạo” đứng một bên, những người cam chịu tử vì đạo đứng bên kia. Một không khí nặng nề bao trùm. Trong cái nặng nề ấy, thực ra, hầu hết những người dân lương, quan chức, sĩ phu, thảy đều kinh ngạc và căm giận đám “tả đạo” đang đứng giữa sân. Họ chẳng hiểu sao niềm tin vào một tôn giáo xa lạ, chối bỏ cả việc đặt bàn thờ gia tiên trong nhà, chối bỏ mọi phong tục thờ cúng của dân tộc, thậm chí chống lại cả nền độc lập của dân tộc mình, không đoái hoài đến sự mất còn của Tổ quốc mình, lại được tin tưởng đến mức cuồng tín đến thế. Ngỡ sẽ sớm chấm dứt cảnh huống đang diễn ra trước mắt ấy, bởi những người theo “tả đạo” đã có thời gian suy nghĩ, bỗng nhiên, một người đến lượt được dẫn đến dưới chân cây Thánh Giá của họ, không phải như những người “tả đạo” khác, mà bị trói chặt khuỷu tay. Khoảng bốn mươi tuổi, ông ta tiều tụy bước, và đứng lại đúng chỗ.
- Bỏ tà đạo thì bước qua, đứng phía phải! Không bỏ, qua bên trái! – Viên lính dõng dạc bảo –.
- Xin quan cho tôi nói một lời.
- Không nói gì hết!
- Tôi cứ nói! Xin hỏi: Ai giúp tiên đế Nguyễn Ánh đánh bại bọn ngụy Tây Sơn, lập nên nhà Nguyễn? Có phải Đức Cha cả Bá Đa Lộc – Pi-nhô đờ Bê-hen (Pigneau de Béhaine) (12)? Có phải là cha ông chúng tôi theo đạo Gia Tô, thời đó, đã phù giúp? Sao các người phủi ơn nhanh rứa?
- Câm miệng! Đúng là phạm thượng, giọng lưỡi “tả đạo”, lại xổ tiếng Tây tiếng Âu nữa! – Giọng viên lính cố nói to để át sự bối rối –.
Viên lính chạy ngay đến trước khán đài, đan hai tay đặt trước trán, một đầu gối quỳ xuống chạm đất cát:
- Bẩm các quan lớn, thằng “tả đạo” này cứng đầu, phạm thượng!
Các quan, sĩ phu và tất thảy dân lương tham dự đều nghe rõ lời gã “tả đạo” to gan. Dám phạm huý, kêu ngay tên tự của tiên đế là đủ tội chết, nữa là!
- Thật láo xược! – Quan tuần vũ giận dữ quát –. Quân đâu! Gông cổ nó lại. Như thế là rõ ràng nó muốn chịu án trảm quyết bêu đầu! – Quan đầu tỉnh Lê Trường Danh lại cố trấn tĩnh, vẫn với giọng Đàng Ngoài quê ông –. Lẽ ra, không cần nghị xử gì nữa, mà phải chém ngay thị chúng! Nhưng ta cũng bảo cho tất cả quan dân ở đây rõ, bọn cố đạo Tây dương ngày càng lộ bộ mặt thật. Chúng đã giúp ngụy Khôi ở Gia Định, kích động bao nhiêu vụ làm loạn ở Bắc Kì, kể cả bọn ngụy Nông Văn Vân, toan lật đổ bản triều (13). Ngay tiên đế Gia Long về sau cũng đã hạn chế bọn “tả đạo” Tây dương, và cả tiên đế Minh Mạng cũng đã nhiều lần ban dụ cấm đạo vì bản chất bọn “tả đạo” ngày càng lộ rõ (14)! Thế mà “dữu dân”, “tả đạo” các ngươi vẫn ngu mê! Thôi, khỏi lắm lời! Gông cổ tên kia lại! Tiếp tục!
Sau khi rời khỏi bãi cát cải đạo, thầy Tường bước về nhà, đi cạnh Lê Đình Dao (15), một bạn đồng liêu cùng lứa tuổi vừa đỗ cử nhân khoa thi Mậu thân (1848) năm nay. Tính Dao vốn khẳng khái nhưng điềm đạm, lúc này cũng không thể không bức xúc nói:
- Trong phường Lá Vằng, mấy cố đạo Tây hay gọi là La Vang, bây chừ “tả đạo” tụ tập cầu nguyện Đức Mẹ Đồng Trinh suốt cả đêm ngày, xem chừng sốt sắng lắm! – Lê Đình Dao buồn buồn nói –. Thật khó hiểu quá chừng quá đỗi! Nghe đâu thời ngụy tướng Phạm Ngô Cầu của ngụy chúa Trịnh (1779), thời vua Cảnh Thịnh ngụy triều Tây Sơn (1798), chỗ nớ cũng đã là nơi trốn chạy các cuộc “sát tả”, máu chảy thành khe, thành ngòi (16)! Lúc bấy chừ, họ đồn có Đức Mẹ, người Do Thái, dân gian bảo là “ngó như mấy bà đầm”, hiện ra an ủi! Không hiểu vì răng dân mình lại có những kẻ theo cái đạo lạ kì như rứa!
- “Kính nhi viễn chi”! Đối với quỷ thần phải vậy, cứ “kính cẩn nhưng nên xa lánh”, như thầy Khổng dạy là tốt nhất, miễn là dân “tả đạo” người Việt mình đừng theo Tây, nghe lời bọn cố đạo Tây dương là được. – Nguyễn Văn Tường nói với Lê Đình Dao, khẽ giọng –. Nhưng, thật lòng… mình cũng không hiểu nổi vì răng một bộ phận dân mình lại như rứa, như Dao nói. Họ cứ nghe, cứ tin mấy cố đạo Tây tà. Ở kinh đô, khách thương người Tàu, Nhật, Mã Lai… cập bến tường thuật rất rõ là bọn Tây bạch tạng lợi dụng tôn giáo! Xưa nay tam giáo cửu lưu, có ai trấn áp chi đâu! Tu hành quái quỷ chi bọn đội lốt cố đạo nớ! Đi ăn cướp nước người ta mà còn khoác áo tu sĩ! Hết nước nói!
Hai người bạn, một vốn dân gốc làng Bồ Bản, một gốc An Cư, hai làng gần nhau, đi bên nhau, lặng lẽ suy tư. Họ cũng hiểu rằng, không phải chỉ riêng họ, mà hầu hết lương dân, sĩ phu, quan lại cho đến hoàng thân, hoàng đế đều cảm nghĩ như thế.
Thực dân! Thổ phỉ! “Tả đạo”! Đó là ba nguy cơ, hiểm hoạ và nỗi đau cả nước từ Bắc chí Nam và ở Quảng Trị quê nhà! Và nguy hoạ thứ tư: thiên tai dịch lệ! Như một trận bão oan nghiệt, bệnh dịch lại quét qua xát lại miền Trung, miền Bắc (17)! Bệnh dịch tả, căn bệnh hung ác, giết người hàng xã, hàng huyện, thầy Tường biết rõ cả đông y lẫn tây y đều bó tay chịu trận hoặc chỉ cầm cự!
Lại một mùa hạ thứ hai của kỉ nguyên mới!
Tháng năm nguyệt lịch, Tuần phủ Trị – Bình mới nhậm chức là Trần Quang Chung, người Tuy Phước, Bình Định, thay Lê Trường Danh, chuẩn bị cung trạm nghinh tiếp tại tỉnh nhà để đón sứ bộ nước Thanh (Trung Hoa) qua trao sắc chiếu phong vương cho vua Tự Đức. Lễ phong vương sẽ được tiến hành vào tháng bảy, năm Kỉ dậu (1849). Sứ bộ sẽ sang ngay kinh đô Huế, chứ không phải vua nối ngôi phải ra tại Hà Nội (Thăng Long) như các vị vua trước. Đó là một thắng lợi ngoại giao đầu triều Tự Đức (18). Và vì vậy, cộng với bệnh dịch đang lan tràn vừa tắt, kì thi hương chính khoa tháng bảy mùa thu năm nay bị triển hoãn, chỉ mỗi một trường thi Gia Định vẫn được thi theo lệ định!
Từ tháng mười Đinh mùi (1847) đến nay, đã hai mươi mốt tháng trôi qua với bao biến động, lễ lạc. Thầy thuốc đông y Nguyễn Văn Tường cũng đã lỡ mất một kì ân khoa năm ngoái, Mậu thân (1848), vì đang làm thủ tục xin xoá án “bất đắc ứng thí”! Kì này được xét hạch để dự thi, lại bị hoãn! Phải chờ đến tháng ba mùa xuân Canh tuất (1850) năm tới!
Hơn bao giờ hết, lúc Đất nước đang trong thời điểm báo động lâm nguy, kẻ sĩ càng nao nức nhập thế cuộc. “Nhập thế cuộc”, dấn thân vào đời kinh bang tế thế, sửa nước giúp đời, “bất khả vô văn tự”, không thể không chữ nghĩa, không thể không thông qua con đường khoa cử!
Bạn bè tuổi tác có chênh lệch nhau, nhưng đều cùng một lứa, cùng được tập trung về trường tỉnh để được học quan giảng tập, khảo khóa, xét hạch trước khi dự thi, từ khoa Nhâm dần (1842) đến nay, nhiều người đã đỗ đạt, cũng nhiều người bỏ cuộc. Trần Đình Túc (làng Hà Trung), Nguyễn Đăng Điều (làng An Cư), Hoàng Văn Giảng (làng Diên Sanh), Nguyễn Tăng Doãn (làng Câu Nhi), Lê Đình Dao (làng Bồ Bản), Vũ Tử Văn (Võ Văn Thọ, làng Nại Cửu), Nguyễn Hữu Điềm (làng Thái Hoà), và đặc biệt là Trần Xuân Hoà (làng Thâm Khê, huyện Hải Lăng; về sau trở thành người trung nghĩa, anh hùng chống Pháp của triều Nguyễn, được vua Tự Đức ban dụ dựng đền thờ)… đã lần lượt được đăng khoa (19)!
Người vượt lên tất cả bạn bè, sẽ đứng đầu Đất nước, giờ này vẫn hãy còn lận đận! Nhưng cơ may đang được mở ra sau khi kỉ nguyên Tự Đức đã ban ân chiếu, Nguyễn Văn Tường đã được mở khỏi cái ách “bất đắc ứng thí”!
Thầy Tường đã hai mươi sáu tuổi, anh trầm tĩnh chờ mùa xuân năm sau.
Và tháng ba, Canh tuất, năm Tự Đức thứ ba (1850), kì thi hương chính khoa vốn phải triển hoãn cũng đến. Nguyễn Văn Tường đã đỗ cử nhân (20). Nhưng đau xót thay, anh lại bị “nhắc nhở” về cái án “tên trùng với quốc tính không chịu đổi, nên bị đi đày” một lần nữa! Phải bị tội đồ một lần nữa, trước khi chính thức được công nhận học vị cử nhân. Đó là một cách khẳng định trước toàn dân thiên hạ và trước tất thảy quan chức, sĩ phu: Nguyễn Văn Tường không phải thuộc huyết thống hoàng tộc (không phải là hạt máu rơi của Trường Khánh công Miên Tông – hoàng đế Thiệu Trị – bao giờ!). Tuy nhiên, lần bị đày (tội đồ) thứ hai này cũng chỉ là “thủ tục xoá án có nhắc nhở” để anh được tiến thân trên con đường khoa cử, hoạn lộ, đúng như những người xuất thân từ giai tầng dân đen dân dã khác. Chỉ làm các công việc nhẹ nhàng, anh không bị lao dịch khổ sai như lần trước. Nguyễn Văn Tường bình tâm, thanh thản trong sự thấm thía thuyết chính danh định phận. Vâng, có phàn nàn gì đâu, cho dù bị oan trái! – Ông cử tân khoa còn bị treo bằng cấp tự nhủ –. Anh không hề mạo nhận quốc tính. Xưa nay, anh đã sống đúng với phận mình như tuân theo thiên mệnh!
Lần bị tội đồ này, có tính chất khẳng định, nhắc nhở lại án cũ, chứ không phải Nguyễn Văn Tường tái phạm, và chỉ trong mức sáu tháng, từ tháng tư đầu mùa hạ đến tháng mười đầu mùa đông. Lần này, suốt sáu tháng trời, cống sĩ tân khoa bị tạm thời treo bằng cấp, học vị lại phải lên tuốt tận đỉnh núi trong rặng Bạch Mã, nơi có con đường đèo Hải Vân, con đường dành cho khách bộ hành và binh lính hành quân, nhỏ như sợi chỉ ngoằn ngoèo vắt qua. Trong rặng núi Bạch Mã ấy, Viện Thái y mới thử nghiệm gầy dựng một vườn thuốc Nam. Ngày ngày, cùng với toán lính thú, dưới sự hướng dẫn của vài ngự y, kẻ cựu phạm nhân tội đồ bị cảnh cáo lại chăm lo bắt sâu tỉa lá, tưới nước, bón tro. Cũng là thầy thuốc, nhưng anh không khăn đóng áo the, phải ăn ngủ chung với lính thú, và cố nhiên không được hưởng đồng lương bổng nào. Các quan ngự y ăn riêng, ngủ riêng, được phục dịch hầu hạ, và lương bổng gấp đôi, gấp ba so với lúc làm việc ở kinh đô!
Tháng mười, Nguyễn Văn Tường được về quê, trước khi lại vào kinh đô dự kì thi hội. Trên đường ra Quảng Trị, qua chuyện trò với những người cùng đi, anh mới biết, từ tháng tám năm Tân Hợi (1851) sang năm, làng Diên Sanh sẽ được chọn để dời đặt lị sở cho huyện Hải Lăng (21).
Hôm ấy, qua Diên Sanh, mặc dù khá nóng lòng về thăm nhà, nhưng cũng rất mệt mỏi, cống sĩ Nguyễn Văn Tường tách khỏi đám bộ hành, ghé lại nhà Hoàng Văn Giảng (22), được dân làng gọi là ông cống, cống sĩ tân khoa từ khoá Đinh mùi (1847). Ở đấy, không những gặp Giảng, anh còn gặp cả Trần Xuân Hoà (23). Cả hai đang chuẩn bị đi nhận nhiệm sở. Hoà vào Nam, sẽ lãnh ngay chức tri phủ Định Tường, kiêm lí vài huyện. Giảng ra Bắc, lãnh tri huyện Tiến Lữ ở tỉnh Lạng Sơn.
Trần Xuân Hoà là con trai của cố bố chính sứ Trần Tuyên ở tận tỉnh Vĩnh Long, bị giặc mai phục, chết trận, rất được vua Thiệu Trị khen ngợi. Hoà được bổ ngay tri phủ cũng nhờ công lao của cha. Hoà vẫn nói giọng Nam Bộ đặc sệt, chụp lấy tay Tường:
- Tù đày sao mậy? Tưởng tiều tụy, nhưng hoá ra trông còn bảnh chán! Ta đi từ làng lên đây, ngang qua làng Kim Long (Kim Lung) ở Hải Quế, mua được vò rượu đầu vòi, say đằm mà bốc, ngon nhất nước! – Anh cười ha hả –. Gặp Tường ở đây, không nhậu làm sao được, phải hông Giảng? Giảng, kiếm con gà con qué gì nhậu chơi mậy! Mừng thằng Tường ở tù ở đày đã được dề!
Tường cảm động cầm tay bạn, nhìn gương mặt với những nét vừa gân guốc vừa thông minh của Hoà:
- Bình thường! So với cày cuốc ở nhà, xem ra bị đày cũng không cực lắm! Tội đồ sơ sơ, vừa chiếu lệ, lại vừa không phải lệ, rứa thôi! Thật ra, cũng oan cho mình, nhưng cái tính bướng thành ra đành phải “bụng làm dạ chịu”! – Tường cười –. Thôi, hết nợ oan gia rồi! Đừng nhắc nữa! – Tường hỏi Hoà –. Sắp vào Nam nhận chức? Răng chừ lên đường?
- Cụ thượng, cụ tổng Nguyễn Đức Hoạt (24) nghe đâu mới mất! – Giảng nói –. Thi hài mới từ Định Tường, Biên Hoà, chở thuyền ra! Cũng tiếc cho làng An Thơ, huyện Hải Lăng mình! Nếu cụ còn sống, Hoà sẽ nhậm chức dưới trướng của cụ. – Hoàng Văn Giảng vẫn giữ cốt cách nhà nho, vận khăn đóng áo the dài tiếp bạn, nhìn Tường và Hoà, giọng từ tốn –. Ở quê mình có món lòng sả, đặc sản. Uống chút rượu, nhấm gà bóp, rồi chén lòng sả sau. Đồng ý?
Lát sau, khi ba người bạn mắc áo dài khăn đóng lên hai chiếc gạc nai với nguyên đầu nai còn lông đã khô, được gắn lên vách gỗ, mỗi người chỉ còn vận bộ áo quần trắng, vạt áo cài khuy nút thắt một bên, ngồi trên hai chiếc trường kỉ chạm trổ tinh vi đặt ở căn giữa, trước gian đặt bàn thờ buông sáo trúc. Đứa cháu gái bưng lên một khay chén trà ngan ngát hương lài.
Lát sau, cháu gái lại bưng rượu thịt lên.
Tiệc rượu đã nồng. Câu chuyện đẩy đưa thế nào, lại nhắc đến Lê Đình Dao, Vũ Tử Văn, tháng ba Tân hợi (1851) sang năm sẽ cùng họ dự kì thi hội.
- Mình và Võ Văn Thọ, tức là Vũ Tử Văn đó, sau khi học chữ ở nhà với cha mình, lại học với cha Dao. Bọn mình vốn là học trò cụ thân sinh của Lê Đình Dao. Cụ thầy Lê Đình Khuê ấy đúng là túc nho, không hiểu có bị trù dập gì không, thi cử cứ bị đánh hỏng mãi, không đỗ được cái tú tài! – Nguyễn Văn Tường nói –.
- Mình biết cụ Lê! Chả là có một lần thời trai trẻ, cụ cho Tây Sơn có công thống nhất Đàng Trong, Đàng Ngoài. Cụ biện luận: Nếu không có Tây Sơn, Đất nước cứ hai Đàng mãi, chinh chiến mãi. Phải có Tây Sơn như thế, Đất nước mới yên, mới nhất thống một mối. – Hoàng Văn Giảng đặt chén rượu gạo Kim Long xuống –. Do đó, cụ cho là theo lẽ biến dịch, nên không gọi Tây Sơn là ngụy, còn bọn nào xuyên tạc Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ (25) vốn là đạo dòng, “dữu dân”, tức là cỏ trong lúa, thì đúng là láo toét (26). Chỉ chừng đó mà khốn một đời.
- Nhưng cụ thanh thản lắm! Đúng như triết lí tam vô, vô công, vô danh, vô vi, của Đạo đức kinh – Nguyễn Văn Tường gật đầu –. Thật ra, nhập thế mới là đại đạo…
- “Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”!
Trần Xuân Hoà mỉm cười, sau khi ngâm lớn hai câu thơ của Văn Thiên Tường (27). Anh lại dịch ra chữ Nôm:
- Người đời sau trước ai không chết
Lưu lại lòng son sáng sử xanh!
Hoà lại nói:
- Mình hoàn toàn đồng ý với Tường! Phải nhập thế mới đúng đạo làm người, đó là cái lẽ đạo lớn nhất!
- Khi hồi mình nói chưa hết ý. Mình có bàn về tam vô của Lão Tử!… Nhưng dạy học như cụ Lê Đình Khuê, theo mình, cũng tích cực lắm. Đào tạo bao nhiêu là môn sinh! Học trò đỗ đạt có cả hàng trăm. – Nguyễn Văn Tường lại nói –. Cụ thầy trước sau vẫn là nhà nho thôi!… Tất nhiên, có nhiều cách nhập thế, cách nào là tích cực nhất, vậy thôi. Lập đức? Lập công? Lập ngôn? Và nhiều hình thức, dạng thể trong một cách! Với bọn sĩ phu chúng mình, đại đạo đúng là như vậy, như Hoà vừa ngâm nga.
Trần Xuân Hoà đắc ý, lại một lần nữa ngâm sang sảng:
- “Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”!
Ba người bạn hào hứng, vẫn nhẹ nhàng, từ tốn, quanh mâm rượu cho đến khuya.
Ánh trăng tháng mười ở làng Diên Sanh này đang ngời sáng trước sân nhà Giảng.
Tháng ba năm sau, năm Tự Đức thứ tư (1851), Nguyễn Văn Tường dự kì thi hội trong hoàn cảnh bị tội đồ “nhắc nhở lại” vừa mới mãn hạn như thế, với tâm trạng không buồn rầu, nhưng không thể không ê ẩm, mỏi mệt. Khoa ấy, Lê Đình Dao và Vũ Tử Văn đều đỗ phó bảng. Dao lại đứng đầu bảng phụ ấy (28). Nguyễn Văn Tường, bạn bè anh đều hiểu rằng, tư tưởng của anh ít nhiều vượt lên những hạn chế của lối mòn “quan phương, chính thống”, nên quan trường khó lòng để đỗ cao, nhưng cũng khó bề đánh rớt. Dẫu sao, họ vẫn phải để Nguyễn Văn Tường ở mức đủ phân số điểm để được bổ nhiệm làm huấn đạo (29).
Nguyễn Văn Tường nhận chức học quan ở huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi, coi sóc việc học hành cho sĩ tử trong một huyện. Huyện Mộ Đức mới vừa giảm biên chế tri huyện, huyện phải thống thuộc vào phủ Tư Nghĩa. Thầy giáo Nguyễn Văn Tường ở hẳn trong trường học của huyện, tại xã Vạn Phúc (30). Làm thầy giáo, nhưng Nguyễn Văn Tường vẫn thăm mạch, viết phái thuốc cho bà con láng giềng quanh đó.
Lại năm sau nữa, Tự Đức năm thứ năm, Nhâm tí (1852), trường Bình Định bắt đầu được thành lập và mở khoa thi, với sĩ tử tỉnh nhà cùng hai tỉnh Quảng Ngãi, Phú Yên (31). Học trò huyện Mộ Đức của huấn đạo Nguyễn Văn Tường có một người thi đỗ tứ trường hương khoa: Phan Văn Điển, người xã An Thổ, Mộ Đức (32). Khoa sau, Ất mão (1855), Tự Đức năm thứ tám, lúc huấn đạo Tường đã về lại Quảng Trị, một học trò khác của thầy là Nguyễn Hữu Tạo (làng An Đại), đỗ cử nhân (33).
Năm Nhâm tí (1852) đó, triều đình lại định lệ xét bổ cho học quan tham dự chính quyền. Học quan như thầy huấn đạo Tường sau ba năm giảng tập cho học trò, sẽ được quan đốc học xét hạch, để đủ điều kiện được Bộ Lại bổ nhiệm làm tri châu, tri huyện (34).
Cũng năm Nhâm tí (1852) ấy, giặc Tam Đường, một loại giặc Tàu “khách”, thứ khách không mời, ở biên giới phía bắc mới được đánh tan, vỗ yên, phải chia ghép chỗ ở cho chúng (35). Đất nước không yên!
Năm Tự Đức thứ sáu, Quý sửu (1853), triều đình đổi tỉnh Quảng Trị thành đạo Quảng Trị, trực thuộc vào Phủ Thừa Thiên, trở thành một phần đất của kinh sư (kinh đô). Phủ doãn kinh sư Vũ Trọng Bình kiêm lãnh. Tuần phủ của hai tỉnh ghép Trị – Bình nguyên là Phạm Khôi, ông quan họ Phạm này vào kinh làm hữu tham tri Bộ Lễ (36). Cũng dịp đó, triều đình đồng thời cho giải thể phủ Cam Lộ, vốn kiêm nhiếp cả huyện Thành Hoá thưa thớt, ít ỏi dân cư. Huyện Hướng Hoá cách đây ba năm đã thành huyện Thành Hoá, rồi lại được sáp nhập thêm một số châu, xã của các huyện lân cận khác để mở rộng địa bàn. Nay Thành Hoá đã là một huyện ngang tầm với các huyện khác trong địa hạt kinh đô. Tháng sáu năm Quý sửu ấy, thầy thuốc, thầy giáo Nguyễn Văn Tường nhận sắc chỉ do Bộ Lại sao lục gửi vào, chuẩn bị về lại Quảng Trị quê nhà, giữ chức tri huyện ở vùng đất xung yếu ấy, vùng đất mà không một ân chiếu nào không nhắc đến, với một sự ban ơn đặc biệt của triều đình cho nhân dân ở đấy, nhất là đồng bào thiểu số. Nguyễn Văn Tường hiểu rằng anh được nhà vua tin cậy, tin vào sức bền chịu đựng, vượt lên gian khổ, thử thách nơi anh. Hướng Hoá – Cam Lộ, nơi thuở ấu thơ cùng gia đình cha mẹ có dăm năm gắn bó, mưu sinh, nên cũng có thể nói anh là người thổ trước (người địa phương) ở đấy, hoặc ít ra, cũng là người đã có kỉ niệm thân thương bám chặt (trước) với vùng đất (thổ) đó (37). Nay Nguyễn Văn Tường với chức trách quan tri huyện đầu tiên của Thành Hoá, tuổi tròn ba mươi, lại trở về chốn cũ, vào một ngày tháng chín nguyệt lịch, một ngày cuối thu.
Ở Thành Hoá, một vùng núi non hùng vĩ, hiểm trở, có nhiều buôn làng nhân tộc đồng bào ít người, ngoài việc chu tất với nỗ lực trong nhiệm vụ của một huyện lệnh, nhiều lần được vua Tự Đức khen thưởng, thăng cấp, anh vẫn là một lương y, một thầy thuốc tốt. Như một niềm đam mê, y học với tri huyện Nguyễn Văn Tường, từ năm mười chín tuổi, đến lúc này, vẫn là tâm nguyện “hành đạo trợ dân”. Ấy vốn là ý thức nhập môn của nho sĩ, nhưng ở Nguyễn Văn Tường, đó còn là một thôi thúc nội tâm.
Viết đến dòng chữ này lúc 16 giờ kém 03 phút,ngày 22.08.2002(14.07 Nhâm ngọ, năm thứ 2 công nguyên Hoà Bình [HB.2]).
TRẦN XUÂN AN
-----------------------------
(1) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên (ĐNTL.CB.), bản dịch Viện Sử học, tập 26, Nxb. KHXH., 1972, tr. 253 – 258. Xem thêm: Trần Trọng kim, Việt nam sử lược (VNSL.), bản 1964, Nxb. Tân Việt, tr. 468 – 469; Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (NĐNĐDVP. & TH.), UB.KHXH. TU. Tp. HCM. xb., 1993, tr. 93 – 99.
(2) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 32 – 33.
(3) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí (ĐNNTC.), bản dịch Phạm Trọng Điềm, hiệu đính: Đào Duy Anh, tập 1, Nxb. Thuận Hoá, 1992, tr. 149.
(4) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 39 – 40.
(5) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 117.
(6) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 69; Quốc sử quán triều Nguyễn và Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục (QTHKL.), bản dịch: Nguyễn Thuý Nga, Nguyễn Thị Lâm, hiệu đính: Cao Tự Thanh, Nxb. Tp. HCM., 1993, tr. 155.
(7) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 70 – 71.
(8) QTHKL., sdđ., tr. 294.
(9) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 88.
(10) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 91.
(11) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 111 – 112, tr. 423.
(12) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện (ĐNLT.), bản dịch Viện Sử học, tập 2, Nxb. Thuận Hoá, 1993, tr. 476 – 477; NĐNĐDVP. & TT., sđd., tr. 58 – 61. Nhân đây, xin trình bày cách phiên âm tiếng các nước Âu Mỹ: Nếu Quốc sử quán triều Nguyễn đã phiên âm và chúng ta quen dùng, tôi vẫn giữ nguyên để tiện việc tra cứu, đối chiếu với ĐNTL.CB. và ĐNLT., nhưng có chua thêm tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, chẳng hạn như Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine), Gia Tô (Catholisme), Mỹ Lợi Kiên (US. America)… ; nếu gặp trường hợp phiên âm theo một trong các cách hiện nay và cũng đã quen dùng, mà cách được đa số chấp nhận là có dấu ngang nối tách âm, tôi cũng theo cách như thế, ví dụ như Na-za-rét (hoặc Na-gia-rét, theo Kinh thánh), Lê-nin (Lénine), Ăng-ghen (Engels), I-rắc (Iraq); có khi lại để nguyên tiếng Âu Mỹ, đơn cử như Pierre Tạ Văn Phụng thay vì Phê Rô Tạ Văn Phụng… Tuy nhiên, cũng tuỳ văn cảnh, nhất là tuỳ ngôn ngữ nhân vật thế kỉ XIX, tôi linh hoạt về cách phiên âm; hoặc tên các nhân vật chưa hề được nhắc đến dưới dạng phiên âm (chỉ thấy trong sách nước ngoài hoặc sách xuất bản tại nước ta ở Miền Nam trước 1975 hay từ sau Đổi mới), tôi để nguyên tiếng nước ngoài, chẳng hạn: Charles Duval… Ngoài ra, đối với trường hợp người Pháp có thêm tên tiếng Việt, tôi chua thêm tên tiếng bản ngữ của họ, như cố đạo Trường (Legrand de la Liraye)… Nói chung, cho dù cách nào đi nữa, cũng cố gắng chua thêm để tiện tra cứu.
(13) NĐNĐDVP. & TH., sđd., tr. 52.
(14) ĐNTL.CB., tập 1, bộ sđd., tr. 154; tập 17, tr. 243; tập 26, tr. 276, 385.
(15) ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 312 – 313.
(16) Trần Quang Chu, Hành hương La Vang (HHLV.), tập 1, tác giả tự in vi tính, 1999, tr. 5 – 122.
(17) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 185.
(18) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 186 – 187.
(19) QTHKL., sđd., tr. 219 – 310.
(20) QTHKL., sđd., tr. 297.
(21) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 300.
(22) ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 416.
(23) ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 399.
(24) ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 26 – 27.
(25) ĐNLT., tập 2, sđd., tr. 491 – 540.
(26) HHLV., tập 1, sđd., tr. 35.
(27) Viện Văn học, Từ điển văn học (TĐVH.), tập 2, Nxb. KHXH., 1984, tr. 530: Văn Thiên Tường (1236 – 1282).
(28) Cao Xuân Dục (biên tập viên), Quốc triều đăng khoa lục (QTĐKL.), bản dịch: Trúc viên Lê Mạnh Liêu, TTHL. Bộ VHGD. & TN. xb., Sài Gòn, 1961, bản in 1971, tr. 118.
(29) ĐNTL.CB., tập 29, sđd., 1974, tr. 327.
(30) ĐNNTC., tập 2, sđd., tr. 403 – 404, tr. 409.
(31) QTHKL., sđd., tr. 311.
(32) ĐNTL.CB., tập 24, sđd., 1971, tr. 48; QTHKL., sđd., tr. 320.
(33) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 239; QTHKL., sđd., tr. 334.
(34) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 333 – 362.
(35) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 364, tr. 389 – 390.
(36) ĐNTL.CB., tập 27, sđd., 1973, tr. 396, tr. 398.
(37) Nguyên quán lâu đời của dòng họ Nguyễn Văn Tường là Nghệ – Tĩnh, Thanh Hóa.