THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THI VÂN YÊN TỬ

SỚM CHIỀU DU NGOẠN CÙNG MÂY NÚI
HOA TRÁI QUA NGÀY TA VỚI TA

Thứ Năm, 10 tháng 12, 2009

Hồi Ký Võ Long Triều (Tập II-8)

Người thành cổ Quảng trị

Hồi Ký Võ Long Triều

Tập II(tiếp theo)

II. Chính quyền Tổng Thống Thiệu và cái chết của Tướng Ðỗ Cao Trí
Nói ra điều này có thể khiến một số người không bằng lòng hoặc là sẽ chỉ trích tôi là vạch áo cho người xem lưng, nhưng khi đã viết thì khó lòng tránh được phải nói thật: miền Nam Việt Nam đang trong cơn nguy khốn vì cuộc tấn công của CSBV, thay vì phải siết chặt hàng ngũ để chống Cộng thì những nhà lãnh đạo hàng đầu của quốc gia lại tỏ ra tị hiềm thì làm sao khỏi gieo rắc sự hoài nghi cho nhân dân và chính đồng minh Hoa Kỳ của mình?
Khi đã nắm được quyền trong tay, lẽ ra Tổng Thống Thiệu phải ra tay chiêu dụ hòa giải các phe phái, đoàn kết toàn khối quân đội theo đúng tình “huynh đệ chi binh”, thu phục nhân tâm thì sức mạnh trở nên vô song thì làm gì cộng sản Bắc Việt có thể xâm nhập quân đội và vũ khí vào Miền Nam Việt Nam được? Tôi cho rằng sự rạn nứt nội bộ là yếu tố chính làm cho chúng ta mất sức vì xuất huyệt nội và dần dà dẫn đến kiệt sức sau khi bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi.
Tôi có khá nhiều lý do để từ chối không tham gia chính quyền Nguyễn Văn Thiệu sau lời mời khá nhiệt tình của ông Nguyễn Văn Kiểu bào huynh Tổng Thống Thiệu. Nhưng yếu tố chính là do chuyện tôi không tin tưởng tài lãnh đạo của ông Thiệu và ông lại còn tự lộ cho thấy là người tiền hậu bất nhứt như tôi đã viết trong tập I hồi ký của tôi. Nhưng dù không cộng tác với chính quyền của Tổng Thống Thiệu, nhưng chúng tôi cũng không hề chống đối, và trong nhiều trường hợp còn công khai ủng hộ ông nữa là khác.
Tôi còn nhớ đầu tháng 11 năm 1968, khi Mỹ ngưng oanh tạc Bắc Việt, Tổng Thống Thiệu công khai kêu gọi dân chúng, qua đài phát thanh và truyền hình, tiếp tục chiến đấu và xây dựng quốc gia theo chính sách 4 Không của chính phủ. Lời tuyên bố cứng rắn của ông đã kích động mãnh liệt quần chúng và chính trị gia cả nước. Thượng và Hạ Nghị Viện đều biểu quyết ra thông cáo ủng hộ Tổng Thống. Ðể chứng tỏ sự nhiệt tình ủng hộ, một số Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ, trong đó có các Dân Biểu Ngô Công Ðức, Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Chung, Lý Quí Chung xuống đường cùng với dân chúng cầm cờ đến dinh Tổng Thống để bày tỏ lập trường.
Năm đầu tiên của nhiệm kỳ Tổng Thống, Nguyễn Văn Thiệu muốn tìm sự ủng hộ của quần chúng để giúp ông có uy thế ép Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ ngồi yên vào vị trí của một người phó và bằng lòng với vị trí ấy, nghĩa là ông Kỳ chỉ được đóng vai trò lễ nghi mà không được quyền chia sẻ quyết định chính trị quan trọng. Về phần Tướng Kỳ, vì ngây thơ nghĩ rằng chính ông mới là người được các tướng lãnh đề cử ngồi vào ghế lãnh đạo quốc gia và cũng chính ông đã nhường địa vị nầy cho Thiệu thì lẽ nào ông Thiệu lại cư xử với ông một cách nguyên tắc máy móc như vậy. Ngoài ra các tướng lãnh hiện diện ngày ghép liên danh Thiệu-Kỳ có yêu cầu ông Thiệu phải hứa luôn luôn tham khảo ý kiến Hội Ðồng Tướng Lãnh về những vấn đề trọng đại của đất nước trước khi hành động. Nhưng thực tế Hiến Pháp đã không hề có một điều khoản nào bó buộc ông Thiệu phải thực hiện lời ông đã hứa.
Thông thường chính trường cũng như thương trường, một bước sai lầm đưa đến thất bại, đó là qui luật tự cổ chí kim, Ðông, Tây vẫn là như vậy. Trong một giây phút Tướng Kỳ xiêu lòng vì giọt nước mắt của Tướng Thiệu không những gây thất vọng cho nhiều tướng lãnh đã từng ủng hộ ông Kỳ và sau này chính ông Kỳ cũng có những phản ứng chứng tỏ ông thất vọng bởi quyết định của chính ông. Còn về phần Tổng Thống Thiệu khi thì dựa vào uy tín hay mượn bàn tay của Thủ Tướng Trần Văn Hương, khi thì dùng quyền hiến định, ông loại trừ dần những người thân cận của Tướng Kỳ trong guồng máy quản trị quốc gia như các Tư Lệnh Vùng, Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát Quốc Gia, Ðô Trưởng Saigon và nhiều nhân vật trong chính phủ khác, kể cả các tổng bộ trưởng nào lộ ra dấu hiệu thân với Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ. Nói ra những chi tiết này, không phải là một cách để trách cứ mà chỉ là để vẽ lại một bối cảnh, một bức tranh đen đối của đất nước vào giai đoạn đó. Khi vẽ lại được bối cảnh đó, chúng ta có thể sẽ nhẹ bớt đi những buồn phiền, những khắc khoải, những trách cứ nhau, dù rằng mỗi người đều phải mang nỗi đau cho riêng mình.
Tổng Thống Thiệu là người ít tiếp tục thực hiện những chương trình hay kế hoạch của người đi trước. Chẳng hạn, tôi có thể đơn cử chương trình phát triển quận 8 làm thí dụ. Chương trình này gặt hái được thành công đáng kể và chắc Tổng Thống Thiệu khi còn làm Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia cũng đã biết đến chương trình này. Nhưng chương trình phát triển quận 8 do cựu Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ nhiệt tình bảo trợ như tôi đã viết trong tập I quyển hồi ký. Bây giờ Tổng Thống Thiệu muốn dành lại ảnh hưởng nên buộc chương trình phải chịu sự trực tiếp điều khiển của phủ Tổng Thống do những người thiếu hiểu biết về thanh thiếu niên, quan liêu không chịu hòa mình với quần chúng. Hành động sai lầm đáng tiếc, có thể nói được là đáng lên án bởi vì ông Thiệu bất chấp sự thành công của tuổi trẻ đang hăng sai “xây dựng đời mới”, đang tạo niềm tin cho đồng bào nghèo khổ, đang khuếch trương vết dầu loang đi các quận khác và sau nầy có thể lan về tỉnh như sự ước tính và chủ trương của chúng tôi lúc ban đầu khi nghĩ đến các làng Kibouzt của Do Thái. Thực tế cho thấy hình như toàn bộ suy nghĩ của Tổng Thống Thiệu chỉ tập trung vào sự củng cố địa vị và bảo vệ quyền lợi cá nhân nhiều hơn là xây dựng, phát triển, bảo vệ quốc gia.
Báo chí khởi sự chỉ trích, Bộ Thông Tin của ông Thiệu khởi sự tịch thu báo. Bộ trưởng đặc trách liên lạc quốc hội của ông tung tiền quỹ đen của phủ Tổng Thống mua chuộc dân biểu và báo chí. Dân chúng hoài nghi, chính trị gia bất bình. Từ đó hình thành một sự chống đối ngấm ngầm cũng có lúc công khai. Và cũng từ đó có danh từ “Gia Nô” gán cho Dân Biểu hay Nghị Sĩ bị mua chuộc, họ là những dân cử hết lòng phục vụ Tổng Thống đổi lấy danh vọng hay tiền tài.
Dưới thời nội các Trần Văn Hương, tôi làm việc với Tổng Trưởng Trương Thái Tôn, đặc trách kế hoạch của Bộ Canh Nông. Không bao lâu, cố vấn Mỹ đưa ra chương tình “Người Cày Có Ruộng” yêu cầu bộ thảo luận để thi hành. Vị cố vấn Mỹ đề nghị lấy tiền viện trợ bồi thường cho những ruộng đất của điền chủ, hoặc đã bỏ hoang hoặc đang bị chiếm trong những vùng xôi đậu. Tôi phụ trách sở thống kê và kinh tế nông nghiệp trước khi tham gia nội các chiến tranh nên tôi biết rõ là sau đợt “Cải Cách Ðiền Ðịa” của thời đệ nhứt cộng hòa ruộng đất của điền chủ không còn lại bao nhiêu. Chương trình người cày có ruộng do Mỹ tưởng tượng chỉ làm giàu phi lý cho những điền chủ hiện sống ổn định trong những tỉnh thành. Tổng Trưởng Trương Thái Tôn và tôi bàn nhau và đề nghị: khoản tiền chi phí lớn lao nầy không đem lợi ích gì cho nông dân mà chỉ làm mồi ngon cho bọn tham nhũng mà thôi. Sự tiên đoán của chúng tôi thực tế sau nầy chứng minh là đúng. Anh Tôn và tôi không đồng ý bác bỏ chương trình. Thay vào đó chúng tôi đề nghị dùng số tiền viện trợ dành cho chương trình “Người Cày Có Ruộng” để giúp nông dân có điều kiện mua phân rẻ, mua hạt giống tốt hoặc vay vốn để canh tác. Ðó là những biện pháp làm cho nền nông nghiệp cất cánh đi lên. Nhưng Tổng Thống Thiệu nghe theo lời giải thích của cố vấn Mỹ là hữu sản hóa nông dân, dù chỉ bằng giấy tờ, thì họ sẽ không bị cộng sản dụ dỗ, đồng thời Tổng Thống được tiếng tốt là lo cho dân. Nguyễn Văn Thiệu nghe bùi tai nên trách Trương Thái Tôn là muốn cản trở chính sách “Vì Dân” của ông và làm giảm uy tín Tổng Thống. Trương Thái Tôn và tôi từ chức. Liền sau đó Hoàng Ðức Nhã đưa Cao Văn Thân vào thay thế. Nhưng con bài Cao Văn Thân và nhóm chuyên viên đặc biệt cũng không thành công vì ngay chính cả ban chuyên viên cũng không tìm ra được một cách nhìn khác hơn để giải quyết những bế tắc của chính sách nông nghiệp tại nông thôn cũng như chính sách kỹ nghệ hóa để tiến dần đến giai đoạn bớt dần ảnh hưởng của viện trợ như Ðài Loan đã làm cách đó vài năm. Hoa Kỳ luôn luôn dùng viện trợ để làm áp lực, cho nên bất cứ một chính sách nào của VNCH mà muốn tách rời khỏi ảnh hương của viện trợ là điều không được Hoa Thịnh Ðốn ủng hộ.
Sau khi tôi từ chức Phụ Tá Tổng Trưởng Canh Nông, Tổng Thống Thiệu chỉ thị Bộ Quốc Phòng phải gọi tôi trở về quân đội. Với bằng cấp kỹ sư tôi được phân bố về Tổng Cục Tiếp Vận thuộc Bộ Tổng Tham Mưu do Trung Tướng Ðồng Văn Khuyên chỉ huy và tôi phục vụ tại sở kỹ nghệ quân đội với Thiếu Tá Nhàn làm chánh sở. Thời gian phục vụ tại sở kỹ nghệ quân đội thật nhàn rỗi, gần như không có việc để làm. Sở chỉ gồm một đại úy, hai trung úy kỹ sư và tôi.
Những năm đó tôi thường đến nhà mát của Trung Tướng Nguyễn Văn Vỹ, Tổng Trưởng Quốc Phòng ở khu Cầu Kinh chơi. Tôi được ông mời uống nước vối hay uống trà nghe ông kể chuyện binh quyền thời Pháp. Có một lần ông thố lộ với tôi rằng ông chủ trương lập ngân hàng quân đội, dùng tiền của ngân hàng thiết lập một nền kỹ nghệ cho quân đội. Ông muốn phòng xa, nếu Mỹ có gây khó khăn cho mình về mức tiền viện trợ thì ít ra cơ sở ngân hàng và kỹ nghệ quân đội cũng có thể cung cấp lương hướng cho quân nhân chống đỡ qua ngày. Trong tinh thần đó ông đã xin ý kiến Tổng Thống. Tướng Thiệu đồng ý và ra lệnh cho Bộ Quốc Phòng tự động trích một khoản tiền lương rất nhỏ của quân nhân mỗi tháng, tùy theo số lương và cấp bậc để gầy vốn lập ngân hàng quân đội lấy tên là “Kỹ Thương Ngân Hàng”. Tướng Vỹ cử cựu Thứ Trưởng Thương Mại Nguyễn Chánh Lý làm Tổng Giám Ðốc. Trong câu chuyện trao đổi, tôi có đưa ra ý kiến với ông:
- Trung Tướng không nên đụng chạm gì tới lương của quân nhân mà không có sự đồng ý của họ. Tốt nhứt là Trung Tướng ra lệnh cho các đơn vị trưởng của họ cử người đại diện về họp và biểu quyết tán thành việc trừ lương để tránh lời ong tiếng ve. Ðụng chạm đến tiền bạc phiền lắm Trung Tướng ơi !
Trung Tướng Vỹ khẳng định:
- Chính Tổng Thống đã đồng ý đề nghị của tôi và ông ta ra lệnh cho tôi làm như vậy.
Tôi lại khuyên Tướng Vỹ:
- Nếu một khi có người chỉ trích hay thậm chí kiện cáo ông thì Tổng Thống có bảo vệ được Trung Tướng không? Liệu ông ta có can đảm và ngay tình nhận trách nhiệm cho Trung Tướng hay là ông ta đưa Trung Tướng ra làm dê tế thần?
Trung Tướng Vỹ cười và nói đùa:
- Làm gì có chuyện rắc rối đến như vậy?
Tôi gợi thêm ý:
- Thằng Mỹ sẽ không bằng lòng khi thấy Trung Tướng đang tự gắn lông gắn cánh cho mình để không còn chịu sự lệ thuộc của họ nữa.
Tướng Vỹ cười và đáp lại:
- Chúng nó còn cầu cho mình có lông có cánh để nó trút gánh nặng cho mình nữa là khác.
Lời cảnh giác của tôi ứng nghiệm vài năm sau, vấn đề trừ lương quân nhân bị nhiều dân biểu độc lập cũng như thân chính hay đối lập đòi hỏi chính quyền phải giải thích tại sao trừ lương lính và số tiền đó được sử dụng như thế nào? Kết quả Tướng Vỹ mất chức, Kỹ Thương Ngân Hàng tan rã. Nhưng Tổng Thống Thiệu thì bình thản tại vị.
Nói về sự chống đối của khối dân biểu và chính trị gia đối lập mà dư luận thường gán cho cái tên gọi là “thành phần thứ ba” thiên Cộng. Sự thật cái thành phần đó chỉ có một thiểu số dân biểu bị Ðinh Bá Thi móc nối tại Paris và bắt liên lạc được sau nầy như tôi đã trình bày trong tập I quyển Hồi Ký. Cái danh nghĩa thành phần thứ ba là nhái theo nhóm chính trị của Lào do Hoàng Thân Souvana Phouma lãnh đạo có sự ủng hộ của Pháp dưới thời Tổng Thống Charles De Gaulle. Ðối chọi với một bên là Tướng Kong Le, cực hữu theo Mỹ, một bên là Hoàng Thân Soupha Nouvong cộng sản. Cái gọi là thành phần thứ ba có thể do cộng sản gán ghép khi họ tuyên truyền trên chính trường quốc tế với mục đích chia rẽ hàng ngũ quốc gia và xúi giục nội loạn.
Nhưng thực tế cái thành phần thứ ba đó tại miền Nam Việt Nam không có một chủ trương đường lối rõ rệt, cũng không có một tuyên ngôn khẳng định chính thức lập trường, không có nhiều thành viên, cũng không có một nhân vật chánh thức lãnh đạo. Ðại Tướng Dương Văn Minh cũng chưa hề xác định ông là lãnh tụ thành phần thứ ba có mục tiêu rõ ràng. Những người tự xưng là thành phần thứ ba đó đếm không đủ năm ngón của một bàn tay. Người mạnh miệng nhứt là Lý Quí Chung, bị Hoàng Ðức Nhã chế diễu là thành phần “lòng thòng” đứng giữa. Hoàng Ðức Nhã lợi dụng thời cơ đổ cho nhóm người đó làm tay sai phá hoại miền Nam để che đậy sự bất tài bất lực của chính quyền Tổng Thống Thiệu không lãnh đạo được toàn dân toàn quân một lòng chống cộng sản xâm lăng. Còn phía Việt Cộng thì rống cổ kêu gào, quảng cáo, tâng bốc với mục đích tuyên truyền, gây mâu thuẫn làm suy yếu miền Nam.
Sự thật thành phần chống đối cung cách lãnh đạo của Tổng Thống ngày càng đông. Rất nhiều chính trị gia miền Nam có tên tuổi, chống thái độ và hành động của Tổng Thống như Luật Sư Dân Biểu Trần Văn Tuyên, đa số các Dân Biểu Quốc Dân Ðảng như Phan Thiệp, Lê Ðình Duyên, Nguyễn Văn Cử. Khối dân biểu Cấp Tiến do Ðại Tá Nhan Minh Trang đứng đầu. Dân Biểu cựu Thiếu Tá không quân Ðặng Văn Tiếp, vân vân... Tất cả không ai thân Cộng nên sau 30- 4-1975 phải đi tù cải tạo lâu dài, có người vĩnh viễn không bao giờ trở về. Tóm lại thành phần thứ ba chỉ là vài ba tên bị móc nối hô hào cho rộng đám để rồi bên nầy cũng như bên kia lợi dụng hầu thỏa mãn nhu cầu và mục đích của họ mà thôi.
Có một khoảng thời gian sau 1970, dư luận ở miền Nam than phiền: cứ để Tổng Thống Thiệu ôm chân Mỹ kiểu này thì có ngày mất nước. Thời điểm đó, trong quân đội, người ta chú ý đến Trung Tướng Ðổ Cao Trí, đương kim Tư Lệnh vùng III chiến thuật, một trong những người bạn chí thân của tôi. Thậm chí một số người coi tướng Trí là một viên tướng không mấy ủng hộ Tổng Thống Thiệu. Tôi không hiểu dư luận này bắt nguồn từ đâu. Chúng tôi thường tâm tình với nhau tự do thoải mái, từ chuyện tình duyên, dạy dỗ con cái, buồn phiền gia đình đến chính trị và quân sự. Có một hôm Tướng Ðỗ Cao Trí bị cúm, nằm đắp chăn trên giường, tôi đến chơi không đúng lúc, tùy viên đem ghế tôi ngồi đối diện với anh thăm hỏi vấn an. Tôi còn nhớ anh nói với tôi:
- Triều à, moa là thằng lính nhà binh không biết chính trị, nhưng moa thấy ông Thiệu lừng khừng quá. Hình như ông ta không biết mình muốn gì. Hay là ông ta bị Mỹ khóa tay khóa chân. Hoặc ông ta tự mình bán thân cho Mỹ rồi.
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
- Tại sao toa nói như vậy?
- Thì chính toa cũng thấy và chắc toa còn hiểu nhiều hơn moa.
- Chính Tướng Kỳ cũng có than phiền điều đó với moa vài lần. Nhưng biết làm sao bây giờ?
- Nếu moa làm một cuộc đảo chánh, toa thấy có nên không? Thú thật với toa từ khi mới có binh quyền trong tay cho đến ngày nay moa chưa hề đánh thua một trận nào. Tụi Mỹ kính phục moa về vấn đề nầy và chúng nó luôn luôn thỏa mãn mọi yêu cầu của moa.
Tôi giật mình suy nghĩ, Ðỗ Cao Trí nhìn tôi ngạc nhiên vì không thấy tôi trả lời. Trong khi tôi nghĩ rằng: thằng bạn mình muốn dấn thân vào đại sự. Trước kia như tôi đã viết trong hồi ký tập I, Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ có đề nghị với tôi hai lần nhưng tôi không thấy lòng mình có chút lo lắng nào. Lần nầy có lẽ vì Ðỗ Cao Trí với tôi thân thiết nhiều nên tôi có phần lo cho anh nhiều hơn là lo cho tôi. Sự im lặng của tôi gần cả phút làm nặng nề cho cả đôi bên. Tôi hỏi lại?
- Liệu toa có thể đảo chánh thành công không?
- Ðó là chuyện chơi đối với moa.
- Ðừng có đùa. Bộ toa đang lên cơn sốt nên nói sảng phải không?
- Ê, toa quên rằng moa là Tư lệnh quân đoàn III và Trung Tướng Minh là em út ruột của moa, hiện đang nắm quyền Tổng Trấn Saigon sao? Còn bao nhiêu em út khác rải rác mà toa chưa biết. Ðời binh nghiệp của moa toa có biết sơ rồi. Phần toa, liệu có khả năng đảm nhận trọng trách lèo lái con thuyền quốc gia không?
- Khả năng thì chắc chắn có, hơn nữa bạn bè đông, thừa sức hành xử đối phó với mọi vấn đề. Nhưng moa đề nghị tụi mình nên suy nghĩ kỷ việc nầy. Khi toa hết bệnh mình sẽ gặp lại bàn rộng hơn.
Một tuần sau đó, Trung Tướng Trí mời tôi dùng cơm trưa tại dinh Tỉnh Trưởng Biên Hòa, vừa là tư gia tạm của ông vừa dùng làm văn phòng Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn. Cơm dọn xong, tùy viên và người hầu biến mất. Chúng tôi tay đôi bàn việc tương lai, nhận định về những khó khăn chính trị, về nguy cơ quân sự do cộng sản Bắc Việt xâm nhập miền Nam khá nhiều, về chính sách Hoa Kỳ thì chúng tôi chỉ đoán mò. Ðiều chúng tôi biết chắc là Mỹ muốn có một nhà lãnh đạo của miền Nam sẵn sàng bán mình cho họ. Ðối với Việt Nam yếu tố Mỹ vô cùng quan trọng vì sự hiện diện của năm trăm ngàn quân, vì số tiền và vũ khí viện trợ. Nhưng ngược lại lấy trí mà suy thì đối với Mỹ yếu tố Việt Nam cũng có tầm quan trọng tại vì sao?
Nhìn lại cuộc chiến Ðông Dương những năm 45-54, Pháp thua trận tại Paris chớ không phải tại Ðiện Biên Phủ. Phong trào đòi hòa bình cho Ðông Dương làm tê liệt nước Pháp hằng ngày, làm sụp đổ chính phủ liên tục. Cho đến ngày Mendes France bị bắt buộc ký hiệp ước Hòa Bình với cộng sản Bắc Việt vào giờ cuối cùng của đêm khuya sắp chấm dứt hội nghị, chỉ vì lời hứa với Quốc Hội trước khi đi Genève: giá nào cũng phải có hiệp ước Hòa Bình. Nếu Mendes France trở về Pháp tay không thì nội các của ông phải cuốn gói ra đi. Yếu tố Việt Nam đối Với Mỹ quan trọng là vì phong trào phản chiến ngày càng ồn ào chia rẽ nước Mỹ, Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ Mỹ muốn giữ ghế phải chạy theo sự đòi hỏi của cử tri. Người Mỹ không muốn đưa con cái mình đi tìm cái chế ở Việt Nam nữa. Nếu có một chính quyền mạnh ỏ Miền Nam Việt Nam, nếu tập thể quân đội kiên cường anh dũng có được Tướng Lãnh chỉ huy xứng đáng, thì Việt Nam Cộng Hòa hùng mạnh sẽ giúp chính quyền Mỹ mạnh dạn giải thích với nhân dân của họ, thì bọn phản chiến khó sách động quần chúng.
Ðổ hết tội lỗi cho đồng minh Mỹ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa cũng đúng, nhưng ta nên xét lại mình đã góp đủ phần để cho phép Mỹ giúp ta hết tình chưa? Cái khó là làm cho quyền lợi của mình phù hợp song song với quyền lợi của Mỹ trong giai đoạn đó. Vấn đề là nếu ta có đủ sức mạnh để đương đầu và có đủ khả năng thúc đẩy toàn dân đoàn kết thì thời cuộc có thể chuyển hướng ngược vòng, phần lợi về ta. Chính sách của Mỹ thay đổi tùy thuộc nhiều yếu tố ngoại lại, giải pháp nào có lợi cho nước Mỹ thì họ chọn.
Theo chủ quan của Trung Tướng Ðỗ Cao Trí thì ông có thể tạo được sự đoàn kết trong quân đội và cũng theo chủ quan của tôi thì đông đảo bạn bè có thừa khả năng đặt nhiều kế hoạch kích thích toàn dân tham gia xây dựng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội, phá vỡ môi trường hoạt động và tuyên truyền của cộng sản. Chúng tôi bàn thảo sâu rộng, đắn đo cũng nhiều. Cuối cùng quyết định thực hiện kế hoạch thay Tổng Thống Thiệu. Tướng Ðỗ Cao Trí âm thầm và khéo léo chuẩn bị hành động, nhưng dường như Nguyễn Văn Thiệu đánh hơi thấy một điều gì đó, tôi chưa biết rõ nhưng tôi có linh cảm như thế.
Rồi có một ngày Trung Tướng Trí có vẻ lo ngại vừa thông báo vừa hỏi ý tôi về đề nghị của cố vấn Mỹ, yêu cầu anh đưa trực thăng của mình vào bãi đáp của Mỹ để họ giữ an ninh giùm. Tôi hỏi ngược Tướng Trí: “Toa giữ an ninh cho cả một vùng III được mà giữ anh ninh cho một chiếc trực thăng của toa không được sao?” Liền sau đó, Trung Tướng Trí đổi hết phi đoàn trực thăng của ông thay bằng những bà con xa gần trong đó có Thiếu Tá Ðẳng vai chú của Ðỗ Cao Trí. Một tuần lễ sau Trí lại hỏi: “Mỹ bảo moa không chịu đưa trực thăng vào bãi đậu cho nó giữ an ninh giùm mình không chịu vậy thì trước khi bay đưa cho tụi nó kiểm máy lại giùm, ý toa nghĩ sao?
Bất cứ một người bình thường nào cũng phải đánh hàng trăm dấu hỏi, trừ hai người chúng tôi mù mờ, u mê vì ý trời xui khiến hay là số mạng của Ðỗ Cao Trí đến hồi sắp tận, chúng tôi đồng ý nghĩ rằng: Trực thăng do Mỹ sản xuất, thợ sửa máy bay của mình do Mỹ huấn luyện, thì bây giờ đưa trực thăng cho họ kiểm máy là hợp lý và bình thường. Hai ngày sau trực thăng nổ cháy. Toàn bộ phi hành đoàn theo Trung Tướng Ðỗ Cao Trí đều tử nạn.
Khoảng 10 giờ trưa ngày hôm đó tôi đang làm việc tại Tổng Tham Mưu, Ðại Tá Trần Kim Hoa, Chánh Võ Phòng Phủ Thủ Tướng, hiện định cư ở Texas, điện thoại cho tôi báo tin nói: “Ông bạn của ông chết rồi” Tôi hỏi gặn: Ông bạn nào? Bên kia đầu dây trả lời ngắn gọn: “Thì ông Trung Tướng Tư Lệnh bạn của ông đó”. Tôi đờ người bỏ ống nghe xuống, bước ra cửa về.
Thông báo chính thức của chính phủ trên đài phát thanh và truyền hình là trực thăng của vị Tư Lệnh Quân Ðoàn III bị hỏa tiễn Việt Cộng bắn rơi. Mãi về sau này, anh ruột của Ðỗ Cao Trí là nha sĩ Ðỗ Cao Minh, hiện định cư tại Pháp, to nhỏ cho tôi biết về một lời tâm sự của Ðại Tá Chiêm, đàn em của Tướng Trí, Phụ trách ban anh ninh phủ Tổng Thống tường thuật với Ðỗ Cao Minh như sau: Sáng hôm đó ký giả tuần báo Newsweek, ông Francois Sully, diện kiến Tổng Thống Thiệu đúng 8 giờ, sau đó ký giả nầy có hẹn với Trung Tướng Ðỗ Cao Trí lúc 9 giờ để tháp tùng đi thi sát mặt trận Campuchia. Theo thông lệ mọi người vào diện kiến các cấp lãnh đạo cũng phải để xách tay lại văn phòng bí thư hay tùy viên. Francois Sully giã từ Tổng Thống xách cặp của ông ra đi. Không hiểu giữa thời gian đó, có ai bỏ bom nổ chậm trong cặp không?
Ai giết Trung Tướng Ðổ Cao Trí? Việt Cộng chăng? Người Mỹ chăng? Tổng Thống Thiệu chăng? Cho tới nay, chưa có một cuộc điều tra nào khả dĩ khẳng định chính xác nguyên nhân cái chết của Tướng Ðỗ Cao Trí. Tôi nghĩ chỉ có Thượng Ðế mới trả lời được thắc mắc tại sao chiếc trực thăng của Tướng Trí lâm nạn mà thôi. (Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét