THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THI VÂN YÊN TỬ

SỚM CHIỀU DU NGOẠN CÙNG MÂY NÚI
HOA TRÁI QUA NGÀY TA VỚI TA

Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2013

Người thành cổ Quảng trị



Trai Đàn Trên Sông Thạch Hãn











Sau Hội Ngộ Đền Đô (Mai Thục Newvietart.com) sư thầy Thích Tâm Hiệp, người đứng cạnh tôi trong Lễ dâng hương Đền Đô, đã nhờ Phật tử mang đến nhà riêng tặng tập sách “Trai Đàn Bạt Thủy Trên Sông Thạch Hãn Quảng Trị” (NXB Hồng Đức- Hà Nội 2012)
Cầm cuốn sách gần hai trăm trang trên tay, chiêm ngắm những bức ảnh mây trời vần vụ, áo cà- sa, đèn hoa sen hồng mờ ảo, lung liêng trên sông Thạch Hãn buổi chiều tàn, tôi trào nước mắt. Không phải tôi khóc. Những Linh hồn người dân Quảng Trị, Nghĩa Trang Trường Sơn, Đường 9, và rất nhiều hương linh nơi những nấm mồ, cỏ cây, sông, suối, ao hồ Quảng Trị… đã tụ về bên tôi mà khóc.
Gio Linh- Quảng Trị, nơi có nghĩa trang Trường Sơn, đối với tôi thân thương xa xót. Hơn bốn lần tôi về Quảng Trị, thắp nhang khóc những người tình tuổi hai mươi nằm lại đất này. Tiếng ai hát “Ơi, Gio Linh, Gio Linh. Đất chung thủy, nghĩa tình” luôn vang vọng bên tôi.
Quảng Trị có từ xa xưa Lý- Trần cha ông khai hoang mở lối. Quảng Trị- Huyền Trân mang tình duyên đổi lấy sơn hà. Quảng Trị- Nguyễn Hoàng Lập dinh và qua đời tại đây. Quảng Trị- Nguyễn Hoàng mở nước, nhìn sang Tây phương, bay ngược chiều kim đồng hồ, theo cánh chim Lạc cha ông khắc ghi Trống Đồng.
Quảng Trị- Trịnh Nguyễn phân tranh.
Quảng Trị- “Mùa hè đỏ lửa” 1972.
Sông Thạch Hãn. Dòng sông có nguồn đá ngầm chắn ngang. (Thạch là đá, Hãn là ngăn cản). Dòng sông nước chảy hiền hòa, xanh biêng biếc. Sau “Mùa hè đỏ lửa” năm 1972, Thạch Hãn mang tên “Dòng sông máu”.
Người Việt Nam nói: “Dòng sông Thạch Hãn là mồ chôn tập thể, hàng vạn người lính trẻ ngã xuống đáy nước”.
Đất Quảng Trị chịu không biết bao nhiêu hoang tàn điêu linh:
“Đây đại lộ Kinh Hoàng, ghi lắm cảnh tang thương
Nọ dòng sông Bến Hải, khơi bao nguồn sóng gió, ngàn năm luống chạnh nỗi phân ly”.
Người Quảng Trị truyền đời con cháu: “Không một mương nước, bờ ruộng, mảnh vườn, gốc cây, con đường nào khắp trên vùng đất Quảng Trị mà không có xác bộ đội hay ai đó chết trận được lấp hờ đâu đó đang yên nghỉ”.
Những người đang sống hôm nay, cầu siêu thoát cho những người lính Bắc- Nam, những vong linh thập loại chúng sinh, chết oan ức vì những cuộc chiến tranh tại Quảng Trị và khắp nơi trên đất nước Việt yêu dấu.
“Nam mô A Di Đà Phật”
Sách “Trai đàn bạt thủy trên sông Thạch Hãn Quảng Trị” mang đến niềm an ủi. An ủi rằng, lần đầu tiên trên đất Quảng Trị, do chính người dân Quảng Trị, nhà sư của Am Thụy Ứng đề xướng và lập Trai Đàn Trên Sông Thạch Hãn cầu siêu cho những người lính khắp mọi miền Tổ quốc và những người dân tử nạn vì cuộc chiến, tri ân “Uống nước nhớ nguồn” ức vạn hồn, vạn kiếp điêu linh.
Sau Hiệp định 1954. Sông Hiền Lương- Quảng Trị được chọn làm giới tuyến chia hai miền Nam Bắc.
Sau chiến trận ác liệt năm 1972. Sông Thạch Hãn- Quảng Trị làm vết cắt chia đôi hai miền một lần nữa.
Chiến tranh vừa tàn. Người dân khắp nơi trên đất nước Việt Nam đổ về Quảng Trị tìm “hồn xiêu phách lạc” của không biết bao nhiêu người thân thương tử trận. Quảng Trị là mảnh đất chiến địa kinh hoàng nhất của cuộc chiến thảm khốc trong lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XX.
G.S Vũ Khiêu gần trăm tuổi khóc:
Buổi chiến trận điêu linh tan tác
Trăm vạn người thịt nát xương tan
Xót xa thay những hồn oan
Sông sâu nước lạnh nương thân chốn nào?
Dòng Thạch Hãn máu đào hòa nước
Các hương linh xuôi ngược nơi đâu
Về đây nghe tiếng nguyện cầu
Cúi xin Đức Phật phép màu siêu sinh.
(Văn chiêu hồn trên sông Thạch Hãn)
Trai Đàn Trên Sông Thạch Hãn
Trai đàn được diễn ra linh thiêng, thành kính cảm thấu Đất Trời- Âm Dương vào ngày 20 đến 21 tháng 8- 2011 (Tức ngày 21 đến 22 tháng 7 năm Tân Mão) bên đôi bờ Thạch Hãn. Một trai đàn Phật pháp quy mô, quy tụ mọi thành phần, mọi người dân đến từ mọi miền đất nước, bằng những đồng tiền gom góp của mình. Tất cả đồng một chữ Tâm, cầu siêu thoát cho ức vạn người nằm xuống.
Khói trầm quyện tỏa theo lời kinh tiếng kệ, theo âm vang chuông mõ suốt ba ngày đêm. Mười sáu ngàn ngọn nến lung linh trong đêm hoa đăng trải khắp một vùng sông nước gần cây số. Thuyền kết thành bè nối dài từ hai bờ ra đến giữa sông để dựng đàn trên sông. Dòng Thạch Hãn sáng lung linh trong đêm huyền ảo, hòa âm vang trì tụng câu thần chú vĩ đại của Đức Quán Thế Âm: “Um Mani Padme Hum”.
Trong trai đàn này là dịp người dân chứng kiến hàng ngàn lá cờ Phật giáo tung bay trên quảng trường và hai bên bờ Thạch Hãn rực rỡ uy linh.
Dòng Thạch Hãn đỏ máu bỗng bừng lên ngọn lửa trái tim mọi người dân Việt Nam nguyện cầu tình thương và thức tỉnh, giải thoát, siêu thăng, tịnh độ. Sức chuyển hóa ẩn chứa hàm tàng từ trong tinh thần từ bi bất phân biệt, được truyền đi suốt mấy ngàn năm nay hiển hiện bên dòng Thạch Hãn. Đàn pháp kết tập trí tuệ, tình thương và nguyện cầu của Chư Đức, Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni cùng Phật tử và bà con thân hữu ba miền đất nước yêu thương gọi anh linh chiến sĩ, đồng bào tử trận: “Xin thấm sâu tiếng kệ, lời kinh, xin cùng hòa trong dòng chảy tâm linh mà nhận chân cõi tịnh”.
Chiêu linh thiết vị lễ thường
Bên sông lập một đàn tràng giải oan
(Truyện Kiều)
Sư thầy Thích Tâm Hiệp tu tại Am Thụy Ứng- Quảng Trị, nhờ nhân duyên linh ứng mà khởi lập trai đàn này, cảm nhận mãn nguyện khi tiếng đọc Văn tế và Văn chiêu hồn vang lên trong đêm hoa đăng dưới bến sông Thạch Hãn.
Giáo sư Vũ Khiêu và GS Vũ Ngọc Khánh, tuổi cao, sức yếu, cảm ứng viết những lời cảm động, thống thiết, minh triết, cầu hương linh nhẹ nhàng siêu thoát. Lời văn của hại cụ không khơi động hơn thua, phân biệt. Tất cả đều là sinh linh hàm thức như nhau trước Phật đài, nương tựa oai lực Tam Bảo, mong giải nỗi u uẩn mà tìm đường siêu sinh.
Cụ Vũ Ngọc Khánh viết Văn tế theo thể biền ngẫu với từng cặp câu đối, ngắn dài, bằng trắc đối xứng, gieo vần đắc sắc lối cổ.
Cụ Vũ Ngọc Khánh vừa mới ra đi, thong dong về miền Tịnh cảnh. Văn tế Trai đàn Thạch Hãn là tác phẩm cuối cùng cụ gửi lại cho đời. Văn tế của cụ bao quát được lịch sử, sự kiện, địa danh Quảng Trị, hùng hồn, tha thiết nói lên nỗi niềm cay đắng, mất mát, điêu linh trong chiến tranh, có cái chạnh lòng của người chiêm nghiệm, biết xót xa, cám cảnh “nồi da, xáo thịt” còn đang nhức nhối tâm can người Việt:
“Con một nhà thành địch thủ hiểm nguy
Chim một tổ thành đối phương độc ác”
Văn chiêu hồn trên sông Thạch Hãn của cụ Vũ Khiêu viết theo thể song thất lục bát. Lời văn chiêu hồn của cụ đọc lên nghe da diết làm sao. Những cảnh chết thê thảm, bất chợt, nhưng con người đủ cấp hạng, già trẻ, gái trai, bào thai… những oan hồn mệnh bạc còn chìm sâu đáy nước, bờ sông, gốc cây, ngọn suối… lạnh lẽo, bơ vơ không nơi nương náu, làm người nghe rơi lệ.
Cụ Vũ Khiêu dựa theo đúng thể văn song thất lục bát của cụ Nguyễn Du, nhưng lời văn tả cách chết và hồn xiêu dạt là của cảnh chết trận và tâm tình đau đớn hôm nay. Cụ chủ yếu nói lên cảnh hương linh chết trên sông Thạch Hãn:
Khốn những lúc mưa sa bão táp
Hồn lênh đênh biết dạt nơi đâu
Nay nương bến vắng chân cầu
Hoặc đành để nước sông sâu nhấn chìm…
Hồn giam hãm dưới nghìn thác nước
Tiếng khóc than tức tưởi ngày đêm
Oan hồn uổng tử trăm miền
Nghe đàn giải nghiệp thăng thiên tựu về…
Trai Đàn Trên Sông Thạch Hãn vừa đúng nghi lễ Phật pháp, vừa đúng nghi lễ cổ truyền. Một cụ Hội chủ làng Thi Ông và hai mươi bô lão chỉnh tề trong trang phục khăn đống, áo dài đen truyền thống dân tộc có mặt trong ban đại bái, có hai vị thỉnh chiêng và trống. Họ đại diện cho lớp người đi qua cuộc chiến năm 1972 còn sống sót, đã chứng kiến những gì tang thương của tháng ngày chạy loạn, chết thảm thê ở đại lộ Kinh Hoàng.
Sáng ngày 22 có một đoàn rước Bát Cống đúng theo cổ truyền miền Bắc đã đi nhiễu ba vòng quanh đàn tràng, trên kiệu cung nghinh Địa Tạng Vương Bồ Tát khi qua sông lập đàn ở bờ Bắc, bắt Kiều băng bằng dải lụa cho chân hương linh qua sông. Đoàn rước hoành tráng và uy nghi biểu lộ nét đẹp cổ xưa linh thiêng, thành kính.
Học hỏi kiến thức về Trai Đàn
Sư thầy Thích Tâm Hiệp hiện tu hành tại Am Thụy Ứng thuộc ngôi làng Thi Ông bên dòng sông Vĩnh Định- Quảng Trị sôi máu lửa, đã đề xướng và tổ chức Trai Đàn Trên Sông Thạch Hãn.
Cùng các bậc thầy của mình, sư Thích Tâm Hiệp thấm mạch nguồn Văn hóa Dân tộc hòa Phật pháp.
Phật giáo truyền vào nước ta hơn 2000 năm, thấm sâu vào mạch sống dân tộc. Kể từ khi vua Lý Nam Đế lên ngôi, lập nên nhà nước Vạn Xuân, dựng chùa Khai Quốc (Trấn Quốc). Nước có chùa của nước gọi là Quốc Tự. Vua có thầy của vua gọi là Quốc sư để tham vấn chiều hướng đạo đức, mở mang chính sự. Làng có chùa của làng để dân tu tâm, luyện tính, cầu siêu. Chùa có điện thờ Mẫu, Thánh, Sơn Thủy Thần hòa đạo Phật với tinh thần Tổ tiên Việt cổ. Theo đó, từ vua, quan, đến thứ dân, nhà nhà đều thờ Mẫu, Phật, Thánh, mẹ cha ông bà, người thân đã mất. Đó là Đạo Việt xem trọng Nhân- Nghĩa, thực hành Hiếu- Tâm, là gốc căn bản của Đạo đức Dân tộc. Triết gia Lương Kim Định viết: “Đạo mất trước. Nước mất sau”.
Đạo là vận khí của vũ trụ, con người, vạn vật.
Đạo Không bao giờ mất.
Chỉ có những kẻ vô Đạo bị trừng trị mà thôi.
Đạo trừng trị không sót một tên vô Đạo nào trên trái đất này.
Nước có Đạo thì thịnh. Nhà có Đạo thì yên. Người có Đạo thì như có sức mạnh hộ thân, làm vốn quý cho sự sống bình an của mình và phúc cho con cháu. Đó là sự thật. Không thể nghĩ bàn.
Linh nghiệm Am Thụy Ứng
Ngôi làng Thi Ông được hình thành cùng bước chân bậc quân vương lỗi lạc Trần Nhân Tông. Bước chân Tổ tiên khai hoang, lập ấp, khơi nguồn Cổ Hà, tạo dòng Vĩnh Định, bốn mùa lưu thủy thông thương, ruộng vườn sớm hôm lúa khoai trồng trọt, dân quê vui sống hiền lành.
Nhưng rồi bể dâu tan nát suốt bao thế kỷ bạo tàn. Đất và người Quảng Trị thời nào cũng chìm trong chết chóc, điêu linh.
Khi nước biến, người dân tìm về Đạo để nương tựa. Am tranh Thụy Ứng được dựng lên, che chở người hiền, trong binh biến. Từ một căn hầm trong vườn ông Chánh Bát Phẩm (hiệu Tâm Thụy) trú ẩn tránh bom Pháp dội năm 1947. Nhờ sức thiêng ơn trên độ trì, gia đình ông Chánh và nhiều người thoát chết. Một quả đan pháo trên mặt hầm không nổ.
Năm 1954. Ông Chánh làm trên hầm một cái Am tranh và thỉnh Phật bằng tranh về thờ. Dấu tích Thụy Ứng khởi nguồn từ đấy.
Ngày 14- 2- 1966. Thi Ông xảy ra một trận đánh ác liệt, xe tăng thiết giáp và máy bay Mỹ quần nát. Số đông ông bà lão không chạy được, lại tìm đến căn hầm dưới Am tranh thờ Phật mà được cứu thoát qua đại nạn.
Tháng 3- 1972. Cuộc chiến hung tàn nhất địa cầu diễn ra tại Quảng Trị. Người dân nát tan, ly tán. Cũng nhờ Am Tranh mà mấy chục người già không chạy được, thoát chết.
Trớ trêu thay! Theo vận nước, núi sông Quảng Trị tàng ẩn địa linh ít mà trắc khí nhiều chăng? Thiên tai địch họa, thủy quái hoành hành thành trận đồ bát quái. Những trận bão lũ năm 1976, 1985, 1999… miền Trung tràn cơn Đại Hồng Thủy.
Am Tranh Thụy Ứng đơn sơ mà linh địa, cứu thoát nhiều người qua thiên tai, địch họa. Ông Bát Nghị (cái tên dân làng Thi Ông thường gọi ông) vẫn bám trụ Am tranh nơi mảnh vườn nhà, sống đến ngày hòa bình đoàn tụ con cháu. Mảnh vườn Am Tranh giờ đây là đất thiêng Am Thụy Ứng hôm nay.
Nối tiếp cụ Tâm Thụy, sư thầy Thích Minh Thông lúc đó chưa xuất gia đã tri ân sự mầu nhiệm của Phật Tổ, sự gia hộ của Bồ Tát Quán Thế Âm tại Am Tranh đã che chở cho mình qua cơn đại nạn, khi tìm cách thoát khỏi đại lộ Kinh Hoàng năm 1972, đã sớm hôm kinh kệ tụng niệm và dựng lại Am Tranh và đặt tên Am là “Thụy Ứng”.
Chữ “Thụy” lấy từ tên cụ Tâm Thụy. “Thụy” cũng có nghĩa là điềm lành. ”. “Ứng” là ứng nghiệm. Những lời nguyện cầu được linh ứng lợi lạc chúng sinh. Từ khi dựng lại Thụy Ứng và hết lòng phụng sự Tam Bảo, cư sĩ (nay là Đại đứcThích Minh Thông) được báo mộng: “Mấy chục năm sau, nơi đây sẽ là nhà cửa san sát với tòa Tam Bảo trang nghiêm, có tăng chúng tu hành, xiển dường Chánh Pháp”.
Một nhánh nhỏ cây Bồ Đề được cư sĩ trồng với lời nguyện: “Nếu Đạo Pháp trường tồn, không bị hủy diệt từ đây, thì cây Bồ Đề sẽ sống xanh tốt”.
Tại Thụy Ứng tháng 10- 1975. Cư sĩ chủ nhân Am Thụy Ứng đã thỉnh ngôi tượng Phật bằng nhôm, cao gần 1m về thờ. Am Thụy Ứng vẫn là một Thảo Am tranh tre, nhưng cây lá sum xuê, đủ các lọa phong lan, bám trên thân Lộc Vừng khoe sắc, tỏa hương, chim ca ríu rít. Thụy Ứng thường xuyên đón bước chân của hai bậc thầy khả kính. Hòa thượng Thích Ân Cần và Hòa thượng Thích Chánh Trực cùng dân làng hôm sớm nguyện cầu, hương khói.
Cư sĩ pháp danh Không Ngụy (Thích Minh Thông) lấy đức tin và trí tuệ, thể hiện hình ảnh một Phật tử sống đức độ, giữa xã hội nhốn nháo. Năm 1992, Không Ngụy từ giã Thụy Ứng, khăn gói lên đường vào Nam cầu thầy, học Đạo.
Am thiêng vắng chủ, khói mờ hương nhạt. Cây bồ đề vẫn xanh tươi đợi chủ nhân ngày về.
Đầu thu Năm 2001. Thầy Thích Minh Thông trở về. Túc duyên kỳ ngộ, Thầy vận động Phật tử xây Thụy Ứng bằng gạch ngói.
Năm 2005. Sư thầy Thích Tâm Hiệp cùng thầy Thích Minh Thông xây dựng ngôi Quan Âm Các. Năm 2010, cơ duyên hội đủ, thỉnh tượng Bồ Tát Quán Thế Âm cao 2,5m dáng đứng mềm mại giữa Quan Âm Các thanh thoát, cứu khổ, cứu nạn.
Phép lạ ứng hiện. Người dân hân hoan cúng dường trên 3000m2 đất xây Tam Bảo. Thụy Ứng vừa xây dựng, vừa thực hiện lễ cúng cầu siêu hằng tháng tại các nghĩa trang Quảng Trị. Thầy Thích Minh Thông đã ở lại Thụy Ứng lâu dài để cúng lễ tại nghĩa trang Trường Sơn và Đường 9, không về tu viện Vạn Hạnh nữa.
Đầu năm 2007, sư thầy Thích Tâm Hiệp chọn Am Thụy Ứng làm nơi dừng chân tu hành, ước mong cùng thầy Thích Minh Thông xây Am Thụy Ứng trở thành ngôi Già Lam linh thiêng.
Cơ duyên hạnh ngộ. Một định luật tất yếu của chu kỳ vận hành nhân quả. Gieo nhân lành, phúc lộc đơm bông. Suốt gần sáu chục năm hành thiện, Am Thụy Ứng giờ đây là một ngôi Già Lam trang nghiêm bề thế, duyên dáng hài hòa giữa bốn bề cây tre xanh tươi yên ả của đồng quê.
Nội điện Tam Bảo Thụy Ứng có năm gian thờ ứng với năm vị được tôn thờ. Chính giữa là Đức Thích Ca Mâu Ni. Bốn gian có bốn vị Bồ Tát: Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm và Địa Tạng. Bốn vị Bồ Tát biểu tượng cho bốn sức mạnh của Trí Tuệ, Hạnh Nguyện, Tình Thương, Hóa giải và chấp nhận để dấn thân vào đời.
Ngôi tượng gỗ tôn trí ở tòa Tam Bảo Thụy Ứng là một báu vật quý. Tượng gỗ nguyên khối không tỳ vết cao 2,2m, nặng 1,95 tấn. Tượng có thế ngồi kiết già mạnh mẽ thân hình vạm vỡ, một tay để ngửa trên hai vế, tay phải buông duỗi trước mặt, chạm xuống đất trong thế Địa Xúc ẩn. Tượng được tạc theo mẫu Đức Phật thành Đạo tại Bồ Đề Đạo Tràng Ấn Độ.
Mùa thu năm Canh Dần 2010. Đúc Chuông Đại Hồng một tấn, ngân nga trên đồng lúa, gọi con người tỉnh mộng.
Mùa Thu Tân Mão 2011. Am Thụy Ứng thực hiện Trai Đàn Trên Sông Thạch Hãn.
Sư thầy Thích Tâm Hiệp viết: “Bây giờ tôi ngồi đây để viết lên những gì mình từng nghe. Viết về một giai đoạn nơi mình sống và lớn lên, lập thân hành đạo. Tri ân tiền nhân, tri ân tất cả những gì làm nên một Thụy Ứng như hôm nay giữa làng quê Thi Ông hiền lành bên dòng sông Vĩnh êm đềm. Tất cả đã làm nên chiều dài lịch sử một Thụy Ứng với nhiều mầu nhiệm và lợi lạc quần sinh.”
Tại sao phải dựng Đàn Pháp Bạt Thủy?
Sư thầy Thích Tâm Hiệp giải thích bằng vốn tu tập của mình về Đàn Pháp Bạt Thủy.
Trai đàn là Đàn chay. Lễ cúng hoàn toàn chay tịnh, đèn, nến, hương, hoa quả. Đàn tràng theo nguyên tắc Mạn Đà La của Mật tông.
“Bạt Thủy” gọi là “Bạt Độ Tử Nghiệp Trầm Thủy”. Nghĩa là Đàn Pháp chuyên cứu vớt siêu thoát cho người mắc nghiệp chết dưới nước.
Cả nhân loại từ buổi sơ khai đều tin: “Chết- Không hoàn toàn mất đi. Thần thức vẫn còn đó.” Định luật “Bảo toàn Năng lượng” của Khoa học Vật lý đã chứng minh: “Sự vật không bao giờ mất đi, chỉ biến đổi từ trạng thái này qua trạng thái khác.”
Người Việt thờ Đạo Mẫu cổ xưa là thể hiện niềm tin trên. Đạo Phật vào nước ta, gặp Đạo Mẫu, hòa hợp thành nền tảng Văn hóa Nhân bản Việt.
Đạo Phật giải thích, xét về góc độ nghiệp báo, nghiệp chướng khi sinh tiền tạo ra cũng không mất đi. Ngược lại nó theo ta như bóng với hình. Tuy thân chết rồi nhưng vẫn bị khổ đau nên tìm về người thân còn sống để níu kéo. Những hương linh không còn ai thân thương để nương nhờ thì lang thang, vật vờ làm thành thế giới Cô hồn, Ngạ quỷ. Tất cả họ luôn bao quanh chúng ta, vay trả, trả vay, hỗn loạn. Do vậy, Chư tổ lập Đàn tràng Chẩn tế, y vào lời Phật dạy là nhằm giúp cho thế giới Âm linh, Cô hồn một cơ hội lớn nhất để siêu thoát. Chỉ có trong Đàn tràng ta mới hợp nhất thành một sức mạnh lớn lao giúp cõi Âm siêu thoát. Âm siêu thì Dương cũng nhẹ nhàng thư thái mà vui sống, con người thanh thản, hưởng phúc ấm của Tổ tiên mà an lành, xã hội bình an. Lợi ích của Đàn tràng vô biên.
Chết ở trong nước, thần thức hương linh bị chìm ngộp và chịu sự lạnh lẽo dưới nước. Đưa thần thức hương linh ra khỏi sự chìm nghỉm giam hãm đó ta phải vận dụng đến Đàn Pháp Bạt Thủy.
Sự cầu nguyện của ta, phát sinh do tình thương yêu, nhất tâm hướng về người chết nước, tâm có tác dụng tạo sự cảm ứng, hương linh dưới nước có thể cảm nhận được. Tuy vậy, tiếng kinh, lời thỉnh nguyện không chạm sâu được đến người đang chìm ngộp trong thế giới đó. Khả năng thức tỉnh không đủ lớn để vượt thoát sự giam hãm dày xéo bức xé bởi nghiệp lực níu kéo, chìm nghỉm dưới đáy sông sâu. Hương linh không thể lên bờ ra khỏi nước được. Để cầu nguyện siêu thoát, việc trước tiên là phải “vớt” họ lên khỏi nước.
Dòng sông Thạch Hãn đã để lại hình ảnh thương đau không năm tháng:
“Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm”
Dòng sông xanh hiền hòa vô tội, bỗng chứa bao uất hận, điêu linh. Am Thụy Ứng linh thiêng hóa giải oán hờn còn nặng cõi âm, đã dùng Đàn Pháp Trai Đàn Bạt Thủy. Cầu nguyện bao oan hồn uổng tử vất vưởng quanh sông, đáy sông, hoằng duyên Phật Pháp, chuyển hóa, khai ngục, mở lối cho hương linh quy y siêu thoát.
Am Thụy Ứng thỉnh mời hai bộ Kinh Sư dựng lập Đàn Pháp ở cả hai bên bờ sông Thạch Hãn. Ở bờ Nam lễ thỉnh hương linh ở đại lộ Kinh Hoàng và trong Thành Cổ Quảng Trị. Ở bờ Bắc lễ thỉnh hương linh ở nghĩa trang Trường Sơn và Đường 9 về dự đàn.
Trai Đàn Trên Sông Thạch Hãn tạo cơ duyên cho những gia đình, trải tình an ủi, yêu thương tới người thân tử vong tại Quảng Trị. Hàng chục năm sau cuộc chiến, bao người thân cả nước đổ về Quảng Trị tìm hài cốt người thân. Tìm làm sao thấy? Thịt nát xương tan tơi tả đất trời. Còn chút gì đâu mà tìm. Trai Đàn Trên Sông Thạch Hãn giúp hàng vạn người phát nguyện cầu siêu, nhờ phép lực vô biên của Tam Bảo, giải tỏa oan khiên, nghiệp chướng cho Anh linh Chiến sĩ, Nam Nữ trận vong, Đồng bào tử nạn, Cửu huyền Thất tổ còn đang bơ vơ, điêu linh.
Sức Mạnh Chuyển Hóa Tâm Thức
Thế kỷ XX- XXI trên thế gian này có ai đau đớn, thương yêu bằng chúng ta không? Những người Việt Nam đã chết và còn sống sót sau cuộc chiến bạo tàn, luôn tìm về nhau từng thời khắc. Những tiếng khóc vang âm chảy dài xuyên hai thế kỷ:
Khóc
Vị tướng già khóc lính nằm nơi đâu?
Đồng đội sống sót, bạc đầu khóc bạn
Vợ khóc chồng nặng khăn tang
Trẻ mồ côi vờ vật khóc cha
Mẹ mất con khóc mờ mắt lệ
Thiếu nữ cô lẻ một đời
Khóc người tình sa trận
Bông hồng trắng ngậm ngùi chín suối
Bầu bạn khóc nhau, mình tự khóc mình
Dưới mồ cha mẹ khóc con
Con khóc cha mấy lần thương tật
Chị khóc em xao xác thân tàn
Cháu khóc ông bà vất vưởng kiếp phù du…
Ở đâu trên trái đất này
Người khóc người, nước mắt ướt cay
Khóc người sống và khóc người đã chết
Thương yêu nào đau đớn thế, hỡi non cao!
(Mai Thục)
Bạn Thu Ca về dự Trai Đàn Trên Sông Thạch Hãn viết:
Máu chảy thành sông, thây phơi đầy đồng. Cái cụm từ đau thương về một cuộc chiến. Từ góc độ nhân bản mà nói, nó khiến cho không còn kẻ thắng, người thua. Những giọt nước mắt của những bà mẹ mất con, những người vợ mất chồng, những đứa trẻ mồ côi… có giọt nước mắt nào không mặn đắng. Bạn có nhói đau không khi xem lại những thước phim đầy bom đạn đổ xuống mảnh đất này, nổ tung, những tay súng trẻ măng gục xuống. Ban có xót xa không khi nhìn những cánh đồng nghèo đầy hố bom đào xới. Bạn có khóc không khi nhìn thấy một đứa trẻ nhỏ xíu ngồi giữa đường thét lên hoảng sợ bên xác mẹ… Cái nỗi đau của giết chóc, của tàn sát, cái nỗi đau của kẻ bỗng dưng phải mất mát người thương… nhiều nhiều quá, những nỗi đau hẳn vẫn còn đây.
Cái nỗi đau làm thành một sức nặng vô hình trên mảnh đất này. Làm sao để nỗi đau ấy có thể nhẹ đi, có thể chuyển thành thanh thản?”
Sư thầy Thích Tâm Hiệp viết:
“Từ tuổi nhỏ, tôi đã từng nghe đến câu thỉnh của thầy tôi trong lễ cúng Âm linh Cô hồn mỗi khi cúng ở ngoài trời: “Nhất tâm triệu thỉnh- Việt Nam chiến tranh biến cố trị Thiên Mậu Thân- Nhâm Tý, chiến sĩ trận vong, Đồng bào tử nạn…”
Một giai đoạn thật dài, sống và lớn lên bên cạnh cha ông và thầy tổ, tôi không ngừng nghe họ kể mãi về nỗi kinh hoàng của họ lưu lại trong ký ức về biến cố đó.
Rồi lớn lên… Tôi thấy quê hương mình đâu đâu cũng có mộ phần anh linh chiến sĩ, đầy những nghĩa trang, những nấm mồ vô chủ… Đâu đâu cũng có miếu thờ Âm linh Cô hồn. Nhà nhà quanh năm, nén nhang, bát cháo, vái van hướng về người đã khuất ẩn linh đâu đó.
Người sống và kẻ chết, người còn và kẻ mất. Người sống là “sống còn” giữa bao nhiêu rủi ro và mất mát điêu linh bởi thiên tai, địch họa.
Thắp một nén nhang là để cảm ơn Phật Trời Tổ tiên đã cho mình cái may mắn run rủi được sống sót… lại chạnh lòng nghĩ đến người chẳng may ra đi giữa muôn vàn bi thảm.
Từ đó mà sống/ chết buộc ràng, còn/ mất mong manh. Người Âm giới, kẻ Dương trần quấn quýt vấn vương, phảng phất qua lại.
Một nén nhang thắp lên là lòng thành tưởng nhớ, mà cũng là cảnh tỉnh nhau sống bình an hơn, tha thứ hơn… có người có ta, có Âm- Dương cùng tồn tại”.
Nỗi đau trong Tâm thức
Cần được chữa trị bằng Tâm thức
Bạn Thu Ca đã thực sự nhận được Sức Mạnh Chuyển Hóa Tâm Thức (Tên bài viết của Thu Ca trong sách Trai Đàn Trên Sông Thạch Hãn).
Thu Ca viết: “Nỗi đau cần được chia sẻ bằng tình thương và dẫn giải bằng sự hiều biết. Nhưng nỗi đau lớn và âm thầm như nỗi đau bởi chiến tranh là nỗi đau vô hình trong tâm thức, phải được chữa trị bằng sự hiểu biết và tình thương sâu sắc của Tâm thức.
Phương thuốc ấy có sẵn trong dòng chảy Tâm linh dân tộc Viêt từ ngàn đời nay, hun đúc bởi nếp sống Đạo Mẫu và Đạo Phật. Chúng ta mở lòng để đón nhận là có được.
Trai Đàn Thạch Hãn lung linh nở hàng vạn đóa sen hương thơm của từ bi, của ánh sáng tuệ giác, kết cầu nối những cõi lòng thương nhớ, làm nên sức mạnh chuyển hóa Tâm thức.
Chắp tay nguyện cầu xin cho nỗi đau chiến tranh được tình thương xoa dịu. Xin cho không bao giờ còn cảnh tương tàn. Xin cho an bình mãi mãi có mặt nơi mảnh đất này.
Chắp tay nguyện cầu, xin gửi lòng thương tưởng biết ơn khôn cùng tới chư vị anh hùng liệt sĩ, lính trận vong, đồng bào tử nạn. Xin cho quý vị được siêu sinh nơi Cực lạc.
Chắp tay nguyện cầu, xin cho lòng người an lạc từ bi.
Cầu chiến tranh đừng bao giờ tái diễn trên mảnh đất Việt Nam yêu dấu. Xin cho thế hệ cháu con luôn có nụ cười trên môi”.
Một gia đình huyết thống và một gia đình Tâm linh
Đó là thông điệp mà Mai Thục muốn gửi đến những ai hữu duyên đọc bài viết này:
“Những người có một gia đình huyết thống và một gia đình Tâm linh thì khi chết không cảm thấy bơ vơ, tại vì họ biết rằng họ thuộc về một nền văn hóa, một nhà thờ, một ngôi chùa, một xã hội, một gia đình.
Còn những người khi sống có cảm tưởng là mình mất gốc, không thuộc về một gia đình Tâm linh hoặc huyết thống nào, văn hóa nào. Họ sống và chết trong cô đơn.
Không phải chết rồi người ta mới trở thành cô hồn. Khi còn sống chúng ta cũng có thể là những cô hồn. Biết bao người trẻ không thấy mình thuộc về một nguồn gốc Tâm linh nào, một gia đình huyết thống nào, một nền văn hóa nào. Họ đi lang thang vật vờ giữa cuộc đời, cảm thấy cô đơn lạnh lẽo. Những người như vậy cô đơn trong khi sống và khi chết cố nhiên trở thành linh hồn bơ vơ.”
(Sđd trang 140)

Hồ Gươm Mùa Hoa Sen 2013.
___________________________________

(*) Bài tham luận của Mai Thục tại Hội thảo Khoa học về ngôi mộ cổ Lý Kiều Oanh Công Chúa mới phát tích tại Đồng Hới- Quảng Bình.
-------------------------------------------------
TRÍCH TỪ: http://newvietart.com/index3.4984.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét