THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THI VÂN YÊN TỬ

SỚM CHIỀU DU NGOẠN CÙNG MÂY NÚI
HOA TRÁI QUA NGÀY TA VỚI TA

Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2014

Điệp Viên Hoàn Hảo X6

Người thành cổ Quảng trị

Larry Berman
Điệp Viên Hoàn Hảo X6
Chương mở đầu
“TÔI ĐÃ CÓ THỂ THANH THẢN NHẮM MẮT”
    
ôi gặp Phạm Xuân Ẩn lần đầu tiên vào tháng 7 năm 2001 tại nhà hàng hải sản Song Ngư, nằm trên con phố Sương Nguyệt Anh nhộn nhịp của Sài Gòn. Tôi được người bạn là Giáo sư James Reckner, Giám đốc Trung tâm Việt Nam tại Đại học Công nghệ Texas, mời tới dự bữa tối. Khoảng chừng hai mươi thực khách ngồi quanh một chiếc bàn dài và khá hẹp, vì thế tôi chỉ có thể nói chuyện với người bên phải hoặc người bên trái hoặc vị khách đối diện. Tôi không nói được tiếng Việt, còn hai vị học giả ngồi hai bên tôi cũng chẳng biết tiếng Anh. Chiếc ghế trống duy nhất của bàn tiệc nằm ở phía đối diện tôi.Khi bắt đầu cảm thấy bữa tối hôm nay sẽ dài lê thê thì tôi nhận thấy mọi người quanh bàn đều đứng dậy để chào một quý ông gầy gò đang bước vào. Tôi đoán chừng ông ta gần bảy mươi tuổi, trông toát lên vẻ khiêm tốn. Tôi chợt nghe tiếng Jim nói: “Xin chào Tướng Ẩn, rất vui khi ông đến dự với chúng tôi”. Một thoáng sau chúng tôi đã ngồi đối diện nhau. Nghe vị tướng đáp lời Jim bằng tiếng Anh, tôi vội giới thiệu mình là giáo sư Đại học California ở Davis. Đôi mắt Phạm Xuân Ẩn ánh lên. “Ồ, ông đến từ California! Tôi từng sống ở đấy và học tại Costa Mesa. Đấy là quãng thời gian tuyệt nhất của đời tôi”.Trong suốt hai giờ sau đó, ông Ẩn và tôi đã trao đổi rất nhiều chuyện, bắt đầu là khoảng thời gian hai năm của ông ở Trường Orange Coast, học chuyên ngành báo chí; rồi thời gian ông đi xuyên qua lòng nước Mỹ; và tất cả những gì ông đã học được từ người Mỹ cũng như lòng ngưỡng mộ của ông đối với người Mỹ. Ẩn kể với tôi rằng ông từng tới Davis trong thời gian tập sự tại báo Sacramento Bee. Ông kể về lòng tốt của chủ bút Eleanor McClatchy, và còn đề cập tới lần được gặp Thống đốc bang California, ngài Edmund G. “Pat” Brown, khi dự buổi họp báo dành cho biên tập viên các báo của trường đại học ở Sacramento.Trông Ẩn ngời lên vẻ tự hào khi kể rằng người con trai lớn của ông, Phạm Xuân Hoàng Ân, gọi theo tiếng Anh là Ân Phạm, cũng từng học báo chí tại Đại học North Carolina ở Chapel Hill và mới đây đả tốt nghiệp Trường Luật Đại học Duke.Ẩn hỏi về công việc nghiên cứu hiện tại của tôi trong khi chỉ ăn chiếu lệ và hút thuốc lá liên tục suốt bữa tối. Lúc bấy giờ, tôi đang viết một cuốn sách về Hòa đàm Paris giữa Henry Kissinger và đối thủ Cộng sản Bắc Việt của ông ta, Lê Đức Thọ, dưới thời Tổng thống Nixon. Ông Ẩn liền đưa ra những phân tích chi tiết và sâu sắc về quá trình đàm phán, qua đó cung cấp cho tôi những thông tin và cách nhìn mới mẻ. Giữa lúc ông nói, tôi chợt nhớ mình từng đọc đâu đó câu chuyện về một ký giả khả kính của tờ Time hóa ra lại làm điệp viên cho Bắc Việt và ngờ ngợ rằng người đang ngồi đối diện mình trong bữa tối chính là nhân vật kia(1).Buổi tối hôm ấy, Ẩn không nói một lời nào về công việc tình báo của mình mà chỉ nói rất chi tiết về vai trò là một phóng viên cho hãng Reuters và tạp chí Time, ông hào hứng nói về nghề nghiệp của mình và lòng mến phục dành cho rất nhiều người bạn trong làng báo Mỹ, đề cập đến rất nhiều ký giả tên tuổi thời bấy giờ, trong đó có Robert Shaplen, Stanley Karnow, Frances Fitz Gerald, Robert Sam Anson, Frank McCulloch, David Halberstam, Henry Kamm và Neil Sheehan. Ông bảo rằng bạn bè của ông không chỉ có trong làng báo, mà bao gồm cả những người của CIA như Lou Conein, Đại tá Edward Lansdale và cựu giám đốc CIA William Colby, người từng giữ chức Chỉ huy trưởng chi nhánh CIA ở Sài Gòn. Ống còn đề cập tới nhiều chính trị gia và tướng lĩnh của chính quyền Nam Việt Nam, như Tướng Trần Văn Đôn, Đại sứ Bùi Diễm, Tướng Dương Văn Minh, thường được gọi là “Minh Cồ”, là vị tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, và cựu Thủ tướng đồng thời là Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, người thường xuyên nhờ ông Ẩn tư vấn về gà chọi và huấn luyện chó.Người bạn trong bữa tối của tôi dường như biết bất kỳ ai ở bất cứ cương vị nào trong suốt cuộc chiến. Khi chia tay vào tối hôm đó, ông Ẩn đưa tôi tấm danh thiếp, ở một góc có hình chú chó bẹc giê Đức và góc kia có hình con gà chọi, rồi bảo tôi gọi điện lại vào ngày hôm sau để tiếp tục nói chuyện về Hòa đàm Paris. Sau bữa tối, tôi được một người bạn là Lê Khanh, đang làm việc cho Trung tâm Việt Nam tại Đại học Công nghệ Texas và đã cùng gia đình trốn chạy khi Cộng sản chiếm Sài Gòn vào tháng 4 năm 1975, chỉ vài ngày sau khi vợ con ông Ẩn rời Sài Gòn để di tản tới Mỹ, cho biết rằng tôi vừa trải qua ba tiếng đồng hồ nói chuyện với Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn của Quân đội Nhân dân Việt Nam, chủ nhân của bốn Huân chương Quân công và sáu Huân chương Chiến sĩ vẻ vang cùng với danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.Tôi tò mò muốn biết liệu Lê Khanh có còn cảm giác thù hận đối với con người không chỉ là kẻ thù của ông ta, mà bằng cách sống một cuộc đời giá dối đã dường như phản bội lại rất nhiều người Việt ở miền Nam. Khanh bảo rằng ông không biết ông Ẩn hồi chiến tranh, ông Khanh cũng từng không biết điều gì sẽ đến khi một vài năm về trước, có người bạn của hai người mời đi uống cà phê với ông Ẩn. Thế rồi Khanh đã nhận ra rằng ông Ẩn là con người khiêm nhường và thâm trầm, một người không bao giờ bộc lộ cái mà ông ta gọi là “sự kiêu ngạo của kẻ thắng trận”. Khanh đã sử dụng những từ “thân thiện và cởi mở” và muốn tôi biết rằng ông Ẩn sống “một cuộc đời giản dị”.Cả hai người đàn ông này đều chịu đựng mất mát trong cuộc chiến. Khanh mất nước vào ngày 30 tháng 4 năm 1975; Ẩn mất người em trai của mình, Phạm Xuân Hòa, trong vụ rơi trực thăng vào năm 1964. Hòa là kỹ sư máy trong không lực miền Nam. Ẩn cũng đã đánh mất giấc mơ về một đất nước Việt Nam thống nhất theo cái cách mà ông mong muốn. Trớ trêu thay, chính Khanh lại là người có thể tự do đi lại khá thường xuyên giữa nhà mình ở Lubbock, Texas, và Thành phố Hồ Chí Minh trong các cuộc viếng thăm bà con họ hàng. Tướng Phạm Xuân Ẩn, Anh hùng của cuộc Cách mạng, lại chưa bao giờ được phép rời khỏi Việt Nam để thăm rất nhiều bạn bè và người thân tại Mỹ. Cả hai người đều hiểu rõ những mất mát của nhau; và tình bạn giữa họ là minh chứng cho sự hòa giải giữa những người Việt ở hai bờ chiến tuyến.Khi tôi gọi Ẩn vào buổi sáng hôm sau, ông lập tức đề nghị gặp nhau tại Givral. Thời chiến, tiệm cà phê Givral, nằm đối diện với khách sạn Continental và cách không xa tòa nhà Quốc hội, là nơi tụ họp của giới ký giả, thông tín viên, cảnh sát, và quan chức chính phủ - đây là nơi tin đồn phát khởi, được kiểm nghiệm để rồi lan truyền, và là nơi mọi người đến để săn tìm câu chuyện nóng nhất trong ngày. Cỗ máy tin đồn này được gọi là “Đài phát thanh Catinat” theo tên Phố Catinat, nhưng từ sau năm 1954 đã được đổi tên thành đường Tự Do. Sau chiến tranh, đường phố lại được đổi tên thành Đồng Khởi. Xuyên suốt những thay đổi về tên gọi này, Phạm Xuân Ẩn vẫn luôn được mệnh danh là Vị tướng Givral, bởi vì chính nơi đây ông đã có mặt hằng ngày, phân phát thông tin, và hầu như thường xuyên đi cùng King, chú chó bẹc giê Đức to và trung thành của ông, cùng với chiếc xe hơi Renault 4CV màu xanh lá cây đỗ trước cửa tiệm.Trong hai năm tiếp theo, cho đến ngày ông Ẩn lâm bệnh, tôi và ông thường gặp nhau tại Givral. Một thông lệ hình thành trong các cuộc gặp. Tôi thường đến trước, chọn một chiếc bàn ngay cửa sổ rồi ngồi xem lại các ghi chú và câu hỏi của mình. Ông Ẩn tới bằng chiếc xe gắn máy cũ màu xanh lá cây và đi thẳng đến bàn, trong khi các nhân viên Givral chào đón ông rất nồng ấm. Những giờ tiếp theo, tôi đặt câu hỏi và ghi chép trong khi ông Ẩn giải thích các sắc thái chính trị và lịch sử Việt Nam. Thỉnh thoảng ông đặt thuốc lá xuống, đón lấy sổ tay của tôi và ghi một cái tên hoặc cụm từ giúp tôi nắm được ý của ông rõ hơn. Khi tôi hỏi ông đã mệt chưa, Ẩn thường đề nghị gọi món ăn trưa và tiếp tục trao đổi. Chỉ sau một thời gian ngắn, tôi đã nhận ra rằng David Greenway, một người bạn và cựu đồng nghiệp của ông Ẩn, có lý khi đánh giá “ông Ẩn đã làm cho tôi thấy rằng dù gặp Việt Nam nhiều nhưng tôi hiểu biết về đất nước này rất ít”.(2)Vào năm 2003, sau năm thập kỷ hút thuốc, ông Ẩn mắc bệnh phổi nghiêm trọng. Ông Ẩn cực kỳ mê tín và ông đã hút thuốc Lucky Strikes từ năm 1955, khi những cố vấn Mỹ dạy ông cách rít thuốc và nói rằng cái thương hiệu thuốc lá này sẽ mang đến vận may. “Tôi đã hút thuốc suốt năm mươi hai năm. Giờ đã đến lúc tôi phải trả giá. Nhưng vẫn còn lời chán - tôi chỉ mới bị bệnh phổi trong ba năm rưỡi sau chừng ấy thời gian hút thuốc và chưa bao giờ phải ngồi tù”, ông Ẩn thường giải thích như vậy. Như nhiều người Việt Nam, chuyện tướng số và chiêm tinh đóng vai trò lớn trong cuộc đời của ông Ẩn. Sinh ngày 12 tháng 9 năm 1927, thuộc cung xử nữ, cung thứ sáu trong Hoàng đạo và là cung nữ duy nhất, Ẩn tin rằng trong suốt cuộc đời của mình, ông luôn được bảo vệ bởi nữ thần và vì thế ông cảm thấy mình có bổn phận phải bảo vệ phụ nữ.Tôi tới Sài Gòn vào ngày ông Ẩn nhập viện. Tin tức trên báo chí địa phương gợi ý rằng ông chỉ còn sống không bao lâu nữa(3). Tôi gọi Phạm Xuân Hoàng Ân và được biết tiên lượng rất xấu. Trước khi rời Sài Gòn, tôi viết cho ông Ẩn một mẩu thư tay, khẳng định rằng tôi vô cùng mong muốn được gặp lại ông tại tiệm Givral. Tôi đùa rằng thời còn làm điệp viên, ông đã thường xuyên đánh lừa thần chết, cho nên giờ cũng chưa phải là lúc đi gặp Diêm Vương như ông từng bảo đâu. Tôi không chắc liệu ông Ẩn có thể đọc được lá thư này hay không.Vài tháng sau, tôi nhận được tin ông Ẩn đã xuất viện và đang hồi phục. Ông cảm ơn về lá thư của tôi, bảo rằng ông đang chờ cuộc gặp lần tới, và dặn tôi mang giùm ba cuốn sách mà ông thích đọc. Tôi nhanh chóng trở lại Sài Gòn, nhưng do vẫn còn yếu, ông Ẩn đề nghị chúng tôi gặp nhau tại nhà riêng của ông tại số 214 Lý Chính Thắng, nơi trước đây là dinh cơ của một nhà ngoại giao Anh. Giữa những dãy sách báo quý giá, xung quanh là hàng chục chú chim không ngừng líu lo, hai hay ba con gà trống gáy liên hồi và những chú gà chọi vẫn thường xuyên được huấn luyện, một con chim ó, cá cảnh, hai chú chó nhỏ thay thế cho con chó bẹc giê Đức to lớn, chúng tôi ngồi uống loại trà Trung Quốc đặc biệt của ông Ẩn và trò chuyện hàng giờ liền.Cuốn sách về Hòa đàm Paris của tôi đã xuất bản. Giờ đây tỏi muốn sử dụng câu chuyện của Ẩn như cánh cửa sổ mở vào không gian phức tạp của cuộc chiến. Tôi hỏi Ẩn sao ông chưa bao giờ viết hồi ký. Nhiều năm trước đó, Stanley Karnow đã khuyến khích Ẩn làm vậy, nhưng ông bảo rằng do ông nắm giữ quá nhiều bí mật mà nếu được viết ra có thể làm hại những người còn sống và thân nhân những người đã chết, hoặc ông tin là như vậy. Ông không bao giờ viết về sự nghiệp tình báo của mình, mà luôn khăng khăng nhận rằng mình chỉ là một mắt xích nhỏ trong mạng lưới tình báo khổng lồ của Cộng sản. Có vẻ ông Ẩn coi mình giống như một nhà phân tích CIA ngồi trong văn phòng ở Langley, đọc tài liệu và viết báo cáo. Khi tôi hỏi liệu tôi có thể viết về cuộc đời của ông hay không, Ẩn đã bảo không. Tuy nhiên, các cuộc trò chuyện của chúng tôi vẫn tiếp tục, và tôi càng đặt nhiều câu hỏi về những việc làm của ông trong ngành tình báo, thì ông càng nói với tôi nhiều thứ hơn. Tôi luôn ghi chú cẩn thận và sau đó bắt đầu ghi ấm các cuộc nói chuyện. Ông Ẩn vẫn tiếp tục kể.Sau đó tôi đã rất may mắn. Nhân dịp kỷ niệm ba mươi năm chiến thắng của Việt Nam trong “kháng chiến chống Mỹ”, Phạm Xuân Ẩn nổi lên như là một anh hùng tại Việt Nam. Hai cuốn sách chính thức về cuộc đời ông được xuất bản. Cuốn Phạm Xuân Ẩn: Tên người như cuộc đời được trao giải nhất thể loại phi hư cấu tại Việt Nam trong năm ấy.(4)Nhan đề cuốn sách là một kiểu chơi chữ, bởi trong tiếng Việt, Ẩn có nghĩa là “ẩn náu”, “che giấu” hay “bí mật”, vì thế tên của ông vận đúng vào cuộc đời của ỏng!Ông Ẩn đưa cho tôi cuốn sách kèm lời đề tặng hài hước “Cuốn sách nhỏ này cho ông biết về một người cách mạng đầy may mắn của Việt Nam bởi vận may luôn quan trọng hơn kỹ năng”. Cuốn sách kể về chiến công tình báo của Ẩn và cung cấp cái nhìn sâu vào tính cách của ông. Rồi tôi trở thành bạn của tác giả cuốn sách, nhà báo Nguyễn Thị Ngọc Hải, người đã tạo điều kiện bằng cách sắp xếp để tôi phỏng vấn các thành viên trong mạng lưới tình báo của ông Ẩn. Tuy nhiên, cuốn sách của bà Hải vẫn dựng lên chân dung của một Phạm Xuân Ẩn không làm điều gì sai trái. Giống như George Washington, ông không bao giờ nói dối; và tương tự Abraham Lincoln, ông từ chốn bình dân vươn lên thành vĩ nhân. Một cuốn sách khác do hai nhà báo viết, có nhan đề Phạm Xuân Ẩn: Tướng tình báo chiến lược (5) được dịch ra tiếng Anh và Tây Ban Nha, được nhiều du khách săn tìm tại các quầy sách ở Hà Nội và Sài Gòn. Tôi bắt đầu sử dụng một số chi tiết mới từ hai cuốn sách này để làm cơ sở cho các câu hỏi dành cho ông Ẩn.Thế rồi ông Ẩn lại nhập viện, lần này ông phải thở máy suốt năm ngày. Theo truyền thống người Việt Nam, vợ ông, bà Thu Nhàn, đã đem nhiều tài liệu, ghi chép, hình ảnh của ông Ẩn và vài thứ khác cho vào một chiếc rương để một khi qua đời, Ẩn sẽ được an táng cùng những bí mật của ông. Lúc ông còn nằm viện, phiên bản tiếng Anh cuốn Phạm Xuân Ẩn: Tướng tình báo chiến lược đã được đăng nhiều kỳ trên một tờ báo Việt Nam và được tải lên mạng internet. Kỳ cuối cùng của loạt bài, có nhan đề “Sự vĩ đại”, đã đưa ra đánh giá chính thức của Đảng về vị thế anh hùng của ông Ẩn: “Nếu có thể rút ra bài học về cuộc đòi của Phạm Xuân Ẩn thì bài học đó chính là lòng yêu nước. Lòng yêu nước của người Việt Nam chưa bao giờ là một bí mật, nhưng tất cả những kẻ xâm lược xưa nay đều không tính đến, không đặt thành yếu tố để so sánh lực lượng. Họ không bao giờ rút ra được bài học, cho nên tất cả bọn họ đều thua. Nếu rút ra được bài học thì họ không còn là kẻ đi xâm lược nữa. Phạm Xuân Ẩn là một nhà tình báo vĩ đại”.Một lần nữa ông Ẩn lại tránh được cuộc gặp với Diêm Vương. Trở về nhà khi phổi chỉ còn lại 35% công suất, ông trông rất ốm yếu. Tuy nhiên, đầu óc, trí nhớ và khiếu hài hước của Ẩn vẫn sắc lẹm như thường, ông đùa với tôi về mái đầu mới húi kiểu lục quân, nói rằng cần phải cắt như vậy bởi ông không thể đưa tay lên cao để chải đầu được, ông cũng thường phàn nàn về việc bà Thu Nhàn đã làm rối tung tài liệu lên mà bây giờ ông đã quá yếu để sắp xếp lại.Tôi hỏi ông cảm thấy thế nào về sự nổi tiếng mới đây của ông. “Giờ thì họ đã biết rằng tôi chưa hề làm gì sai trái và tôi cũng chẳng sống được bao lâu nữa. Tôi đã không phản bội họ. Trong thời gian một năm, họ đã cố gắng thay đổi cách nói chuyện của tôi và, trong thời gian dài hơn thế, cách nghĩ của tôi. Họ có thể làm được gì? Họ không thể đưa tôi ra pháp trường. Họ bảo rằng họ không thích cách nói chuyện của tôi và rằng tôi rất khác biệt. Thậm chí tới ngày hôm nay, họ vẫn chưa biết tôi nắm được bao nhiêu thông tin và tôi biết tới đâu. Tuy nhiên, tôi đã chứng tỏ lòng trung thành đối với họ, nên bây giờ người ta đã có thể hiểu về tôi. Tôi đã dám rời Mỹ để hồi hương, và đây là bài học cho lớp trẻ. Tôi được coi là tấm gương cho nhiều người trẻ về tình yêu nước”.Bình ôxy luôn ở kế bên, và sau hai giờ trò chuyện, Ẩn bảo ông muốn nằm để thở ôxy. Ông mời tôi xem thư phòng của ông. Tôi bắt gặp bản gốc năm 1943 của cuốn Sổ tay Địa lý Đông Dương, do Cơ quan tình báo Hải quân Anh thực hiện, mà ông Ẩn đã sử dụng để giúp đỡ nhiều gia đình (những kẻ thù huynh đệ của ông) chạy trốn vào tháng 4 năm 1975 bằng cách chỉ cho họ các luồng nước êm và các tuyến hải hành.(6) Có một bản tạp chí New York Times số ra ngày 1 tháng 12 năm 1963, sau thời điểm Tổng thống John F. Kennedy bị ám sát, tập trung vào chuyên đề những thách thức đặt ra cho tân Tổng thống Mỹ, ông Lyndon Baines Johnson. Một tấm hình ở góc phải bên dưới chụp cảnh ba người mặc quân phục và một nhà báo Việt Nam tháp tùng vừa hút thuốc vừa ghi chép. Dòng chú thích ghi, “Một trong những hành động đầu tiên của Tổng thống Johnson là tái cam kết chính sách của Mỹ về giúp đỡ cuộc chiến của Nam Việt Nam chống lại du kích Cộng sản. Trong ảnh, một cố vấn quân sự Mỹ và một sĩ quan Nam Việt Nam đang xem xét khẩu súng của (du kích) Việt Cộng vừa thu giữ được”. Phóng viên chiến trường trẻ tuổi David Halberstam đã gửi cho ông Ẩn bài báo này, với dòng ghi chú bên dưới, “Liệu Phạm Xuân Ẩn có phải là mối rắc rối lớn?”Tôi lần đọc những dòng đề tặng trong các cuốn sách của ông Ẩn.“Gửi Phạm Xuân Ẩn - Người bạn của tôi, người đã cống hiến một cách đầy phẩm hạnh và xuất sắc cho nghề báo và cho sự nghiệp của đất nước ông - lời chào trân trọng nhất”, Neil Sheehan viết.“Dành tặng bạn Ẩn vô cùng thân mến, người đã hiểu rõ rằng các chính phủ đến rồi đi còn tình bạn thì trường tồn. Bạn là một người thầy lớn, một người bạn vĩ đại luôn ở trong trái tim tôi. Với tình yêu và tất cả niềm vui đã lại tìm thấy bạn sau tất cả những năm tháng này”, Laura Palmer.“Tặng Phạm Xuân Ẩn - Một người bạn thực sự của những ngày đầy bất trắc thời chiến tranh mà chúng ta cùng trải qua. Xin gửi lời chào thân thiết nhất”, Gerald Hickey.“Gửi Phạm Xuân Ẩn, một nhà yêu nước quả cảm và một người bạn, người thầy vĩ đại, lòng tri ân chân thành”, Nayan Chanda viết.“Với Phạm Xuân Ẩn, hiện tại sau rốt đã bắt kịp quá khứ! Rất nhiều ký ức để sẻ chia và gìn giữ - nhưng trên tất cả là một tình bạn lâu bền”, Robert Shaplen.“Gửi tới Phạm Xuân Ẩn, người anh em thân thiết của tôi, người trong rất nhiều năm đã giúp tôi hiểu về Việt Nam, lòi chào ấm áp”, Stanley Karnow.Những lời đề tặng trên hai cuốn niên giám trường học năm 1958 và 1959 tại Trường Orange Coast của Ẩn cũng thú vị không kém.“Ẩn - tôi rất vui được quen bạn. Tôi biết rằng bạn sẽ trở nên rất quan trọng khi trở về nước - bạn rất am hiểu nghề báo và triết học. Bạn sẽ luôn ở trong tâm trí của tôi”, Lee Meyer.“Tạm biệt Ẩn - thật tuyệt khi được làm quen và cùng học chung với bạn trong năm qua. Chúc bạn đạt được sớ nguyện trong thế giới này - có lẽ chúng ta sẽ còn ngày tái ngộ - khi đã trở thành những phóng viên nổi tiếng”, Rosann Rhodes.Và tôi quyết định thử thêm một lần cuối cùng nữa. Tôi khẩn khoản thuyết phục rằng ông cần để cho một nhà sử học như tôi viết câu chuyện về cuộc đời ông, chứ không chỉ được viết bởi những nhà báo tại Việt Nam. Tôi đã đi nước cờ quyết định bằng cách nói rằng sẽ là thích hợp nếu để cho một giáo sư sống ở California, tiểu bang mà ông Ẩn từng có những kỷ niệm đẹp đẽ, viết về cuộc đời ông với tư cách là một điệp viên chiến lược trong suốt cuộc chiến, về sự nghiệp báo chí của ông, về những năm tháng ông sống ở Mỹ, về tình bạn của ông - câu chuyện về chiến tranh, hàn gắn và về hòa bình. Vốn biết rõ rằng ông sẽ không bao giờ đồng ý tiết lộ những bí mật tình báo mà ông hằng giấu kín, tôi đã không nhấn mạnh khía cạnh này của câu chuyện.Phạm Xuân Ẩn nhìn thẳng vào mắt tôi rồi nói, “OK”, và ông bảo rằng ông rất tôn trọng những cuốn sách trước đây của tôi cũng như hy vọng rằng, thông qua câu chuyện của ông, lớp trẻ người Mỹ có thể hiểu về cuộc chiến, về lòng ái quốc, và sự ngưỡng mộ của ông đối với nhân dân Mỹ. Ông đồng ý hợp tác với chỉ một điều kiện, đó là bảo lưu quyền được nói: “Điều này không phải để viết vào sách bởi nó có thể làm tổn thương con cháu của người đó, nhưng tôi vẫn kể để ông thấy được toàn bộ bức tranh, vậy xin đừng bao giờ kể câu chuyện đó với ai hoặc nhấc đến tên người ấy”. Cho tới ngày cuối cùng chúng tôi ở cạnh nhau, Ẩn vẫn rất lo lắng rằng một vài điều ông nói có thể gây ra hậu quả tồi tệ không phải đối với ông, mà đối với người khác. Trong mọi trường hợp, tôi luôn tôn trọng yêu cầu của ông.Ông cũng bảo rằng ông không muốn đọc bản thảo trước khi sách xuất bản, và dẫn câu thành ngữ Việt Nam “Văn mình, vợ người” để minh họa. Có nghĩa là người ta hay tự coi văn của mình luôn là hay nhất, còn vợ người khác thì luôn tốt đẹp hơn vợ mình. Người ta luôn mưu cầu những thứ mà họ đang thiếu. Ẩn cho biết nếu đọc bản thảo của tôi, ông sẽ bắt gặp nhiều chỗ không thích, nhưng khi đã quyết định không tự viết hồi ký, thì ông cũng sẽ không thể ngồi rồi phán xét những điều mà người chấp bút tiểu sử cho mình đúc kết.Ngay tức thì, tôi thấy mình cần phải chạy đua với thời gian. Ông Ẩn đã rất yếu và hay nói về cái chết. “Tôi sống thế này là quá dài rồi” là câu cửa miệng của ông, thường đi kèm một nét cười trên gương mặt. Bây giờ, sau khi đã có sự ủy thác chính thức, tôi quyết định tới thăm thường xuyên hơn, bởi biết rằng ông có thể ra đi bất cứ lúc nào. Tôi cho rằng do biết được ngày sau cuối đang tới gần mà Ẩn càng trở nên cởi mở hơn, ông cung cấp cho tôi các tài liệu thời chiến, hàng chục tấm ảnh và thư tín cá nhàn, cho tôi tiếp cận các thành viên trong mạng lưới của ông, rồi bạn bè của ông, và, quan trọng nhất, ông đã cho tôi xem tận đáy chiếc tủ tài liệu của gia đình - một chiếc tủ sắt cũ và rỉ sét lưu giữ hàng chục tài liệu ẩm mốc.Cuối năm 2005, Phạm Xuân Ẩn có hai quyết định nhằm chứng tỏ tư cách của tôi là người viết hồi ký chính thức cho ông. Lúc ấy, Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu sản xuất bộ phim tài liệu mười tập về cuộc đời ông. Viết kịch bản cho bộ phim là nhà báo Nguyễn Thị Ngọc Hải, tác giả cuốn hồi ký đoạt giải. Tôi được phỏng vấn cho chương trình đó, và ông Ẩn đã yêu cầu đoàn làm phim ghi hình kéo dài một giờ buổi làm việc giữa tôi với một người Việt Nam viết hồi ký cho ông, Hoàng Hải Vân, nhà báo đã viết Phạm Xuân Ẩn: Tướng tình báo chiến lược. Để dàn cảnh, nhà làm phim sắp xếp để tôi đi xe hơi từ khách sạn tới nhà ông Ẩn, và việc ghi hình bắt đầu khi ông Ẩn đón tôi ở cổng trước.Tối hôm đó, tôi đi ăn với đoàn làm phim. Hải Vân và tôi trao đổi các câu chuyện về ông Ẩn, dù thế tôi e rằng cả hai đều không để lộ hết các lá bài. Tôi đã có nhiều cuộc trò chuyện với bà Lê Phong Lan, đạo diễn của loạt phim, người rất tò mò về quãng thời gian ông Ẩn sống ở Mỹ. về sau tôi đã hỏi Ẩn tại sao ông lại yêu cầu để tôi xuất hiện trong bộ phim. Ông khẽ đưa mắt nhìn tôi đầy chế giễu với ngụ ý là làm sao mà tôi không hiểu được chứ! Ông biết rằng tôi đã tới các kho lưu trữ để tìm những tài liệu mới về cuộc đời của ông; ông cũng biết chuyện tôi đã phỏng vấn hàng chục cựu đồng nghiệp và bạn bè của ông. Tôi đã tạo dựng được một sự hiểu biết độc lập về ông vượt ra ngoài khuôn khổ những sự cho phép ở đất nước của ông. Đấy là tất cả những điều mà ông muốn ở giai đoạn sau cuối của cuộc đời.Quyết định thứ hai có tính riêng tư hơn, góp phần quan trọng vào cuốn sách của tôi. Ông Ẩn hỏi mượn chiếc máy ghi âm nhỏ của tôi để thu lời từ biệt của ông gửi tới một số người bạn cũ tại Mỹ. Ông đã quá yếu, không thể cầm bút hoặc gõ bàn phím được, nên muốn dùng cách này để nói lời cảm ơn và từ biệt, ông cũng nhờ tôi chép lại ba thông điệp dài này (mà về sau đã trở thành những sử liệu bằng lời có thể kiểm chứng được) và bảo rằng tôi có thể sử dụng bất cứ điều gì ông nói để làm nền tảng cho cuốn sách, ngoại trừ điều mà ông đã dặn trong một buổi làm việc, đó là có những đoạn chỉ để tham khảo. Nhưng nếu người trong cuộc cho phép, thì tôi có thể sử dụng những tư liệu đó. Ông Ẩn cũng nhờ tôi chuyển trả các thư tín cá nhân do gia đình người Mỹ đầu tiên gửi cho ông thuở thập niên 1950, trong đó cho thấy sự hào phóng và thiện chí của người dân Mỹ. Ẩn và gia đình Brandes đã cho phép tôi sử dụng các lá thư này vào trong cuốn sách.TƯƠNG TỰ NHIỀU NGƯỜI TRẺ TUỔI tham gia phong trào cách mạng Việt Minh đánh đuổi thực dân Pháp, Phạm Xuân Ẩn có tầm nhìn hướng tới độc lập dân tộc và công bằng xã hội. Ông chiến đấu vì tự do và chống lại đói nghèo; ông làm gián điệp không phải để kiếm tiền hay danh vọng cho cá nhân, mà tất cả đều vì người dân xứ sở của mình. Ông không hề muốn trở thành điệp viên. Đó là bổn phận quốc gia của ông, và mặc dù ông nhận lãnh sứ mệnh này một cách nghiêm túc, thì công việc này ít mang lại cho ông niềm vui thú. Những giấc mơ cách mạng của ông rốt cuộc có vẻ ngây thơ và đầy lý tưởng, nhưng tôi tin rằng động lực cho cuộc sống của ông chính là những mục tiêu cao cả nhất của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.Đảng Cộng sản chiêu mộ Ẩn và biến ông thành điệp viên mang bí số X6, một mắt xích đơn tuyến trong lưới tình báo H.63 tại Củ Chi, được biết tới là “Tổ điệp báo anh hùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam”. Đảng hướng Ẩn vào nghề báo để tạo vỏ bọc, quyên tiền để ông đi Mỹ, và khéo léo tạo ra một lý lịch giả để bảo vệ vỏ bọc của ông. Hồ sơ đảng ghi tên ông là Trần Văn Trung để bảo vệ bí mật. Ẩn bảo với tôi rằng đây là định mệnh của ông và con người ta không thể chống lại định mệnh ấy. Thời trẻ, ông đã đọc Voltaire. “Chớ để tâm tới đớn đau và khoái lạc”, ông nói. “Lúc bấy giờ tôi mới mười bảy, mười tám tuổi. Tôi làm theo tất cả những gì mà họ hướng dẫn”.Phạm Xuân Ẩn trở thành điệp viên trong bối cảnh các lãnh đạo Đảng Cộng sản nhận thấy rằng người Mỹ đang trong quá trình thay thế thực dân Pháp ở Việt Nam. Một lần nữa người Việt Nam không được phép tự định đoạt tương lai của mình. Không để Việt Nam rơi vào tay “Cộng sản” được coi là vấn đề then chốt đối với lợi ích an ninh nước Mỹ. Đấy là chiến tranh lạnh, sự cấm vận, học thuyết domino, chứ chẳng liên quan gì tới lợi ích người Việt Nam cả. Điều đó sẽ dẫn đến chết chóc và hủy diệt.Sứ mệnh của ông Ẩn trong vai trò một điệp viên là cung cấp các báo cáo tình báo chiến lược về kế hoạch chiến tranh của Mỹ và sau đó gửi vào “rừng” cho ban chỉ huy. Là một nhà phân tích tình báo, ông lấy hình mẫu cho mình là điệp viên CIA Sherman Kent, tác giả cuốn Tình báo chiến lược phục vụ chính sách toàn cầu của Mỹ, tài liệu được coi là kinh điển của tình báo chiến lược.(7) Ông Ẩn nghiên cứu về Kent và học được những bài học tình báo đầu tiên từ đại tá huyền thoại Edward Lansdale cùng các cộng sự bí mật của ông này, những người đến Việt Nam vào năm 1954. Trên cơ sở những đầu mối sơ khởi ấy, ông Ẩn đã lập nên một danh sách nguồn tin có thể nói là tốt nhất và phong phú nhất tại Sài Gòn, và nhờ đó đã cung cấp cho Hà Nội thứ mà họ cần nhất - những đánh giá toàn diện về chiến thuật và các kế hoạch chiến sự của Mỹ. Vào giai đoạn người Mỹ mới xây dựng lực lượng ở Việt Nam, ông Ẩn được coi là điệp viên giá trị nhất trong tất cả những người được cài vào miền Nam bởi ông đã tạo được một vỏ bọc gần như không thể xuyên thủng. Các báo cáo của ông chính xác đến mức Tướng Giáp đã nói đùa, “Giờ thì chúng ta đã có mặt trong phòng tác chiến của Mỹ”.(8)Phạm Xuân Ẩn là người đã giúp cho các nhà báo Mỹ tại Việt Nam hiểu được sự phức tạp của chính trị Việt Nam, và ông cũng được các chính trị gia, tư lệnh quân đội và quan chức tình báo người Việt - ở hai phía chiến tuyến - đánh giá cao bởi ông có thể phân tích về Mỹ cho người Việt Nam. Trong giai đoạn 1965 - 1975, tên của ông luôn được Bộ chỉ huy Viện trợ quân sự của Mỹ tại Việt Nam (MACV) cho vào danh sách phóng viên đưa tin trực tiếp, ông không bao giờ phải ăn cắp tài liệu tối mật bởi ông luôn được các nguồn tin của mình cung cấp tài liệu mật để phân tích cho họ bối cảnh toàn diện của các vấn đề chính trị và quân sự.Có lẽ nguồn tin mang tính tổ chức tốt nhất đối với ông trong những tháng năm làm tình báo là đến từ Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo (CIO) của chính quyền Nam Việt Nam, hoạt động theo hình mẫu CIA của Mỹ. Ông Ẩn là cố vấn thành lập CIO và luôn duy trì mối quan hệ gần gũi với những người bạn của mình ưong tổ chức này. “Họ coi tôi là đồng nghiệp và là một người bạn, khi cần thứ gì thì tôi đề nghị họ cung cấp”, Ẩn kể. Có vẻ như không tình báo viên chống Cộng người Việt nào có thể nhìn xuyên được vỏ bọc của Ẩn. Ông đã qua mặt tất cả, cả người Mỹ lẫn Việt Nam. “Chúng tôi thường cùng ăn trưa ở Brodard. Tôi chẳng bao giờ nghi ngờ điều gì cả”, Bùi Diễm, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ, nhớ lại.Thật trớ trêu, sau khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam không còn chia cắt nữa, có một vài người trong cơ quan công an Việt Nam lại cho rằng quan hệ giữa Ẩn với người Mỹ và tình báo Nam Việt Nam vẫn còn quá gần gũi. Có lẽ cho rằng người anh hùng của họ đã tồn tại được lâu như vậy là nhờ ông làm việc cho tất cả các bên, tức là ông hoàn toàn có thể là một điệp viên ba mang, ông Ẩn cũng làm cho tình hình thêm rắc rối khi luôn nói tốt về rất nhiều người bạn trong CIA và CIO.Giá trị của Ẩn không chỉ là những thông tin mà ông có được, mà còn là những đánh giá về các thông tin ấy. Trong lĩnh vực tình báo, có một thuật ngữ gọi là xử lý thông tin - đó là quá trình xử lý, đánh giá toàn diện các thông tin nhằm giúp “khách hàng” hay “người dùng” có thể dựa vào đó mà đưa ra các quyết sách.(9) Ẩn là một nhà phân tích sắc sảo và ngay từ đầu đã thể hiện khả năng diễn dịch những kế hoạch quân sự rối rắm thành những báo cáo dễ hiểu để chuyển cho thượng cấp. Trong hoạt động, Ẩn hiểu rằng chỉ cần một tích tắc sai lầm của bản thân cũng dẫn tới hậu quả là ông sẽ bị bắt hoặc bị giết. “Biết nói thế nào về tình trạng sống mà suốt ngày phải luôn chuẩn bị sẵn sàng cho cái chết”, là cách mà Ẩn mô tả về những năm tháng hoạt động điệp báo của mình(10). Điệp vụ của ông Ẩn bắt đầu vào một ngày cụ thể nào đó, nhưng sứ mệnh ấy chỉ kết thúc khi đất nước thống nhất hoặc lúc ông bị bắt. Một điệp viên xuất sắc của CIA và là bạn Ẩn, Lou Conein, phải ngả mũ trước ông vì “đã kiên trì trong chừng ấy năm, luôn duy trì sự tự chủ và không bao giờ mắc sai lầm”. Thái độ của Conein là “sự ngưỡng mộ của một sĩ quan tình báo chuyên nghiệp đối với một người khác có nhiệm vụ tương tự. Bạn không thể không khâm phục một người rất giỏi trong công việc của anh ta.”(11)Điều làm cho cuộc đời của Phạm Xuân Ẩn trở nên khó tin đó là rõ ràng ông thích sống với vỏ bọc của mình; làm phóng viên vì nền báo chí tự do là một giấc mơ đã thành hiện thực trong tầm nhìn về cách mạng của ông. Trong vòng hai mươi năm, Ẩn sống một cuộc sống giả tạo mà ông muốn nó trở thành hiện thực - làm phóng viên trong một đất nước Việt Nam thống nhất. Ông khâm phục và tôn trọng những người Mỹ ông gặp ở Việt Nam cũng như trong thời gian ông ở Mỹ. Ông chỉ đơn giản nghĩ rằng họ không được phép can dự vào đất nước của ông. “Bạn bè là tài sản quý báu trong lòng ông ấy”, Laura Palmer viết.(12)Thoạt tiên, điều khó nhất đối với tôi khi viết về cuộc đời Ẩn chính là việc hiểu được những tình bạn này. Để sống còn, Ẩn buộc phải dối lừa hoặc đơn giản là không tiết lộ sứ mệnh của ông với những người bạn thân nhất, nhưng khi biết được Ẩn là một điệp viên Cộng sản, hầu như chẳng ai thù ghét ông. Một con người như thế nào mà có thể duy trì được những tình bạn bền lâu dựa trên nền tảng giả dối, và khi sự giả dối bị bóc trần, vẫn hiếm có người nào cảm thấy mình bị phản bội? Chỉ có rất ít bạn bè từng có cảm giác rằng mình đã bị ông Ẩn lợi dụng như một nguồn tin để phục vụ cho các báo cáo tình báo chính trị gửi ra Hà Nội.Ẩn tin rằng ông không bao giờ, về mặt cá nhân, có hành động phản bội nào đối với người Mỹ. Cho đến cuối đời, Ẩn vẫn khẳng định rằng những việc làm của ông không hề gây ra tổn thất về cá nhân cũng như nghề nghiệp đối với bất kỳ người bạn Mỹ nào. Ngược lại, phần lớn họ đều được hưởng lợi từ sự giúp đỡ của ông, và đến năm 1970 (nếu không muốn nói là sớm hơn), hầu như tất cả các bạn Mỹ của Ẩn đều bắt đầu nhìn về cuộc chiến giống như cách nhìn của ông Ẩn. Cứ cho rằng Phạm Xuân Ẩn trên thực tế đã không phản bội bạn bè; và cứ cho rằng những người bạn Mỹ này đã thông cảm với những hiểu biết mang tính nền tảng của ông về cuộc chiến, thì hầu hết bạn ông đều không có lý do gì để thất vọng khi nhiều năm sau đó họ biết rằng Ẩn là một điệp viên. Tôi luôn quan tâm tới việc một sứ mệnh tối mật như của ông Ẩn đã tạo ra những xung khắc về mặt đạo đức như thế nào trong con người của điệp viên này. Ẩn luôn sống với nỗi sợ hãi thường trực và mối tự vấn lương tâm. về việc lợi dụng bạn bè vào mục đích tình báo. Ẩn đã giải quyết những thế kẹt này như thế nào là một phần trong bức màn bí ẩn thực sự của cuộc đời ông.Tuy nhiên, khi tìm hiểu cuộc đời của nhà tình báo bậc thầy này, cần phải xem xét dưới góc độ của thực tế là có nhiều người khác - cả Mỹ lẫn Việt - đã phải lãnh chịu hậu quả từ các hoạt động tình báo của Cộng sản. Các thành viên của lưới tình báo H.63 đã “tiêu diệt nhiều lính Mỹ và ngụy, phả hủy nhiều xe tăng, thiết giáp và máy bay chiến đấu của kẻ thù”.(13) Việc đánh giá các tác động của những hoạt động tình báo cụ thể là rất khó khăn, nhưng nếu quả thực Ẩn là điệp viên vĩ đại nhất của Cộng sản trong cuộc chiến tranh đó và nếu các lời khen ngợi về chiến công “anh hùng” của mạng lưới tình báo này là đúng, thì những hành động của ông đã mang đến tổn thất và chết chóc cho nhiều người, chủ yếu là gián tiếp.Chiến tranh kết thúc đã mang đến cho ông Ẩn một nỗi cô đơn tột cùng. Liên lạc với bạn bè ở Mỹ bị cắt đứt và không thể tiếp tục làm báo, thỉnh thoảng ông Ẩn khoác lên mình bộ quân phục cấp tướng và tham dự các cuộc họp chi bộ hằng tháng. “Chi bộ càng ngày càng ít người vì một số bạn bè của tôi qua đời, nhưng hằng tháng tôi vẫn dự họp đều đặn và thú nhận những chuyện đại khái như 'tuần này tôi có tiếp Giáo sư Larry Berman, và chúng tôi đã nói chuyện về cuộc đua vào Nhà Đỏ hoặc những thứ tương tự'“, ông Ẩn cười. Khi tôi hỏi liệu người ta có thực sự quan tâm việc ông kể về các cuộc gặp gỡ của chúng tôi hay không, ông Ẩn đáp, “ông thấy đấy, những điều tôi kể thì họ đã biết rõ rồi vì bên an ninh nắm mọi thứ. Họ có cách của họ. Việc tự kiểm chẳng qua là cách để họ thứ xem tôi có trung thành và thành thật hay không, thế nên tốt nhất là kể lại những gì họ đã biết. Bên cạnh đó, ai cũng biết tôi thẳng tính, và họ hiểu tôi có cảm giác như thế nào về tất cả những chuyện này. Tôi già rồi, chẳng thể thay đổi được nữa còn họ thì không đổi thay do sợ hãi, nhưng sau mỗi năm thì tình hĩnh cũng đỡ hơn. Có thể sau năm mươi năm nữa thì tình hình sẽ ổn”.Suốt đời mình, Ẩn vẫn luôn là người có thiện cảm với Mỹ, và thật may mắn là ông sống đủ lâu để chứng kiến một chương mới trong quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam. Theo lời mời của Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Raymond Burghardt và Tổng lãnh sự Emi Lynn Yamauchi, Phạm Xuân Ẩn cùng nhiều quan chức đã lên thăm tàu USS Vandegrift vào tháng 11 năm 2003 trong lần đầu tiên một chiến hạm hải quân Mỹ cập cảng tại Việt Nam kể từ khi chiến tranh kết thúc năm 1975. Một trong những món quà đáng giá của Ẩn là tấm hình do Lãnh sự quán Mỹ gửi tặng, trong đó chụp cảnh ông cùng Tổng lãnh sự Yamauchi, Hạm trưởng Richard Rogers và Hoàng Ẩn đứng trên chiến hạm Vandegrift. Ẩn kể với tôi hôm ấy ông rất tự hào - rằng ông đã sống đủ lâu để chứng kiến một sự kiện mang tính biểu tượng cho tiến trình hòa giải và hợp tác giữa Mỹ và Việt Nam. “Tôi đã có thể thanh thản nhắm mất. Tôi đã phụng sự cho đất nước, cho nhân dân, cho sự thống nhất”, ông nói. Sau này Hoàng Ẩn kể lại với tôi, “Cháu rất vui khi ba cháu đã có được trải nghiệm ấy. Điều đó cho thấy tiến trình bình thường hóa đang diễn ra tốt đẹp, và điều đó rất có ý nghĩa đối với ba cháu”.Vào ngày hôm đó, Ẩn khoác thường phục, và người duy nhất trong đoàn đại biểu Việt Nam nhận ra ông là một vị đại tá, ông này tiến lại gần và hỏi bằng tiếng Việt, “Xin lỗi, ông là Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn phải không?” ông Ẩn ngước nhìn và đáp, “Đúng rồi”. Viên đại tá nói, “Rất vui được gặp ông”, rồi trong lúc ông Ẩn đang đứng giữa rất nhiều quan chức cấp cao của Mỹ, ông này đã đùa, “Ông là tướng phe nào?”.Không chút do dự, ông Ẩn đáp, “Của cả hai phe!”. Viên đại tá có vẻ khó chịu. “Chỉ là đùa thôi”, Ẩn nói. Kể với tôi chuyện này, ông Ẩn kết luận, “Ồng thấy đấy, đó là lý do khiến họ không bao giờ để tôi xuất ngoại; họ vẫn chưa hiểu con người của tôi”.
CHÚ THÍCH(1) Ví dụ về các bài báo này gồm có Stanley Karnow, “Vietnamese Journalist's Divided Allegiance: After Nine Long Years a Double Agent Explains the Mystery of His Actions”, báo San Francisco Chronicle, 30.5.1990; Morley Safer, “Spying for Hanoi”, New York Times Magazine, 11.3.1990; Robert D. McFaddden, “The Reporter Was a Spy from Hanoi: Life and Legacy of a Paradox”, báo New York Times, 28.4.1997; Douglas Pike, “Mỹ Friend An”, trong sách The Vietnam Experience, War in the Shadows (Newton, MA: Boston Publishing, 1988); Laurence Zuckerman, “The Secret Life of Phạm Xuân Ẩn”, tạp chí Columbia Journalism Review, tháng 5 và 6.1982, trang 7-8.(2) H. D. S. Greenway, “Shadow of a Distant War”, báo Boston Globe, 30.4.2000. Xem thèm H. D. s. Greenway, “A Glimpse of the Boxes Within Boxes of Vietnam”, Báo Boston Globe, 5.1.1990.(3) http://vnexpress.net/Vietnam/Xa-hoi/2003/06/3B9C8E01/Thieu tuong tinh Phạm Xuân Ẩn lam trong benh.(4) Nguyễn Thị Ngọc Hải, Phạm Xuân Ẩn: Tên người như cuộc đời (Hà Nội: NXB Công An Nhân Dân, 2002).(5) Hoàng Hải Vân và Tấn Tú, Phạm Xuân Ẩn: A General of the Secret Service (Hà Nội: NXB Thế Giới, 2003). Ấn phấm bằng tiếng Anh, được dịch từ loạt bài Phạm Xuân Ẩn: Tướng tình báo chiến lược đăng trên Báo Thanh Niên từ ngày 7-10 đến 28-11-2002. Ở phần ghi nguồn, chúng tôi (ND) ghi chú theo tên tiếng Anh.(6) Sau này Ẩn đã kể với tôi: “Tôi có nhiều người bạn mà nếu họ ở lại thì sẽ gặp rắc rối thực sự. Tôi không thể ngăn họ ra đi bởi điều đó chẳng có ý nghĩa gì, nên tôi hướng dẫn cho họ đi theo hải trình an toàn nhất để ra ngoài biển khơi và được các tàu lớn đón. Nhiều người không bao giờ thực hiện được chuyến đi, nhưng chiến tranh đã kết thúc và tôi cũng không có hướng dẫn nào mới”.(7) Sherman Kent, Strategic Intelligence for American World Policy, tái bản (Princeton, NJ: NXB Princeton University Press, 1966).(8) A General of the Secret Service, trang 80.(9) Ernest Volkman, Warriors of the Night: Spies, Soldiers, and American Intelligence (New York: NXB Morrow, 1985), trang 15.(10) Phạm Vũ, “Phạm Xuân Ẩn - Những huyền thoại để lại” báo Tuổi Trẻ, 2-10-2006, trang 3. Nhiều lần ông Ẩn cũng nói với tôi như thế.(11) Bài phỏng vấn chưa được xuất bản do Sheehan thực hiện với Conein, Tài liệu của Sheehan, 22.9.1976, Hộc 62, Tập 9.(12) Laura Palmer, “Mystery Is the Precinct where I Found Peace” trong sách War Tom: Stories of War from the Women Reporters Who Covered Vietnam (New York: NXB Random House, 2002), ưang 269.(13) A General of the Secret Service, trang 131.








Dịch giả: Đỗ Hùng
Chương 1
HÒA BÌNH: ĐIỆP VIÊN VÀ NGƯỜI BẠN
    
ành tặng Phạm Xuân Ẩn - người đã dạy tôi về Việt Nam và ý nghĩa đích thực của tình bằng hữu. với bạn, người dũng cảm nhất mà tôi từng gặp, tôi vẫn còn một món nợ không bao giờ trả được. Hòa Bình.
Robert Sam Anson, lời đề tặng trong cuõn sách của ông
Tin chiến sự: Một phóng viên tré ở Đông Dương
THÁNG 8 NĂM 1970
Chuyến bay chín mươi phút từ Singapore tới Sài Gòn đối với cô Diane Anson dài như vô tận. Ngày hôm trước, Diane nhận được tin chồng cô, phóng viên Robert Sam Anson của tờTime, đã mất tích ở đâu đó tại Campuchia. “Ngày mất tích” chính thức được xác định là 3 tháng 8 năm 1970(1). Ngoài ra thì không có thông tin nào khác. Bob có thể đã chết mất xác như trường hợp phóng viên ảnh tự do Sean Flynn của Time và Dana Stone, làm việc cho hãng CBS, khi cả hai biến mất vào đầu tháng 4 ở ngoại vi Phnom Penh(2).
Campuchia được biết đến như là tử địa của cánh nhà báo. Chỉ trong tháng 9, hai mươi lăm nhà báo mất mạng ở quốc gia kế cận Việt Nam này, trong số đó có nhiều nhà báo, thành viên tổ làm phim người Mỹ và quốc tế đã thiệt mạng tại làng Takeo, cách Phnom Penh chừng một giờ chạy xe. Nhìn con gái bé bỏng và con trai sơ sinh ở ghế bên cạnh, Diane không muốn tưởng tượng tới cảnh tên cha của chúng bị liệt vào danh sách tử vong nói trên.
Diane Anson căm ghét cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Cô đã gặp người chồng tương lai của mình tại một cuộc biểu tình phản chiến trong khuôn viên Đại học Notre Dame. “Việt Nam là nguyên nhân chúng tôi gặp nhau”, Anson viết. “Tôi thấy nàng đứng trong đội ngũ những người biểu tình trong khuôn viên đại học phản đối buổi diễn thuyết thường niên của Cha Hesburgh nhằm kêu gọi ủng hộ Quân đoàn huấn luyện sĩ quan dự bị”(*). Diane là một trong số rất ít nữ sinh có mặt và là thành viên hăng nhất trong số vài chục người tới đó vào hôm ấy. Tôi thấy những nét biểu cảm trên gương mặt làm cho nàng trở nên rất quyến rũ”. (3) Lúc ấy Anson đang giương một biểu ngữ,
CHIẾN TRANH LÀ NGÀNH KINH DOANH BÉO BỞ,
HÃY NÉM CON CÁI QUÝ VỊ VÀO ĐẤY.
______________________
(*) ROTC (viết tắt của Reserve Officers' Training Corps) là chương trình huấn luyện sĩ quan dự bị được triển khai trong các trường đại học nhằm cung cấp lực lượng sĩ quan cho tất cả các quân chúng của quân đội Mỹ. (Các chú thích chân trang trong cuốn sách này đều của người dịch).
Một tuần sau, họ phải lòng nhau rồi tổ chức đám cưới ở Las Vegas.
Kỷ niệm về ngày đầu gặp gỡ như đã trôi vào quá khứ xa lắc khi máy bay đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhứt ở Sài Gòn. Diane tới thẳng văn phòng chính của hãng Time-Life đặt tại khách sạn Continental. Một tay bế cậu con trai mười lăm tháng tuổi, Sam, tay kia dắt cô con gái hai tuổi rưỡi, Christian, cô chạy đến từng bàn để hỏi các phóng viên những tin tức mới, nhưng họ cũng chẳng cung cấp được gì thêm. Đồng nghiệp của Bob tại văn phòng đều cố nói lời an ủi, nhưng tất cả họ cũng cảm thấy bất lực, với linh cảm rằng Bob đã ra đi vĩnh viễn. Trong cô càng lúc càng dấy lên nỗi sợ về điều tồi tệ nhất đã đến với người chồng hai mươi lăm tuổi của mình, là phóng viên trẻ nhất trong đội ngũ của Time.
Diane khóc nức nở khi tới văn phòng người bạn thân của chồng cô, là một phóng viên Việt Nam tên Phạm Xuân Ẩn, lúc bấy giờ cứ nhìn chăm chú hai đứa trẻ. Ý nghĩ của Ẩn lướt nhanh tới một ngày cách đấy vài tuần, khi Bob Anson hẹn gặp tại tiệm Givral để nhờ đọc lại lá thư từ chức mà anh muốn đệ lên Marsh Clark, trưởng văn phòng của Time, người nổi tiếng ở Sài Gòn vè sự nhiệt tình ủng hộ cuộc chiến. Cha của Clark từng là Thượng nghị sĩ Mỹ, trong khi ông nội Champ Clark từng là Chủ tịch Hạ viện. Anson coi Clark “có lẽ là người đậm chất Mỹ nhất mà tôi từng gặp”.(4)
Khi mới nhận lời sang Việt Nam, hình dung của Bob Anson về công việc ở đấy rất khác. Anh được đặt biệt danh là “nhân vật triển vọng của Time Inc”, và cũng giống như hầu hết các phóng viên trẻ vừa đến Việt Nam, đây là cơ hội để anh tạo dựng tên tuổi, tương tự như David Halberstam, Malcolm Browne và Neil Sheehan đã làm vào đầu thập niên 1960, khi quy mô cuộc chiến còn nhỏ. Nhưng chỉ vài tháng sau khi tới đất nước này, Anson nhận thấy rằng các bài viết của mình không có cơ hội xuất hiện trên mặt báo, trong khi hai phóng viên có thâm niên ở Sài Gòn, là Clark và Burt Pines, có vẻ như không khó thuyết phục biên tập viên Henry Grunwald của Time ở New York chấp nhận các bài viết của họ.
CUỘC TỔNG TẤN CÔNG TẾT MẬU THÂN CỦA CỘNG SẢN vào tháng 1 năm 1968 cho thấy dù có đến 525.000 quân, hàng tỉ đôla, và một chiến dịch ném bom rộng khắp mang tên Sấm Rền, thì cường độ chiến tranh cũng như năng lực kiểm soát chiến cuộc không nằm trong tay người Mỹ với sự vượt trội về công nghệ, mà lại nằm trong tay kẻ thù của họ. Hệ quả của nó là nước Mỹ rơi vào thế bế tắc tại Việt Nam và hầu như không tiến thêm được bước nào tới gần hơn mục tiêu chính trị so với khi khởi sự tiến trình Mỹ hóa cuộc chiến vào năm 1965. Tất cả những điều này có tác động mạnh mẽ về mặt tâm lý đối với Tổng thống Lyndon Johnson. Trong một cuộc họp báo với các phóng viên ngoại quốc, Lyndon Johnson đã được hỏi về việc liệu ông có cảm nhận được hòa bình đến gần hoặc nhận được tín hiệu nào từ Hà Nội hay chưa. “Tín hiệu ư?” Tổng thống nổi đóa. “Tôi sẽ cho quý vị biết về tín hiệu. Tôi có hệ thống nhận tín hiệu ở Washington. Tôi có chúng ở London. Tôi có chúng ở Paris. Tôi còn có ở Tokyo. Tôi thậm chí còn có chúng ở Rangoon! Quỹ vị có biết chúng tôi đã nhận được tín hiệu gi từ Hà Nội không?” Cánh nhà báo lặng thinh. “Tôi sẽ nói cho quý vị biết những tín hiệu từ Hà Mội nói gì, đó là: 'Mẹ kiếp mày, thằng Lyndon Johnson“(5)
Sau cuộc tấn công Mậu Thân, Johnson đối mặt với yêu cầu phải tăng thêm 206.000 quân. Trước khi đưa ra cam kết, Johnson đã lập một ban chuyên trách đặt dưới sự chỉ đạo của tân Bộ trưởng Quốc phòng Clark Clifford. “Chọn giải pháp nào ít thiệt hại hơn”, Johnson chỉ đạo Clifford. Khi Johnson triệu tập một cuộc họp với các cố vấn của ông về chính sách đối ngoại để thảo luận về báo cáo, Clifford đi đầu trong việc cố gắng thuyết phục Tổng thống rằng chính sách hiện nay của ông không thể giúp đạt mục đích duy trì hòa bình ở miền Nam Việt Nam. “Chúng ta đang có một cái thùng không đáy. Chúng ta đổ thêm vào - họ đều địch được. Tôi thấy chiến sự diễn ra càng nhiều thì thương vong cho phía Mỹ càng tăng trong khi viễn cảnh kết thúc chiến tranh thì chẳng thấy đâu”. (6)
Phát biểu trước quốc dân vào ngày 31 tháng 3 năm 1968, Johnson đã nói về khả năng đạt được hòa bình thông qua đàm phán và tuyên bố ngưng một phần hoạt động ném bom. Ông đề nghị Hồ Chí Minh cùng tham gia hành động hướng tới đàm phán để đạt được hòa bình. Nước Mỹ đang “sẵn sàng gửi đại diện tới bất cứ diễn đàn nào, vào bất cứ thời gian nào, để thảo luận về giải pháp chấm dứt cuộc chiến phiền toái này”. Rồi trong một cử chỉ hướng tới sự đoàn kết toàn quốc, tổng thống đã phủ nhận khả năng tái tranh cử: “Tôi sẽ không tìm kiếm tư cách ứng viên và sẽ từ chối sự đề cử của đảng trong việc ra tranh cử tổng thống thêm một nhiệm kỳ nữa”.
Vào thời điểm Richard Nixon nhậm chức vào tháng 1 năm 1969, lực lượng Mỹ đã vượt quá 540.000 quân, chủ yếu là lực lượng chiến đấu trên bộ. Hơn 30.000 người Mỹ đã thiệt mạng, và cuộc chiến đã làm tiêu tốn 30 tỉ đôla trong năm tài chính 1969. Riêng năm 1968 có hơn 14.500 lính Mỹ bị giết. Nixon quyết tâm rằng vấn đề Việt Nam sẽ không hủy hoại sự nghiệp tổng thống của ông ta. Tháng 3 năm 1969, ông đã đề ra chương trình hành động. Nước Mỹ sẽ bắt đầu giảm bớt vai trò của mình, tìm kiếm các điều kiện để đạt được giải pháp thông qua thương lượng, với việc cả hai bên cùng rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Kế hoạch “triệt thoái người Mỹ” của Nixon sau đó được biết đến với tên gọi “Việt Nam hóa chiến tranh”, bao gồm việc tăng cường lực lượng vũ trang cho chính quyền Nam Việt Nam để họ có năng lực chiến đấu lớn hơn, song song đó là triệt thoái dần lực lượng chiến đấu của Mỹ. Người Mỹ sẽ chuyển từ nhiệm vụ chiến đấu sang vai trò cố vấn cho quân Nam Việt Nam, đồng thời Mỹ sẽ ồ ạt viện trợ vũ khí và thiết bị quân sự. Có lẽ điều quan trọng nhất đó là Nixon chuyển mục tiêu chính trị đối với sự can thiệp của người Mỹ, từ nỗ lực bảo đảm cho một miền Nam Việt Nam được tự do và độc lập sang kế hoạch tạo cơ hội cho chính miền Nam Việt Nam tự định đoạt tương lai chính trị của mình. Việt Nam hóa chiến tranh và đàm phán là hai trụ cột để đạt được cái mà Nixon gọi là “hòa bình trong danh dự”.(7)
QUAN ĐIỂM CÁ NHÂN CỦA ANSON coi cuộc chiến là “sát nhân và phi đạo đức”. Hầu như khắp nơi đều có chung cảm nhận về diễn tiến tồi tệ của cuộc chiến, ngoại trừ bên trong văn phòng Time ở Sài Gòn và trụ sở chính ở New York, nơi đưa ra quyết định về nội dung các tờ tuần san. Khi Anson đặt vấn đề tự quyết cho người Việt Nam với các biên tập viên, anh bị coi là một người chống chiến tranh ngây thơ, nóng nảy. Khi anh nộp một bài báo với từ Viet Nam được viết rời như cách viết của chính người dân tại miền Nam Việt Nam, Marsh Clark đã nói rằng Time là một tạp chí của Mỹ và Anson cần phải viết từ Vietnam theo cách viết của người Mỹ. Sự bất mãn đã bùng lên trong bữa tiệc tối do văn phòng Time tổ chức để chiêu đãi John Scott, một ủy viên biên tập lưu động. Câu chuyện trong bữa tiệc xoay quanh những tiến triển to lớn của chiến cuộc. Anson cho rằng cuộc nói chuyện chẳng khác nào buổi thông báo tin tức của MACV được biết đến với biệt danh “hài kịch lúc năm giờ”, trong đó người ta lảng tránh thực tế bằng cách đưa ra những số liệu thống kê lấp lánh về tiến triển của cuộc chiến.
Những người điều hành chiến tranh luôn nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm; chỉ cần qua một khúc quanh nữa là chúng ta có thể tiến tới cái gọi là điểm bước ngoặt của cuộc chiến mệt mỏi này.
Anson không chịu đựng nổi nữa. “Nhưng quý vị đang bỏ qua một điểm mấu chốt”, Anson phản biện. “Đó là, trước hết chúng ta đang làm cái quái quỷ gì ở đây? Hãy nhìn xem, người Việt Nam đã ở đây lâu rồi; trở lại năm 1940 - họ chống người Nhật, nhớ chứ? Họ đánh bại người Nhật, rồi họ thắng người Pháp, và họ sẽ tiếp tục đánh bại chúng ta, bất kể chúng ta có ném cái quái gì về phía họ. Dân ở đây rất kiên trì, rất quyết tâm, và lịch sứ đứng về phía họ. Có thể quý vị quên điều này, nhưng tôi xin nhắc lại là chủ nghĩa thực dân gần đây chẳng làm được trò trống gì”.
Khi Burt Pines phản bác rằng, “có lẽ cậu nhầm lẫn. Cậu không thể nói rằng những gì chúng ta đang làm ở đây có bất cứ sự dính đáng nào đến chủ nghĩa thực dân”, Anson ngay lập tức vồ lấy: “Anh nói hoàn toàn đúng. Ý tôi là 'thực dân kiểu mới'. Cuộc chiến tranh đầy tội ác của chủ nghĩa thực dân mới, tạm bỏ qua vấn đề phi đạo đức, điều mà tôi không thể bỏ qua, là tất cả những gì có thể nói về chính sách ngoại giao của Mỹ”. Khi vị khách quý John Scott hỏi, “Theo cậu thì Cộng sản đúng à?”, Anson đã đáp, “Tôi muốn nói răng chúng ta không có quyền ra phán quyết. Chính người Việt Nam sẽ làm điều đó. Tất cả những gì chúng ta làm là đi loanh quanh để giết rất nhiều người, cả người của họ và chúng ta”.
Anson không hối tiếc về điều mình nói, nhưng lúc bấy giờ anh đã chuẩn bị đối mặt với tình huống xấu nhất, bởi anh hiểu rõ rằng Marsh Clark sẽ không bỏ qua chuyện này. Ngày hôm sau bắt đầu khá yên bình khi Clark yêu cầu Anson chuẩn bị bài viết về những ý định của Bác Việt trong vài tháng tới. Câu chuyện của tối hôm trước có vẻ như đã lan truyền nhanh chóng, bằng chứng là chánh văn phòng Time ở Sài Gòn Nguyễn Thụy Đăng đã châm chọc, “Lẽ ra anh không nên chuốc rắc rối vào mình. Anh có vẻ rất mến kẻ thù”(8)
Chẳng bao lâu Clark bí mật gửi một lá thư tới các sếp ở New York, và sau đó một bức thư từ tổng hành dinh được gửi tới “Tất cả phóng viên và biên tập viên toàn cầu” đang làm việc cho Time.
“Tôi không muốn chê bai những ý kiến của Bob Anson về Việt Nam, bởi anh ta mới chỉ đến đấy một thời gian ngắn. Trước khi đi, Bob cảm thấy rằng cuộc chiến ở Việt Nam là phi đạo đức, rằng Việt Nam hóa chiến tranh chỉ đơn giản là phương cách kéo dài một cuộc chiến phi đạo đức, rằng ý niệm chống Cộng ở Nam Việt Nam là chẳng đáng để bàn luận, và rằng Việt Nam, Đông Nam Á, thậm chí cả châu Á là chắc chắn sẽ rơi vào tay các lực lượng 'Giải phóng Dân tộc' đầy quyết tâm. Không có điều gì mà Bob chứng kiến ở đấy khiến anh ta thay đổi cách nhìn cũ của mình”. (9)
Ai có thể trách Bob Anson về ý định thôi việc sau khi anh biết lời đề nghị ra đi của Clark. Đó là lý do tại sao anh đã đến gặp Phạm Xuân Ẩn, một trong những người bạn thân nhất của anh tại Việt Nam. Giống như hầu hết phóng viên tại Sài Gòn, Anson ngưỡng mộ Ẩn vì các mối quan hệ của ông ở bên trong Phủ Tổng thống và Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn. Ẩn dường như biết mọi người và mọi chuyện xảy ra tại Sài Gòn và luôn sẵn sàng giúp các phóng viên người Mỹ hiểu về đất nước của ông. Đôi lúc chỉ sau vài giờ là Ẩn đã thu được những tin nóng về an ninh. “Trong các văn phòng, người ta đồn rằng ông là cựu cảnh sát chìm thời ông Diệm, là người của Sở mật vụ Pháp Sureté, là nhân viên CIA, là điệp viên của tình báo Nam Việt Nam, hoặc cùng lúc làm việc cho tất cả các phe trên”. (10)
Nhưng cũng có những thứ khác khiến Anson dành nhiều thời gian bên ông Ẩn. Ông là người có thể giảng giải hùng hồn về một xứ sơ mà Anson, tương tự như hầu hết phóng viên ngoại quốc, biết rất ít. Việt Nam là một đất nước, chứ không chỉ là một cuộc chiến, với bề dày lịch sử, với những bài học mà ít người chịu bỏ thời gian để học. “Có nhiều người cảm thấy khó trao đổi với Ẩn, chủ yếu do ông hay trả lời các câu hỏi theo một cách thức rất Việt Nam, thường thì ông nhắc những chuyện thời thế kỷ mười lăm rồi dẫn dắt về hiện tại để trả lời”, Anson nhớ lại (11)
Ẩn khâm phục Anson ở chính cái phẩm chất khiến Anson gặp rắc rối với Marsh Clark. Anh có lập trường độc lập một cách quyết liệt mà Ẩn từng gặp ở rất nhiều người Mỹ trong thời gian hai năm sống tại California. Anh rất say sưa với niềm tin của mình và không ngại nói ngược lại số đông. Ẩn khâm phục tinh thần ấy, ông nhớ lại cái ngày mà Anson tranh luận với các đồng nghiệp của Time về lá cờ Mỹ to tướng treo trước cửa văn phòng ở đường Hàn Thuyên. Time là một tổ chức tin tức độc lập, đây không phải là văn phòng của một cơ quan chính quyền, Anson lập luận. Vì thế, nên có hai lá cờ song song, một của Mỹ và một của Việt Nam Cộng hòa. Các đồng nghiệp miễn cưỡng nhượng bộ, nhưng khi Anson thấy rằng lá cờ Mỹ lớn hơn rất nhiều so với lá cờ Việt Nam, anh đã tới gặp chánh văn phòng của Time, ông Đăng, và nói rằng nên kiếm một lá cờ lớn hơn của đất nước ông ta, để hai lá cờ bằng nhau về kích thước. Đăng làm theo, ông Ẩn chăm chú theo dõi toàn bộ câu chuyện, và thầm cảm phục cuộc đấu tranh mang tính biểu tượng của người đồng nghiệp trẻ tuổi. “Điều đó cho tôi thấy cậu ấy hiểu rằng rất nhiều người Mỹ và một số người Việt đã quên mục đích của cuộc chiến tranh”, Ẩn nói với tôi. “Nhiều người Mỹ cho rằng lịch sử đất nước chúng tôi chẳng đáng để quan tâm bởi họ đã có một kế hoạch tốt hơn cho tương lai chúng tôi”.(12)
Ông Ẩn giải thích rằng “đương nhiên” là việc Anson có ý kiến bên trong tòa soạn sẽ tốt hơn bởi vì theo góc nhìn của Ẩn, Anson đã hiểu con người, văn hóa, và lịch sử Việt Nam sâu hơn nhiều phóng viên khác của Time, đặc biệt là Marsh Clark và Burt Pines. Time cần thêm nhiều người như Anson, và “để mất cậu ấy là một điều tồi tệ. Đáng tiếc là Frank McCulloch không còn ở đây, bởi khi mới đến Việt Nam, ông ta cũng nghĩ như Marsh Clark, nhưng rốt cuộc đã có suy nghĩ tương tự Anson”.
Với cái đầu trọc đặc trưng rất dễ nhận diện, Frank McCulloch được dân bán dạo và lũ trẻ đánh giày Sài Gòn đặt biệt danh là “Sư cụ”. McCulloch đến Việt Nam vào tháng 1 năm 1964 và trong thời gian ở lại đây, ông đã chứng kiến tới bảy lần thay đổi người đứng đầu chính phủ. Vào lúc đỉnh điểm trong thời gian bốn năm làm việc của McCulloch, văn phòng Đông Nam Á của Time-Life mỗi tháng gửi qua hệ thống điện báo hơn 50.000 từ. Ông đã giành được sự tin tưởng từ các nguồn tin, sự kính trọng của đồng nghiệp và sự trung thành của các nhân viên. Ông được mệnh danh là nhà báo của các nhà báo.
McCulloch nhận thấy mỗi phóng viên làm việc tại Việt Nam đều trải qua nhiều giai đoạn: “Giai đoạn đầu tiên: rất hào hứng với niềm tin người Mỹ có thể cứu giúp người Việt Nam và rằng người dân ở đây cần được giúp đỡ và sẽ biết on về sự giúp đỡ ấy. Giai đoạn hai (thường khoảng sau ba tháng): chúng ta có thể lầm điều đó nhưng khó khăn hơn nhiều so với những gì tôi hằng nghĩ và ngay lúc này đang diễn ra một sự dao động. Giai đoạn ba (có thể là sáu đến chín tháng sau): những người Việt Nam kia (ỉuôn luôn là người Việt Nam, chứ không bao giờ là người Mỹ) đang khiến tôi dao động. Giai đoạn bốn (mười hai hoặc mười lãm tháng sau): chúng ta đang thất bại và tình hình tệ hại hơn nhiều so với những gì tôi từng nghĩ. Giai đoạn năm: mọi sự hỏng hết rồi, lẽ ra chúng ta không nên đến đây, và chúng ta làm nhiều việc tồi tệ hơn là việc tốt”. (13)
Khi đạt tới cảnh giới thứ năm nói trên trong vòng chuyển biến tư duy của một phóng viên, McCulloch nộp một bài báo viết về hành động tăng quân ồ ạt của Mỹ tại Việt Nam vào năm 1965, thông tin mà ông có được bốn tháng trước khi nó công khai nhờ đầu mối ở ngay trong Thủy quân lục chiến, (ông Ẩn sau này cũng được tặng thưởng Huân chương Chiến công nhờ đã có thông tin tương tự gửi đến Hà Nội). Các sếp của McCulloch ở New York từ chối đăng bài viết sau khi nhận được chỉ thị ngầm từ chính Tổng thống. Tổng biên tập Hedley Donovan sau này đã kể với McCulloch rằng ông đã nhận được điện thoại trực tiếp từ Johnson. “Donovan, tôi là Tổng thống nước Mỹ… Anh đã cho một gã đầu trọc thấp bé tới dạo chơi dưới nắng miền nhiệt đới mà không thèm đội mũ. Hắn điên rồi. Anh nên lôi hắn ra khỏi nơi đó”. (14)
Khi rời Việt Nam vào năm 1967, suy nghĩ của McCulloch không khác mấy Anson, điều này thể hiện rõ trong phát biểu tại lễ bế giảng ở Đại học Nevada ngày 3 tháng 6 năm 1967. “Tôi quen một sĩ quan người Việt đã xung trận trong suốt một phần tư thế kỷ, một sát thủ chuyên nghiệp đầy năng nực, đáng ngạc nhiên là ông ấy vẫn chưa hề hấn gì bởi chiến tranh, ông ấy là một quý ông lịch lãm và sâu sắc, rồi một ngày nọ tôi hỏi ông ấy thấy gì ở tương lai”. Ông nhún vai và cười. 'Có lẽ’, ông ấy nói, 'chúng tôi sẽ đánh nhau với người Mỹ’. Khi thấy tôi có vẻ sốc, ông ấy đã tiếp tục lý giải. 'Khi tôi mới 19 tuổi’, ông nói, 'thì người Nhật tới và bảo chúng tôi rằng họ là người anh em, có thể giải phóng chúng tôi khỏi đám người da trắng - nhưng té ra họ không phải là người đi giải phóng và chúng tôi phải đánh nhau với họ. Khi cuộc chiến ấy kết thúc, và người Pháp trở lại, họ bảo rằng lần này họ đến không phải để làm người thầy khai sáng, mà là làm bạn. Và trong vòng chín năm, tính tới 1954, chúng tôi đã chiến đấu chống lậi họ. Rồi thì người Pháp ra đi. Nhưng Cộng sản không phải vừa mới tới - họ đã cắm rễ ở đây. Và họ, cũng tương tự, luôn bảo rằng là bạn của chúng tôi, nhưng rồi kể từ năm 1955, chúng tôi đã đánh nhau với họ. Điều lạ lùng là, tôi chẳng muốn đánh nhau với họ chút nào, tôi nghĩ họ cũng không muốn cầm súng nhằm vào chúng tôi. Giờ thì quý vị đến đây và nói rằng quý vị là bạn, là người giải phóng. Điều mà tôi băn khoăn là, liệu có ai trong chúng ta đã học được bài học từ những kẻ đã đến rồi đi trước kia?' Tôi đã chẳng thể nào trà lời ông ấy được”.(15)
Chiến lược tấn công đa diện của Hà Nội là luôn tìm cách tranh thủ dư luận tại Mỹ. Ông Ẩn hiểu rằng việc Anson tiếp tục làm cho Time sẽ rất hữu ích bởi anh luôn phác họa cuộc chiến theo đúng nhãn quan của Ẩn, đó là không tạo ra ảo giác rằng cuộc chiến đang tiến triển theo hướng có lợi, mà nó giống như một cái thùng không đáy. Ẩn khăng khăng rằng ông chưa từng tìm cách tác động vào suy nghĩ của Anson. “Ông biết đấy”, Ẩn nói với tôi, “Anson dành nhiều thời gian đi ra ngoại vi Sài Gòn, vào các làng xóm, nói chuyện với người dân địa phương. Cậu ấy học được ở đấy nhiều hơn là học từ tôi”. Sau này, Anson đã chia sẻ với tôi, “Tôi chưa bao giờ cảm thấy mình bị ông Ẩn lôi kéo. Ông thường chỉ trích cả hai phía một cách khéo léo. Còn tôi thì đã có sãn tâm lý phản chiến trước khi đến đấy”.
Ẩn lắng nghe lời cầu xin của Diane về việc tìm kiếm chồng của cô, trong đầu ông nhớ lại cái ngày ở tiệm Givral khi ông bảo Anson xé thư nghỉ việc đi. Nếu ông không làm vậy, gia đình Anson bây giờ đã có thể sum vầy tại Singapore hoặc đi nghi mát ở Bali rồi. Vài tuần sau khi hai người nói chuyện ở Givral, Marsh Clark gọi Anson vào văn phòng của ông ta, nơi có một tấm bản đồ Đông Dương to tướng che phủ gần hết một bức vách. Chỉ vào lãnh thổ Việt Nam, Clark nói với Anson, “Tôi sẽ đảm trách khu vực này”. Chỉ vào lãnh thổ Campuchia và Lào, ông ta bảo, “Cậu sẽ phụ trách hai nơi này”. Kết thúc cuộc gặp, ông ta bảo Anson chuẩn bị đồ đạc để ra sân bay. “Tôi không muốn gặp lại cậu ở đây nữa”.
Ông Ẩn cố gắng làm Diane an lòng bằng việc hứa sẽ làm hết sức mình, nhưng trong thâm tâm ông lại nghĩ răng người bạn của ông đã chết và ông chịu một phần trách nhiệm về chuyện ấy. Nếu nộp đơn xin thôi việc thì Anson đã không phải đến Campuchia. Ẩn hứa với Diane là sẽ tiếp tục kiểm tra các đầu mối và ông cũng không ngăn cô dán những tấm hình của Bob cùng các dòng chữ tìm kiếm người mất tích bằng ba thứ tiếng lên thân cây dọc con phố mà chồng cô thường qua lại trước khi mất tích.
Sau khi Diane cùng hai con rời khỏi văn phòng, ông Ẩn đã suy nghĩ rất nhiều về người bạn Bob Anson, ông biết rằng những gì cần phải làm có thể phá hỏng sứ mệnh của ông. Điệp viên hàng đầu của Hà Nội tại Sài Gòn đang sắp sửa chấp nhận nguy cơ bị lộ để cứu một phóng viên người Mỹ. Ông Ẩn biết rằng nếu Bob Anson đã chết thì nhân dân Việt Nam mất đi một người bạn thực thụ. Với ý thức về gánh nặng trách nhiệm trong vụ người bạn mất tích, Ẩn quyết chí đi tìm hiểu xem Anson đã chết hay còn sống.
Việt Nam và Campuchia từ lâu đã là những gã hàng xóm khó chịu của nhau, và tình hình càng trở nên tồi tệ hơn khi vào tháng 3 năm 1970, lực lượng thân phương Tây do Tướng Lon Nol cầm đầu lật đổ Hoàng thân Norodom Sihanouk. Sihanouk vốn là người trung dung, đã nhượng bộ cho cả Cộng sản lẫn các phe nhóm phi Cộng sản bằng cách bí mật cho phép Mỹ ném bom các căn cứ của Việt Cộng và Bắc Việt nằm trên lãnh thổ Campuchia, nhưng đồng thời cũng cho phép Cộng sản Việt Nam sử dụng cảng Sihanoukville để chi viện cho các căn cứ nói trên.(16)
Trong vòng một tháng sau ngày đảo chính, Lon Nol triển khai một cuộc thanh trừng nhằm vào cộng đồng thiểu số người Việt tại Campuchia. Phóng viên Sydney Schanberg của tờNew York Times chứng kiến quân của Lon Nol giết hai người bị tình nghi là Việt Cộng và treo ngược cơ thể đã bị thiêu cháy của họ giữa quảng trường thành phố - nhằm trấn áp tinh thần tất cả những người ủng hộ Cộng sản. Khi đồng nghiệp của anh ta ở tờ Time tìm cách nói với viên chỉ huy rằng làm như vậy là vi phạm Công ước Geneva, viên chỉ huy đã cười lớn. Sosthene Fernandez, một viên tướng gốc Philippines trong chính quyền Campuchia về sau trở thành Tổng tham mưu trưởng quân đội, bắt đầu sử dụng thường dân người Việt làm bia đỡ đạn, bắt họ đi hàng đầu trong các cuộc tấn công vào căn cứ Việt Cộng. “Đây là hình thức tâm lý chiến mới”, ông ta nói.(17)
Chính quyền Nixon luôn sợ rằng nếu Campuchia trở thành căn cứ của Cộng sản Việt Nam, kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh có thể thất bại. Ngày 30 tháng 4 năm 1970, Richard Nixon thông báo huy động sáu ngàn lính Việt Nam Cộng hòa, với sự yểm trợ của pháo binh, máy bay cường kích và cố vấn Mỹ, tấn công vào Mỏ Vẹt(*), một vùng rừng già ở đông nam Campuchia ăn sâu vào lãnh thổ Nam Việt Nam và được cho là căn cứ của Trung ương cục miền Nam, nhằm vô hiệu hóa hoạt động của Bắc Việt trên đất Campuchia.
(*) Tiếng Anh là Parrot's Beak, một khu vực rừng rậm ờ tỉnh Svay Rieng. Đây là nơi mà Việt Nam Cộng hòa đã mở chiến dịch Toàn Thắng 42 vào ngày 30 tháng 4 năm 1970, huy động 12 tiểu đoàn với tổng cộng 8.700 quân tấn công các căn cứ của quân miền Bắc và Mật trận Dân tộc Giài phóng Miền Nam Việt Nam.
______________________
Trong thông điệp trước quốc dân, Nixon thông báo, “Đêm nay, các đơn vị người Mỹ và Nam Việt Nam sẽ tấn công vào trung tâm đầu não phụ trách toàn bộ hoạt động quân sự của Cộng sản tại miền Nam Việt Nam. Việc vùng đất chiến lược trung tâm này bị Bắc Việt và Việt Cộng chiếm cứ trong suốt năm năm qua là hành vi xâm phạm trãng trợn tư cách trung lập của Campuchia”. Vì tổng thống, mà mới năm ngoái thôi đã hứa hẹn sẽ chấm dứt sự can dự của người Mỹ tại Việt Nam, giờ lại đang mở rộng cuộc chiến vào đất nước Campuchia kế cận.
Hôm sau ngày Nixon đọc thông điệp toàn quốc, ông Ẩn đã gửi cho Anson một bọc đồ, là bản dịch tiếng Anh một tài liệu thu được của Việt Cộng. Loại tài liệu này khá dễ kiếm đối với cánh phóng viên, tuy nhiên ở đây Ẩn đã có các ghi chú thêm cho đồng nghiệp của ông, người vừa trở về Sài Gòn nghỉ cuối tuần. Tài liệu này là một “kế hoạch chiến đấu” vào tháng 7 năm 1969, thu được hồi tháng 10 năm 1969, trong đó Bắc Việt dự báo rằng với việc kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh thất bại, Nixon sẽ hướng sự quan tâm vào Campuchia. Ông Ẩn khoanh tròn một đoạn và gạch chân câu cuối cùng, rồi viết ngang trang giấy, “Bọn Mỹ khốn kiếp. Tụi mày đọc mà chẳng chịu động não”.
Đây là đoạn văn mà ông Ẩn đã khoanh tròn cho Anson: “Nếu các cuộc tấn công của ta trên các mặt không đủ mạnh và nếu tạm thời Mỹ có thể khắc phục được một phần khó khăn, chúng sẽ tìm cách kéo dài cuộc chiến ở miền Nam thêm một thời gian nữa, và trong thời gian đó chúng sẽ tìm cách xuống thang ở một vài mặt, đồng thời sẽ tiến hành phi Mỹ hóa trong một cuộc chiến ưanh kéo dài trước khi có thể thừa nhận thất bại hoặc chấp nhận một giải pháp chính trị. Với cả hai trường hợp ấy, Mỹ có thể, trong những tình huống nào đó, tạo áp lực lên chúng ta bằng cách đe dọa mở rộng chiến tranh thông qua việc tấn công vào Campuchia”.(18)
 
 

Cuộc tấn công vào Campuchia gây ra hoảng sợ đối với cộng đồng người Việt thiểu số. Chính phủ Lon Nol bắt đầu khơi lên cơn sốt bài Việt. Một trong những cuộc tàn sát của Lon Nol diễn ra tại thị xã Takeo, vốn được cho là căn cứ địa của Cộng sản bởi nơi đây từng nổ ra nhiều cuộc biểu tình chống chế độ Lon Nol. Hơn hai trăm người, bao gồm nhiều trẻ em, bị người Campuchia nhận diện là Việt Cộng, đã bị quây lại và nhốt trong một trại giam ở Takeo. Ba tiểu đoàn dân quân phụ trách canh giữ số người Việt đó. Lúc bấy giờ Anson đang ở Campuchia để tường thuật sự kiện này, và vào mỗi buổi sáng, anh cùng cộng tác viên Tim Allman lái xe từ Phnom Penh lên Takeo để kiểm tra tình hình vụ bắt giữ người Việt.
Kế hoạch có vẻ ốn trong một thời gian, nhưng rồi vào một buổi tối, lính Campuchia đã xả súng vào toàn bộ số người Việt nói trên. Đó là một cuộc thảm sát. Buổi sáng hôm sau, Anson và Allman lái chiếc Ford Cortina màu trắng tới. “Các thi thể được xếp chồng lên nhau giữa một vũng máu lớn đã đông lại. Thoạt đầu tôi tưởng họ chết hết rồi. Nhưng khi vữa bước lên bậc thềm của trại giam, suýt chút nữa trượt chân vào vũng máu, tôi thấy nhiều người cử động và nghe tiếng rên rỉ. Trấn tĩnh lại một chút, tôi bất đầu đếm; hơn hai chục người đàn ông và bé trai còn sống, nằm giữa đống khoảng sáu mươi xác chết”,Anson hồi tưởng.
Ngoài tiếng rên của người bị thương và âm thanh của ruồi nhặng, còn lại mọi thứ đều im lìm. Một ông già với một chân đã bị nát gắng gượng kể lại chuyện đã xảy ra: “Chúng bảo tất cả tụi tôi là Việt Cộng, nhưng tụi tôi chỉ là dân bản quán. Anh phải đưa tụi tôi khỏi nơi đây nếu không tối nay chúng lại giết hết. Xin hãy đưa chúng tôi đi”.
Anson quỳ xuống cạnh một đứa bé trai chừng tám tuổi. “Mặt nó trắng bệch. Tôi đặt tay lên ngực nó; chỉ thấy nó thoi thóp nhẹ. Khẽ kéo chiếc xà rông quấn quanh cơ thể cậu bé, tôi thấy lỗ chỗ cả chục vết đạn, kéo dài từ hông xuống tới mắt cá”. Anh và Allman quyết định chở cậu bé tới bệnh viện ở Phnom Penh và kêu gọi các phóng viên khác tới đây cứu người bị thương. Anson cho rằng chẳng bao lâu nữa đám lính kia sẽ trở lại để kết thúc cuộc tàn sát.
Anson và Allman cố gắng chất thật nhiều người bị thương lên xe rồi phóng về Phnom Penh. Bệnh viện Pháp ở đấy tiếp nhận các nạn nhân trẻ em. Allman ở lại với lũ trẻ và hứa rằng sẽ trở lại Takeo ngay khi các bệnh nhi có dấu hiệu hồi phục. Anson thì trở về khách sạn để kiếm các nhà báo khác. “Ở dưới Takeo, người ta đang bắn người Việt. Hãy kêu mấy người khác cùng đi”, anh hét lên giữa đám đông các nhà báo.
Henry Kamm của báo New York Times và Kevin Buckley của tờ Newsweek chở Anson quay lại Takeo; khi họ tới nơi thì đám lính Campuchia cũng đã trở lại. “Chúng tao chẳng có gì phải che giấu cá”, một người có vẻ như là cầm đầu đám lính nói. “Chúng tao phải làm thế. Tất cả bọn chúng đều là Việt Cộng”.(19) Khi Anson hỏi ở quanh đấy có bệnh viện nào không, anh đã nhận được câu trả lời, “Có đấy, nhưng không dành cho lũ rác rưởi này”. Anson yêu cầu chấm dứt tàn sát trẻ em vô tội. Những người Campuchia cười lớn, bảo rằng họ chỉ giết Việt Cộng thôi.(20)
Trời tối dần. Lúc này Allman đã lái chiếc Cortina trở lại và bắt đầu chất người bị thương lên xe, nhiều phóng viên khác cũng trở lại để đưa tin. Anson năn nỉ từng người giúp đưa các trẻ em tới Phnom Penh. “Cậu không được can thiệp vào nội dung câu chuyện”, Keyes Beech, một phóng viên khả kính của tờ Chicago Daily News và là người từng nhận giải Pulitzer về phóng sự quốc tế vào năm 1951, đáp. “Nếu đưa những người này đi là cậu đã can dự vào vụ việc rồi. Đấy không phải là công việc của cậu”.
Anson chẳng thể kiếm ra người trợ giúp, cho tới khi Kevin Buckley tiến lên và nói, “Để tôi giúp”. Anh này là người duy nhất ra tay. “Những phóng viên khác nhìn chúng tôi một chốc, rồi từng người rời đi”, Anson nhớ lại. Buckley, Anson và Allman nhét năm đứa trẻ và ba người lớn vào chiếc Cortina. Allman chở họ về bệnh viện và hứa sẽ trở lại trước lúc tảng sáng. Vẫn còn người sống sót ở đây và Anson biết rằng để họ lại một mình là không an toàn. Họ cần nhân chứng và sự bảo vệ. Kevin Buckley quyết định ở lại với Anson bởi “đã thương thì thương cho chót”.(21)
Trời về đêm và toán lính Campuchia chuẩn bị cho cuộc tàn sát cuối cùng. Anson phát hoảng khi nghĩ rằng sự có mặt của hai phóng viên Mỹ không thể ngăn cản nổi những người Campuchia kia. Ngay lúc ấy thì có tiếng xe chạy tới. Bernard Kalb của hãng CBS cùng đồng nghiệp lái xe từ Phnom Penh lên để đón những người bạn của họ rời khỏi Takeo. “Cậu thực sự tin rằng chỉ với hai người đứng đây mà có thể ngăn chặn được tụi nó à? Nếu chúng đã muốn xử mấy người này thi chắc chắn chúng sẽ xử thôi, khi đó thì ngay cả các cậu cũng khó sống nổi”. (22)
Anson từ chối rời đi, nói rằng anh khống thể bỏ lủ trẻ Việt ở đây được. Kalb đặt tay lên vai Anson như muốn an ủi và thuyết phục, nhưng bất ngờ người đàn ông bự con này dùng tay khóa đầu Anson rồi cùng nhóm làm phim khiêng anh vào xe.
Henry Kamm, người vào năm 1978 sẽ nhận giải Pulitzer về đề tài thuyền nhân Việt Nam và dân tị nạn từ Lào và Campuchia, đã viết một bài báo về cuộc thảm sát này đăng trên trang nhất tờ New York Times, trong đó kể chuyện Anson đã đưa một trong những người bị thương nặng nhất tới bệnh viện ở Phnom Penh. Tin tức về vụ thảm sát đã làm dấy nên làn sóng giận dữ tại Sài Gòn, đặc biệt là trong giới phi công không lực Việt Nam Cộng hòa. Những phi công này, vốn thường làm nhiệm vụ tấn công các căn cứ của Bắc Việt tại Campuchia, “giờ lại rất muốn xả súng và ném bom vào làng mạc Campuchia để trả thù”. (23)
BOB ANSON CÒN SỐNG nhưng trải qua một phen suýt chết. Anh kể mình đã bị một toán quân Bắc Việt bắt sống bên một dòng sông cách thị trấn Skoun vài cây số. Trên đường đi, anh không dừng lại tại hai hoặc ba trạm kiểm soát. “Cậu ấy quá bất cẩn”, sau này Ẩn nói với tôi. “Cậu ấy thường phóng xe rất nhanh, một người đàn ông đã có gia đình trẻ mà lại cứ lao vào quá nhiều rủi ro”.
Tường thuật chiến sự ở Việt Nam và Campuchia rất khác nhau. Ở Việt Nam, phóng viên di chuyển bằng phương tiện của quân đội Mỹ hoặc Việt Nam Cộng hòa và họ luôn được các binh sĩ che chở, hỗ trợ. Tại Campuchia, phóng viên tự thuê các loại xe hơi như Ford Cortina hoặc xe Mercedes chạy dầu. Họ không được quân đội hỗ trợ. Nếu xe hỏng giữa đường thì phóng viên coi như chết dí. Sẽ không có ai tới đón. “Mục tiêu trước tiên tại Campuchia là phóng xe tới điểm chiến sự lấy tin rồi về mà không dính đạn hoặc bị bắt. Để thực hiện điều này, anh phải lái xe từ Phnom Penh, vượt qua những con đường dài không có sự bảo vệ an ninh để tới nơi mà anh tin là chiến sự sẽ xảy ra. Anh sẽ không biết được khi đến nơi thì mình sẽ gặp điều gì, nếu như anh thực sự đến được nơi đó. “(24)
Anson bị bắt rồi bị đẩy xuống một cái hố đã đào sẵn, bị ấn vào tay một cái xẻng và bảo đào cho hố sâu hơn. Anh cảm thấy như đang đào huyệt để chôn mình. Anh mong sẽ chỉ bị bắn vào ngực chứ không phải đầu, rồi cầu nguyện là người ta sẽ tìm thấy thi thể của anh. Rồi anh nghĩ về Diane: “Nàng còn trẻ và phải sống xa nhà, không có chút kỹ năng bươn chải nào, lại phải nuôi hai con nhỏ… Lạy Chúa, con rất hối tiếc về điều mà con đã gây ra cho gia đình nhỏ của con”. Anh nghĩ về hai đồng nghiệp mất tích là Sean Flynn và Dana Stone; anh nguyện cầu Đức Mẹ đồng trinh. Rồi người ta lệnh cho anh đứng sang bên miệng hố. Một họng súng AK chĩa vào trán anh, tiếng mở khóa cò nghe lách cách, anh sợ đến mức đái ra cả quần. Anson hét lên những từ cuối cùng bằng tiếng Việt - “Hòa Bình, Hòa Bình”. Sự im lặng đột nhiên bao trùm, rồi có tiếng đáp lại “Hòa Bình”. Hôm đó Anson không chết.(25)
Không khí kinh sợ bao trùm ngày kế tiếp. Những người bắt giữ không tin anh là nhà báo, mà cho rằng anh là một phi công Mỹ có máy bay bị bắn cháy. Lúc ấy Anson đang mang theo bên mình cuốn sổ có ghi lại cuộc phỏng vấn gần đấy với một lính đặc nhiệm Lục quân Mỹ. Trong đó, anh viết hoa USAF(*) để đánh dấu các chi tiết nói về chiến dịch ném bom của Mỹ tại Campuchia. Nhóm người bắt giữ dễ dàng nhận ra những chữ viết ấy. Những ngày đêm kế tiếp, người ta trói tay và dẫn Anson đi qua các vùng rừng rậm dọc Đường mòn Hồ Chí Minh, lúc thì chạy, lúc đi bộ. Anh nghĩ quân Bắc Việt có thể đang đưa anh ra Hà Nội để nhốt vào “Khách sạn Hanoi Hilton”(*) cùng các phi công, nếu anh còn sống sót để đi đến nơi đó.
Cuộc hành quân cưỡng bách đưa Anson đến một khu làng nhỏ, để một sĩ quan biết tiếng Anh thẩm vấn. Anson được yêu cầu cung cấp mọi chi tiết liên quan tới đời tư cũng như nghề nghiệp của mình. Anh chẳng giấu giếm điều gì. Tất cả các chi tiết về cuộc đời, gia phả, học vấn của anh được phơi bày. Có lúc người thẩm vấn hỏi có phải con gái của Anson, cô bé Christian Kennedy Anson, được đặt theo tên của John Kennedy, vị tổng thống đầu tiên điều quân tới Việt Nam. Không phải, Anson nhanh trí đáp, con gái tôi được đặt theo tên của Robert Kennedy(***), người phản đối cuộc chiến.
Anson khai anh là phóng viên tờ Time, không phải là lính chiến, và cung cấp đầu mối liên hệ để kiểm chứng. “A”, người thẩm vấn nói. “Đấy là một ấn phẩm rất quan trọng của Mỹ. Có lẽ không quan trọng bằng New York Times, nhưng hơn hẳn Newsweek. Tôi nói vậy có đúng không?” “Đúng rồi”. Anson cười, và hình dung ra cảnh Arnaud de Borchgrave(****) sẽ phản ứng như thế nào nếu anh còn có cơ hội sống để kể lại với ông ta câu chuyện này.(26)
______________________
(*) Viết tắt của United States Air Force, nghĩa là Không lực Mỹ.
(**) Là cách gọi mà quân Mỹ thường dùng để chỉ nhà tù Hòa Lò, nơi thường giam giữ các phi công Mỹ bị bắt trong chiến tranh.
(***) Robert Kennedy, sinh 1925, là em trai của Tổng thống John F. Kennedy, ông từng là Bộ trưởng Tư pháp Mỹ (1961-1964); năm 1965, ông trở thành Thượng nghị sĩ liên bang, đại diện cho tiểu bang New York cho đến khi bị Sirhan Sirhan, một người Công giáo Palestine, bán chết vào tháng 6 năm 1968 do ủng hộ Israel, ông từng chống các chính sách của Tổng thống Lyndon B. Johnson liên quan tới Chiến tranh Việt Nam.
(****) Ông là nhà báo nổi tiếng người Mỹ lúc bây giờ làm cho tờ Newsweek. Năm 1972, ông đã tới Hà Nội thực hiện bài phỏng vấn Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
______________________
Ở Sài Gòn, Phạm Xuân Ẩn trở về sau cuộc gặp đầy cảm xúc với Diane Anson. Đêm hôm đó, sau khi các con đã ngủ, Ẩn lấy ít cơm bỏ vào thìa nước rồi đun cho đến khi gạo nhão ra thành một thứ hồ sền sệt. Trong khi chú chó bẹc giê Đức và bà Thu Nhàn đứng xem, Ẩn nhúng đầu cây bút vào thứ chất lỏng đó rồi viết lên một tờ giấy thường dùng để gói. Trong chốc lát, vệt mực biến mất nhưng Ẩn vẫn viết, như ông đã từng làm vài tuần một lần trong suốt thập kỷ qua.
Ẩn gặp Thu Nhàn lần đầu khi bà đang làm việc tại một trung tâm hàng thủ công mỹ nghệ gần tiệm Givral. “Lúc mới gặp, tôi nghĩ anh chàng này rất thông minh, có học vấn và có phong cách lịch lãm”, sau này bà Thu Nhàn kể lại với tôi.
“Anh cũng thích giao thiệp và hay đùa”. Sau sáu tháng tìm hiểu, họ kết hôn vào ngày 25 tháng 2 năm 1962. “Rất nhiều ký giả bạn bè đã đến dự đãm cưới chúng tôi”, bà Thu Nhàn nhớ lại.
Sáu tháng sau, Ẩn thổ lộ với vợ rằng ông làm việc cho cách mạng, khiến con tim bà như rung lên. “Hồi tiểu học, tôi rất thích môn lịch sử và những bài học về các cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm… Với tình yêu Tổ quốc sẵn có trong huyết quản, tôi rất thích và đã ghi nhớ cho tới tận hôm nay nhiều bài thơ ca về lòng ái quốc“. (27) Thu Nhàn sẵn sàng làm bất cứ điều gì để hỗ trợ sứ mệnh của chỏng. “Khi biết rằng chồng mình đang làm việc bí mật và lãnh nhận những nhiệm vụ rất nặng nề và nguy hiểm để phụng sự sự nghiệp giành độc lập cho đất nước, tôi ngay lập tức chấp nhận điều đó bằng cách giúp chồng làm việc hiệu quả và an toàn nhất, như chúng tôi thường nói 'thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”. Bà Thu Nhàn thường đi theo ông Ẩn để cảnh giới mỗi khi ông chuyển giao tài liệu và khi cần thì bà “thức suốt đêm cùng chồng để sao chụp tài liệu dưới những bóng đèn 500 watt, làm mọi việc để chồng khỏi bị phân tán tu tưởng bởi chuyện con cái gia đình”. (28)
Bà Thu Nhàn kể với tôi rằng ông Ẩn đã dặn bà nếu ông bị bắt, thì bà đừng có cố chạy chọt xin xỏ, vì ông không bao giờ phản bội nguồn tin và đã sẵn sàng cho cái chết. “Anh ấy mang theo một viên thuốc độc”, bà Thu Nhàn kể, tái khẳng định điều mà ông Ẩn đã đề cập với tôi nhiều lần trước đó. “Là phụ nữ, tôi rất lo sợ. Tôi luôn sống trong tâm trạng sẵn sàng đối mặt với tình huống xấu nhất, khi nào cũng cảm giác như 'cá nằm trên thớt' vậy”.
Ông Ẩn tin vào vận may và đó là một ngày may mắn đối với Bob Anson, bởi Ẩn đã dự định sáng hôm sau sẽ gặp người giao liên của mình, bà Nguyễn Thị Ba, người về sau được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang vào năm 1976.(29) Ông Ẩn đã chọn bà Ba làm giao liên với niềm tin rằng chỉ có một nữ sứ giả mới bảo vệ được một người sinh nhằm cung xử nữ trước những điều tà ác. Lớn hơn ông Ẩn mười hai tuổi và thường bỏm bẻm nhai trầu, bà Ba ít gây chú ý đối với mọi người. Trước khi chọn bà Ba thì ông Ẩn đã loại tới chín ứng viên khác.(30) “Trước lúc tôi đi gặp ông Ẩn lấn đấu, người ta bảo tôi rằng 'cha này hổng giống ai' nên có bị loại thì cũng đừng thất vọng”, bà Ba kể với tôi. “Ông ấy rất đặc biệt và luôn đòi hỏi cao”. Nhớ lại lần đầu gặp mặt, lúc đó bà Ba giả làm người mang hoa đi lễ chùa. Theo mật khẩu đã giao ước, ông Ẩn cất tiếng, “chào chị Bảy Ba”, và bà đáp lại, “chào anh Ba Ẩn”. Nếu hai con số trong các lời chào có tổng là mười, cả hai sẽ biết họ đều là người của cách mạng.
Từ năm 1961 tới 1975, bà Ba là giao liên duy nhất của ông Ẩn.(31) “Mỗi tháng tôi gặp ông Ẩn ba hoặc bốn lần đề nhận tài liệu”, bà Ba, bí danh là Nữ tình báo viên B3, nhớ lại. “Khi tình hình khẩn cấp, ông ấy có thể gặp tôi năm tới sáu lần mỗi tháng. Khi đi gặp ông ấy để nhận tài liệu, tôi thường giả trang thành người bán hàng rong, khi thì bán rau, khi thì bán tạp hóa, nhằm dễ trà trộn vào đám đông. Nếu tài liệu ở dạng các cuộn phim, ông Ẩn sẽ cuộn thành từng cuộn rất nhỏ và cho vào bánh xà bông hoặc thỏi nem”. Bà Ba muốn tôi hiểu chính xác món ăn gọi là nem chua (thịt gói trong lá chuối) để hình dung rõ hơn cách ông Ẩn giấu phim.(32)
Vận may của Anson chính là việc Hà Nội đang chờ đợi bản phân tích của Ẩn về kế hoạch tiến quân vào Campuchia của Nixon cũng như thông tin cập nhật về tinh thần và công tác huấn luyện của quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông Ẩn quyết định chỉ gửi một bức thư và vài cuộn phim, ông mô tả chi tiết về một phóng viên người Mỹ, một đồng nghiệp tại tờ Time và là một người bạn của nhân dân Việt Nam, bị bắt gần đây. Ẩn yêu cầu nếu Bob Anson chưa chết thì phải thả ngay, không hỏi thêm điều gì, ông giải thích rằng đây chính là người Mỹ đã cứu trẻ em người Việt ở Takeo. Ẩn đã chấp nhận đối mặt với rủi ro lớn, bởi nếu như bà Ba hoặc bất cứ ai trong đội ngũ giao liên bị bắt, vỏ bọc của ông sẽ bị lộ ngay tức thì.
Việc Ẩn đưa ra đề nghị này cho thấy ông đã tự thấy được giá trị của mình trong vai trò là một sĩ quan điệp báo. Trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968, thượng cấp trực tiếp của ông là Tư Cang, người mới được đưa vào Sài Gòn để làm việc cùng Ẩn nhằm xác định các lộ trình xâm nhập vào thành phố, đã thông báo rằng ông vừa được trao huân chương đặc biệt vì những đóng góp trong chiến thắng Ấp Bắc vào năm 1963 và những báo cáo của ông được cấp trên đánh giá cao. Chính Tư Cang là người đã viết đơn đề nghị tặng thưởng cho Ẩn. Ẩn đã giải thích với tôi, “Ông biết đấy, lần đầu tiên tôi nhận được phản hồi về các báo cáo của mình là lúc ông Tư Cang kể với tôi về huân chương liên quan đến Ấp Bắc. Tôi biết mình sẽ không có cơ hội đeo tấm huân chương đó cho đến khi cuộc chiến kết thúc, nhưng ngay lúc ấy tôi muốn tận dụng giá trị của nó”. (33)
Ngày hôm sau, ông Ẩn dắt chú chó bẹc giê Đức tới chợ chim kiểng Sài Gòn. Ông nổi tiếng là người chơi chim kiểng và huấn luyện chó giỏi nhất Sài Gòn, và những con thú cưng này đã tạo ra một vỏ bọc tuyệt vời cho nhà tình báo. Ông thậm chí còn huấn luyện con chó chạy tới đái đúng vào cái cây được dùng làm hộp thư chết trong những lần trao đổi tin tức. Những lúc Ẩn bỗng nhiên biến mất một vài ngày thì ai cũng nghĩ rằng ông tới chợ chim kiểng hay đi huấn luyện hoặc mua chó.
Khu chợ luôn tấp nập, bán đủ thứ từ khỉ, cầy hương, mèo rừng, thỏ, chó, mèo, cá và đủ thứ chim, ông Ẩn xem kỹ mấy chú cu cu châu Phi, bồ câu Pháp, sơn ca, gà lôi và chim yến. Biết rằng bà Ba sắp đến nên ông Ẩn đứng đợi ở quầy bán dơi. Một lát sau, bà Ba tới và hai người bắt đầu trò chuyện; họ nói về cách lấy tiết dơi pha với rượu đế để trị bệnh lao. Ẩn chỉ dẫn tỉ mỉ cho người quen của ông cách cắt cổ con dơi, lấy tiết để pha chế thuốc.(34)
Trong lúc trò chuyện, ông Ẩn thỉnh thoảng mời bà Ba chút đồ ăn; bà Ba có vẻ như muốn để dành mang về bởi bà khỏng thể ăn hết tất cả số nem cuốn gói trong giấy trắng này. Bà Ba cám ơn và cũng mời lại ông một vài thứ. Rồi hai người chia tay - ông Ẩn trở về tòa soạn Time còn bà Nguyễn Thị Ba xuống Củ Chi, một vùng đất ngoại vi Sài Gòn, nơi có một mạng lưới tinh vi đang chờ những miếng nem của bà. Trong bọc tài liệu, ông Ẩn còn ghi thời gian và địa điểm cho cuộc gặp kế tiếp. Bà Ba kể với tôi rằng “mỗi tháng chúng tôi chọn một cuộc hẹn chính và hai cuộc gặp phụ, thường cách nhau mười ngày. Thường thì mọi thứ được định trước cho các ngày 10, 20 và 30 hàng tháng, nhưng mỗi tháng lại thay đổi nên không bao giờ có một khuôn mẩu nào. Nếu có chuyện khẩn cấp, tôi sẽ tới trường học đứng đợi cho tới khi ông ấy đưa bọn trẻ tới học. Không cần chào hỏi gì, chỉ cần thấy bóng tôi là ông ấy biết trên đang cần thông tin gấp, rồi sau đó ông ấy sẽ liên lạc với cơ sở”.
Thường thì bà Ba chỉ cần mang gói tài liệu của ông Ẩn tới Hóc Môn, khoảng nửa đường tới Củ Chi, rồi giao cho liên lạc viên khác. “Tôi chỉ tới Củ Chi một vài lần”, bà kể. Bà Ba và ông Ẩn không có kiểu liên lạc nào khác; không điện thoại, không vô tuyến sóng ngắn, không thư từ. Thời đó, bà Ba chưa biết chữ và cũng không biết ông Ẩn sống ở đâu. Họ thực sự là một trong những nhóm tình báo kỳ lạ nhất và hiệu quả nhất trong lịch sử.
Hành trình đến Củ Chi, cách Sài Gòn khoảng ba chục cây số về phía tây bắc, là cực kỳ nguy hiểm bởi quân Mỹ ở đây rất dày đặc với nhiều trạm kiểm soát. Dưới mặt đất là hệ thống đường hầm hình mạng nhện nối các làng xã, quận huyện với nhau và kéo dài từ Sài Gòn tới tận biên giới Campuchia. Hệ thống địa đạo này ban đầu được lực lượng Việt Minh đào làm nơi trú ẩn trong các trận đánh với quân Pháp, đến giữa thập niên 1960, Củ Chi trở thành một hệ thống tự túc liên hoàn với đầy đủ các cơ sở như khu dân cư, nhà kho, xưởng vũ khí, bệnh xá và sở chỉ huy quân báo.
Tình báo Mỹ biết về sự tồn tại của hệ thống địa đạo này và quận Củ Chi trở thành một trong những nơi bị dội bom, rải hóa chất phát quang và bị tàn phá nặng nhất.(35) “Hầu như chẳng còn gì ở đấy. Vùng này bị rải hóa chất quá nhiều nên trông như vùng đất chết”, một nữ giao liên khác, bà Hà Thị Kiên (Tám Kiên), nhớ lại.(36) Hầu như toàn bộ cư dân Củ Chi từ lâu đã bị gom vào nơi gọi là ấp chiến lược, ngoại trừ một số thôn ở khu vực rừng Hố Bò, từ lâu được coi là “vùng giải phóng” và nằm dưới sự kiểm soát của Việt Cộng. Sau năm 1969, với việc quân Mỹ gia tăng nỗ lực tìm diệt các căn cứ Việt Cộng ở Củ Chi, ông Ẩn hiếm khi tới vùng địa đạo. Tới khu vực này là rất nguy hiểm bởi ông có thể bị bắt hoặc bị giết trong một cuộc tấn công của quân Mỹ.
Tại Củ Chi, người ta bôi dung dịch iốt lên tờ giấy gói để có thể dễ dàng đọc được các lời chỉ dẫn của Ẩn. Bên trong các mẩu nem cuốn còn có nhiều cuộn phim cũng như các chi tiết về cuộc hẹn kế tiếp - ngày, giờ, địa điểm, ông Ẩn luôn giữ quyền chủ động về vấn đề này. Phần quan trọng nhất trong báo cáo của Ẩn được chuyển tới Trung ương cục miền Nam bằng mật mã qua hệ thống liên lạc vô tuyến; các cuộn phim và bản tóm tắt báo cáo được một nhóm du kích Việt Cộng mang tới ban chỉ huy điệp báo vùng và cuối cùng được chuyển ra Hà Nội. “Nhiều người đã chết trên đường bảo vệ các báo cáo của tôi”, Ẩn nói với tôi. “Họ rất đũng cảm, và mãi sau chiến tranh tôi mới biết những điều đó”.
Lúc bấy giờ thì ông Ẩn chỉ có thể ngồi chờ tin tức về số phận của Bob Anson.
SAU VÀI TUẦN BỊ GIAM GIỮ, vào lúc nửa khuya một đêm nọ, một người thẫm vấn dựng Bob Anson dậy, thông báo rằng lời khai về việc anh là nhân viên của Time đã được kiểm chứng. Có thể mất một vài ngày nữa, nhưng anh sẽ được phóng thích sớm. Người thẩm vấn muốn biết tại sao Anson lại không khai hết mọi thứ khi bị hỏi cung. Anson không biết mình đã che giấu điều gì, nhưng trước khi kịp mở miệng, người thẩm vấn đã hỏi anh tại sao không nhắc tới chuyện xảy ra ở Takeo. “Theo truyền thống của Việt Nam, hễ ai đã cứu sống con em chúng tôi là chúng tôi mang một món ân nợ bằng máu. Mặt trận xin ghi tạc ơn ông. Ông sẽ được trả tự do… Ông là người của chúng tôi; một chiến sĩ cách mạng”. (37)
Bob Anson vô cùng vui mừng nhưng cũng hơi bối rối. Anh đã không nghĩ đến việc kể lại câu chuyện ở Takeo bởi có vẻ như nó chẳng liên quan tới nội dung lời khai của anh. Tuy nhiên, anh gác lại mọi thắc mắc để nghĩ đến ngày đoàn tụ với Diane và các con. Chín ngày sau, khi Anson rời nơi giam giữ, những người lính cách mạng tặng anh một đôi dép Hồ Chí Minh với đế làm từ lốp và quai làm bằng săm xe tải. “Chúng tôi xài toàn đồ xịn nhất. Hàng Mỹ đấy. Dày bốn lớp”, một người lính Việt Nam nói. (38)
Mười bảy năm sau, Bob Anson trở lại Việt Nam vì lý do cá nhân. Ông đến thăm ông Ẩn vào một đêm đã khuya, khi đó chủ nhà mặc quân phục với hàm đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam và đeo huân chương trên ngực ra đón ông. “Khi nào anh cũng mặc thế này à?” Anson há hốc miệng vì kinh ngạc, “Ừ, lúc nào cũng thế”, Ẩn cười. Sau này Ẩn kể với tôi rằng hôm đó Anson bị hơn chục nhân viên an ninh theo đuôi. “Cậu ấy không hề biết mình bị bám đuôi, nhưng hôm sau bên an ninh cho người sang. Tôi đã kể với họ câu chuyện ở Takeo, thế là họ để tôi yên”.
“Này, Christian và Sam khỏe không, Diane thế nào?”, ông Ẩn hỏi khi vừa gặp lại bạn cũ. “Mười bảy năm trôi qua nhưng ông vẫn không quên chi tiết nào”, Anson nghĩ. “Sau mười bảy năm, ông vẫn biết cách làm cho tôi dễ chịu. Kỹ năng ấy đã khiến ông trở thành một bậc thấy trong sự nghiệp của mình”. (39) Sau chín mươi phút trò chuyện thân mật, Anson cuối cùng đã hỏi làm sao những người bắt giữ mình ngày xưa có thể biết về câu chuyện Takeo. Lần đầu tiên, Ẩn thừa nhận với Anson rằng chính ông đã báo cáo với Mặt trận về trường hợp bắt giữ này cũng như mô tả chi tiết hành động anh hùng của Anson ở Takeo. Nhưng đêm hôm đó, ông chỉ nói với Anson một phần câu chuyện, rằng ngày trước một thành viên Mặt trận đã tới nhà riêng của ông ở Sài Gòn để xác minh về công việc của Anson ở tờ Time. Sau đây là một đoạn trích trong cuốn Tin chiến sự của Anson:
“Nhưng tại sao? Tôỉ và anh, chúng ta ở khác chiến tuyến mà”.
“Ẩn nhìn tôi ngẫm ngợi, dường như cảm thấy thất vọng khi sau bao lần ông giảng giải mà tôi đã không ngộ được bài học căn bản nhất. 'Không, chúng ta là bạn bè”.
Câu chuyện này còn có một đoạn cuối nữa. Năm 1988, ông Ẩn đã không được chuẩn bị để kể lại sự thật với Anson. Lúc bấy giờ vẫn còn quá nguy hiểm đối với ông nếu tiết lộ phương thức hoạt động của một điệp viên. Mười tám năm sau đó, ông Ẩn kể với tôi điều gì thực sự đã xảy ra. Không thành viên Mật trận nào từng đến nhà riêng của ông cả, bởi như vậy rất dễ làm lộ bí mật. Thêm vào đó, hầu như không ai trong Mặt trận biết được sứ mệnh bí mật của ông và Mặt trận cũng không vì một người Mỹ nào đó mà để mất Ẩn.
Bob Anson được phóng thích là nhờ bản báo cáo bí mật về vụ Takeo được Ẩn viết rồi gửi qua bà Nguyễn Thị Ba cùng một giao liên khác tới Củ Chi. Đơn giản chỉ có thế. Anson sống sót là nhờ vào một vận may, khi ngay lúc ấy ông Ẩn đã có cuộc hẹn gặp với bà Ba, là nhờ anh đã kết bạn với Ẩn, và nhờ vào hành động dũng cảm của chính anh khi cứu các trẻ em Việt Nam ở Takeo cũng như sự hiệu quả của lưới tình báo H.63. “Cậu ấy không có nhiệm vụ phải cứu bọn trẻ, nhưng cậu ấy đã làm thế”, Ẩn chia sẻ với tôi. “Và sau đó cậu ấy còn giữ liên lạc với các nạn nhân, để biết rằng họ được an toàn, được chăm sóc tốt. Cậu ấy là người tốt, và cũng là người may mắn”.
CHÚ THÍCH
(1) Tài liệu về sau cho thấy “tọa độ mất tích” ở Campuchia là 12°04'00” Bắc 105°04'00” Đông. Tôi xin cảm ơn Robert Sam Anson và Phạm Xuân Ẩn đã giúp xâu chuỗi các sự kiện.
(2) http://www.pownetwork.Org/bios/s/s602.htm. Xem Richard Dudman, Forty Days with the Enemy: The Story of a Journalist Held Captive by Guerrillas in Cambodia (New York: Nhà xuất bản Liveright Press, 1971); Kurt Volkert và T. JeffWilliams, A Cambodian Odyssey and The Deaths of 25 Journalists (Lincoln, NE: Nhà xuất bản Writer's Showcase Press, 2001). http://www.mekong.net/cambodia/missing.htm.
(3) Robert Sam Anson, War News: A Young Reporter in Indochina (New York: Nhà xuất bản Random House, 1989), trang 27. Chương này lấy tư liệu từ câu chuyện kể của Anson trong cuốn War News (Tin chiến sự) cũng như từ các cuộc trao đổi với ông Ẩn và Anson.
(4) Sách đã dẫn, trang 15.
(5) William Tuohy, Dangerous Company (New York: Nhà xuất bản Morrow, 1987), trang 117.
(6) Larry Berman, Lyndon Johnson's War: The Road to Stalemate in Vietnam (New York: Nhà xuất bản W. W. Norton, 1989), trang 194-197.
(7) Xem Larry Berman, No Peace, No Honor: Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam (New York: Nhà xuất bản Free Press, 2001), trang 49-50.
(8) War News, trang 38-40.
(9) War News, trang 70.
(10) War News, trang 64; phỏng vấn riêng với Anson.
(11) War News, trang 64.
(12) Jason Felch & Marlena Telvick, “Unsung Hero”, tạp chi American journalism Review, tháng 6 và 7.2004. http://www.ajr.org/Article.asp?id=3699; xem thêm http://www.muckraker.org/ content/ néws_events/ McCullochBio.pdf#search='Frank%20 McCulloch'; Wallace Terry, “Time's Frank McCulloch: In the Eye of the Hurricane”, http://www.wa.org/TheVeteran/2002_ll/mcculloch.htm.
(13) Được trích dẫn trong David Halberstam, The Powers That Be (New York: Nhà xuất bản Knopf, 1979), trang 472.
(14) Sách đã dẫn; trang 475
(15) Khi McCulloch rời Việt Nam vào cuối năm 1967, chánh văn phòng của Time, chính là ông Đăng từng có thời gian khắt khe với Anson, đã gửi một lá thư cho Frank: “Tôi xin nhấn mạnh với ông rằng ông luôn chiếm được sự ngưỡng mộ, mến phục, kính trọng và biết ơn của chúng tôi. Lúc này đây tôi không biết nói gì hơn ngoài lời cảm ơn chân thành nhất đối với ông, người đáng kính phục nhất mà chúng tôi từng gặp trong đời. Một lần nữa, tôi mãi mãi ủng hộ ông”. Ngày 13.12.1967, trang 96-39, Hộc 6, Thư từ báo chí, Tài liệu của McCulloch.
(16) Trích từ Sydney Schanberg, http://www.crimesofwar.org/thebook/cambodia.html
(17) Sách đã dẫn; xem thêm Henry Kamm, Dragon Ascending: Vietnam and the Vietnamese (New York: Nhà xuất bản Arcade Publishing, 1996), trang 121-122.
(18) War News, trang 138, 164; Xem Robert Sam Anson, “Apocalypse Then”, tạp chi Washington Monthly, 1.10.1989.
(19) War News, trang 138.
(20) Xem T. D. Allman, “Massacre at Takeo”(Cambodia: 4.1970), trong tài liệu Reporting Vietnam, tập 2, tạp chi American Journalism 1969-1975 (New York: Nhà xuất bản Library of America, 1998), trang 129.
(21) War News, trang 140.
(22) War News, trang 141; phỏng vấn Bernard Kalb.
(23) Cambodian odyssey, trang 46-47.
(24) Sách đã dẫn.
(25) War News, trang 233, 242.
(26) War News, trang 249.
(27) “Các bài học về Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Đinh Tiên Hoàng, Trần Hưng Đạo, Ngô Quyền, hoặc Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, Quang Trung, hoặc Hoàng Hoa Thám, Phan Đình Phùng, Nguyèn Thái Học”. Bà nhắc tới các bài hát khơi gợi và ca ngợi lòng ái quốc như “Bông cỏ lau”, “Thăng Long thành”, “Du kích quân”, “Kim Đồng”, “Diệt phát xít”; bài vè “Đi quyên góp vàng ; thơ Nguyễn Trãi - Phi Khanh”, “Ngày tang Yên Bái”.
(28) Phỏng vấn bà Thu Nhàn.
(29) Lúc nhận danh hiệu này, bà Ba là Đại úy tình báo. Bà người làng Hậu Thạnh, quận Đức Hòa, tỉnh Long Ẩn. Bà gia nhập lực lượng vũ trang năm 1961 và được thăng lên cấp Thiếu tá vào năm 1993, cấp bậc cao nhất của bà. Bà vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1936.
(30) Phỏng vấn bà Nguyễn Thị Ba.
(31) Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, do Trung tâm Từ điển Bách khoa Quân sự (thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam) biên soạn; chủ biên: Trung tuớng Trần Độ (Hà Nội: Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 1996), trang 567.
(32) Tình báo Việt Nam và những câu chuyện lạ. Báo Quân đội Nhân dân, 22.10.2004. http://www.quandoinhandan.org.vn./news.php?id_new=52089&subject=2. Đây là bản điện tử của báo Quân đội Nhân dân. Xem thêm Chương 29, “Ba, A Heroine”, (Bà Ba anh hùng) trong sách A General of the Secret Service.
(33) Phỏng vấn ông Ẩn và Tư Cang.
(34) Ghi chú về các cuộc phỏng vấn, 15.4.1972, tạp chí New Yorker, Hộc 1-2, Tài liệu của Shaplen. Chi tiết này cũng đã được đăng trên tạp chí.
(35) Xem Tom Mangold và John Penycate, The Tunnels of Cu Chi (Cavaye Place, Nhà xuất bản London sw. Pann Press, 1985). Xuất bản lần đầu bởi Nhà xuất bản Hodder và Stoughton, Ltd.
(36) Phỏng vấn bà Hà Thị Kiên.
(37) War News, trang 263.
(38) War News, trang 270.
(39) War News, trang 311.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét