THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THI VÂN YÊN TỬ

SỚM CHIỀU DU NGOẠN CÙNG MÂY NÚI
HOA TRÁI QUA NGÀY TA VỚI TA

Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2014

Điệp Viên Hoàn Hảo X6

Người thành cổ Quảng trị


Larry Berman
Điệp Viên Hoàn Hảo X6
Dịch giả: Đỗ Hùng
Chương 4
BẮT ĐẦU CUỘC SỐNG KÉP
    
ài liệu này chứng minh rằng bộ phận cốt cán của Việt Cộng có năng lực chuyên nghiệp trong việc lên kế hoạch chi tiết… Điều đó đánh tan quan niệm của một vài người rằng Việt Cộng chỉ là mấy gã nông dân trồng lúa lạc hậu, mù chữ.
Ghi chú về Báo cáo tổng kết về Việt Cộng theo sau trận Ấp Bắc,
ngày 2 tháng 1 nãm 1963.
TRỞ LẠI SÀI GÒN VÀO CUỐI THÁNG 9 NĂM 1959 sau hai năm sống ở Mỹ, nỗi sợ lớn nhất của Ẩn là vừa ra khỏi máy bay đã bị bắt đưa đi và rồi vĩnh viễn biến mất. Ẩn sắp xếp để cả gia đình ra đón ông tại phi trường, bởi ông tính toán rằng trong trường hợp mình bị bắt, nếu có nhân chứng thì sẽ tốt hơn. “Khi gia đình ra đón ở sân bay, ít nhất má tôi cũng biết được việc tôi biến mất”, ông Ẩn nói với tôi. Rất nhiều đồng đội của ông đã bị bỏ tù. Ẩn không biết là liệu những người kia có khai ra tên ông hay không. Đáng lo nhất là việc cấp trên trực tiếp của ông là Mười Hương đã bị bắt vào năm 1958 và đang nằm bóc lịch trong nhà lao Chín Hầm. Mười Hương là người sáng lập mạng lưới tình báo chiến lược của Cộng sản ở miền Nam. Ông chính là người đã chiêu mộ Ẩn vào mạng lưới này và sau đó điều Ẩn sang Mỹ.
Giữa lúc người nhà chạy tới chạy lui, Ẩn nhìn quanh để xem có cảnh sát hay không, nhưng không thấy ai tiến tới bắt ông cả. Bởi không nắm bắt được tình hình nên Ẩn ở nhà suốt một tháng, sợ rằng nếu ra ngoài một mình, ông có thể bị bắt. Phần lớn thời gian trong ngày, Ẩn đứng nhìn qua cửa sổ để xem có ai theo dõi hay không, sau một thời gian, ông thận trọng lên một kế hoạch để thăm dò. Ông gửi một lời nhắn tới bác sĩ Trần Kim Tuyến, người đã giúp ông làm thủ tục thị thực hai năm về trước và là đồng minh thân cận của Ngô Đình Nhu, em trai ông Diệm: “Tôi vừa kết thúc khóa học ở Mỹ trở về và đang cần việc làm. Ông có gì cho tôi làm không?”. Theo tính toán của Ẩn, nếu ông là mục tiêu bắt giữ, bác sĩ Tuyến sẽ không bao giờ bố trí việc làm cho ông bởi Tuyến chính là người giữ sổ đen Việt Cộng.
Thân hình nhỏ bé với cân nặng chưa đầy một trăm cân (100 cân Anh chừng 45 kg - ND), Tuyến “luôn có vẻ điềm tĩnh và e dè của một nhà nho”, như miêu tả của William Colby.Tuy nhiên, dưới bề mặt trầm lặng ấy, Tuyến là một người chống Cộng hăng hái, một nhà hoạch định và là kẻ bày mưu đảo chính bậc thầy. Tuyến từng học ngành y nhưng chưa bao giờ làm bác sĩ, dù vậy, quyền lực ông ta lớn tới mức ai cũng phải gọi ông ta là “Bác sĩ”. Ông ta chi tin tưởng một số ít những người bạn chống Cộng trung thành trong tổ chức của mình.(3)
Bác sĩ Tuyến thấy rằng chiêu mộ một người học hành ở Mỹ như Ẩn cho chính quyền Diệm là rất đáng giá. Ông ta liền bố trí cho Ẩn một chân nhân viên trong văn phòng tổng thống, vị trí mà Ẩn có thể tiếp cận các hồ sơ của quân đội, Quốc hội và hầu như của mọi tổ chức tại miền Nam Việt Nam. Nhưng chẳng bao lâu sau, Tuyến tìm ra một cách sử dụng tốt hơn đối với nhân vật thân tín mới của ông ta, người cũng vừa xin Tuyến bố trí một công việc phù hợp với ngành học báo chí của mình. Tuyến liền cho Ẩn tới gặp Nguyễn Thái, Tổng giám đốc Việt Tấn xã, cơ quan báo chí chính thức của chính quyền. Trong số hàng ngàn bản tin được các hãng thống tấn quốc tế lớn cung cấp mỗi ngày, Việt Tấn xã chọn những thứ phù hợp về mặt chính trị để dịch sang tiếng Việt và đăng tải, coi như là quan điểm chính thức của chính quyền Diệm. “Việt Tấn xã hoạt động như một bộ máy kiểm duyệt các tin tức quốc tế được chọn lựa cho người đọc trong nước”, Thái giải thích. “Các bản tin của Việt Tấn xãđược sử dụng trong tất cả các chương trình của mạng lưới phát thanh Ợuốc gia”.
Tương tự Ẩn, Thái học ở Mỹ, và tại đây ông đã lần đầu tiên gặp Ngô Đình Diệm vào tháng 6 năm 1952 tại một hội nghị dành cho sinh viên Công giáo. Thái là chủ tịch Hội Sinh viên Công giáo tại Mỹ và sau cuộc gặp, Diệm thường xuyên gửi thư cho Thái để phân tích tình hình chính trị tại Việt Nam cũng như đánh giá cơ hội nắm quyền của chính mình. Sau đó Thái tới thăm Diệm tại Tu viện Marknoll ở Lakewood, New Jersey, và sắp xếp để Diệm có một buổi thỉnh giảng tại Chương trình Đông Nam Á thuộc Đại học Cornell. Khi Diệm trở về Sài Gòn vào năm 1954, ông đánh một bức điện tới Đại học bang Michigan mời Thái về Việt Nam để giúp xây dựng một miền Nam độc lập. Thái nhanh chóng trở thành chủ bút và tổng biên tập của tờ Thời báo Việt Nam(*), và vào tháng 5 năm 1957, Diệm bổ nhiệm ông làm Tổng giám đốc Việt Tấn xã.
______________________
(*) Times of Vietnam là tờ báo tiếng Anh được coi là cơ quan ngôn luận chính thức của chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong cuộc đảo chính lật đổ ông Diệm vào tháng 11 nãm 1963, trụ sở tờ báo này bị đốt cháy và tờ báo chấm dứt tồn tại.
______________________
Ở vị trí này, Thái nắm được nhiều bí mật của chính quyền Diệm. “Gần như mỗi ngày, Tổng thống đều trực tiếp yêu cầu tôi theo sát các thông tin đặc biệt và sau đó ‘chế biến' theo cách này hoặc cách khác vì những lý do chính trị đặc biệt. Thông tin là quyền lực, và nó phải được sử dụng để phục vụ những người độc quyền về thông tin”. Một trong những người tìm cách kiểm soát thông tin là bác sĩ Tuyến. “Không hiếm khi tôi nghe Tuyến nói rằng một phiên tòa chính trị quan trọng nào đó sẽ được tòa án tại Sài Gòn xét xử và tuyên mức án nào hoặc là một sự kiện nào đó sẽ xảy ra trong một ngày cụ thể nào đó (chẳng hạn xảy ra biểu tình hoặc lục soát trụ sở một tờ báo đối lập hoặc một cuộc bầu cử) và sẽ là 'thích hợp' đểViệt Tấn xã đãng tải những thông tin liên quan theo chiều hướng này hoặc chiều hướng khác, nhằm phục vụ cho lợi ích của chính quyền Diệm”, Thái nhớ lại.(4)
Trần Kim Tuyến muốn Ẩn làm việc cho Việt Tấn xã để ông ta có thể kiểm soát Nguyễn Thái, nhưng Nguyễn Thái cũng muốn Ẩn làm việc cho mình: “Ông ấy là nhân viên đầu tiên của Việt Tấn xã được đào tạo báo chí tại Mỹ và thông thạo tiếng Anh. Bên cạnh đó, tôi cần một phóng viên có thể phụ trách mảng tin tức văn phòng tổng thống và đây là một nhiệm vụ rất nhạy cảm. Tôi cũng nhận thấy Ẩn rất thạo tin và có quan hệ rộng”, ông Thái kể. “Dường như ông ta quen tất cả các nhân vật quan trọng tại Nam Việt Nam, nhưng chẳng bao giờ khoe khoang về điều đó. Khiếu hài hước và đầu óc dí dỏm khiến cho ông ta rất dễ mến. Ẩn là bồ ruột của cánh nhà báo quốc tế tại Sài Gòn, những người cũng đánh giá rãt cao ông ta và luôn sẵn sàng coi Ẩn là một người Nam Việt Nam vĩ đại. Nhưng rồi ông ta không ở lại lâu bởi có những đề nghị hấp dẫn hơn từ các hãng thông tấn và tờ báo nước ngoài. Tất cả họ đều đánh giá cao kiến thức bách khoa của ông ta về chính trị Việt Nam và các mối quan hệ rộng rãi trong nước”.
Thời gian làm việc cho Việt Tấn xã, Ẩn đã thể hiện một “phong cách chuyên nghiệp” mà theo ông đã trở thành đặc điểm xuyên suốt toàn bộ sự nghiệp của ông. Bác sĩ Tuyến có kế hoạch sử dụng Việt Tấn xã làm vỏ bọc cho các điệp viên của ông ta xuất ngoại. Ồng ta chỉ đạo cho Thái huấn luyện những điệp viên này một vài kỹ năng báo chí trước khi cử họ đi New Delhi, Djakarta và Cairo để làm gián điệp. Thái phản đối kịch liệt nhưng Tuyến bảo rằng đây là mệnh lệnh của Nhu nên Thái chẳng còn lựa chọn nào khác. Thái quyết định cử Ẩn phụ trách công tác đào tạo cho điệp viên của Tuyến. Lựa chọn này không chỉ bởi Ẩn tốt nghiệp trường báo chí, mà ông còn là người có quan hệ tốt với Tuyến.
Khi thấy mấy nhân viên của Tuyến học tập không nghiêm túc, Ẩn đã tới gặp trực tiếp Tuyến:
“Ông xem đấy. Tôi sẽ không huấn luyện họ nữa trừ khi ông chỉ cho họ thấy tầm quan trọng của việc tạo ra vỏ bọc, bởi vì họ sẽ bị bắt ngay nếu không học nghề này cho đàng hoàng,” sau này Ẩn nhớ lại. “Họ cần phải chú ý chi tiết, biết cách thức nộp một bài viết, phỏng vấn và phát triển nguồn tin. Nếu họ không học nghề này, họ sẽ bị bắt và lúc đó thì ông cũng mệt đấy”. Những điệp viên kia lập tức quay trở lại Việt Tấn xã theo mệnh lệnh của Tuyến là phải tham gia chương trình huấn luyện báo chí một cách nghiêm túc. Thế là Phạm Xuân Ẩn, bản thân vốn là điệp viên Cộng sản, giờ lại đang huấn luyện cách thức tạo vỏ bọc cho các điệp viên chống Cộng của bác sĩ Tuyến. Tại Việt Nam, đây là chuyện vô tiền khoáng hậu.
Như Thái dự đoán, Ẩn không ở lại Việt Tấn xã lâu, mà chuyển tới hãng tin Anh Reuters, cộng tác với phóng viên người Úc Peter Smark, người có văn phòng làm việc đặt ngay trong khu tổng hành dinh của Việt Tấn xã. “Peter Smark thực sự hiểu Việt Nam. Ông cần đọc các bài báo của ông ấy”, Ẩn nói, với chất giọng gợi ý rằng chúng tôi sẽ có nhiều chuyện để thảo luận sau khi tôi tìm đọc thêm tài liệu. Buổi tối hôm đó tôi vào mạng để tìm kiếm các bài viết của Smark và đã bắt gặp bài “Chết và nôn mửa: Ý nghĩa thực sự của chiến tranh”(5) được viết năm 1990, nhưng nhắc lại những trải nghiệm của ông ta tại Việt Nam vào năm 1961. Bài viết giúp tôi thấy rõ vì sao Ẩn muốn tôi tìm hiểu thêm về Smark: “Chúng tôi đi xuyên qua, những cánh đồng xanh đến ngôi làng kế bên Mỹ Tho. Trên bờ ruộng lúa, những cây dừa đung đưa theo gió. Dưới ánh mặt trời như thiêu đốt giữa trưa, ba bé gái nói líu ríu như dế kêu và lấy tay che miệng cười khi thấy những gã đần ông ngoại quốc nặng nề và vụng về đang xông vào thế giới của chúng. Nằm chỏng chơ như rác trên đất bùn là những xác người. Tôi vẫn còn nhớ và sẽ không bao giờ quên được con số xác chết, 82. Trận đánh xảy ra vào ngày hôm trước và bấy giờ lũ ruồi đã bu đầy. Tôi đã lường trước cảnh máu me, màu xám khủng khiếp của những xác chết lòi ruột, và mùi hôi thối. Tuy nhiên, tôi đã không hề tính tới tình huống đụng đầu với lũ ruồi. Không rõ tại sao tôi chưa từng nghĩ về ruồi nhặng. Hoặc chuột. Và thế là, ở tuổi 24, tôi đã khám phá ra chiến tranh thực sự là cái gì. Khi tôi nôn mửa và mồ hôi vã ra như tấm trong cái ngày ấy vào năm 1961, những ý nghĩ chẳng ăn nhập gì với nhau đột nhiên cuộn xoáy trong đầu tôi…”, Smark viết.
Khi trở lại nhà Ẩn vào ngày hôm sau, tôi đã đưa cho ông bài báo nọ. “Tôi đã nói chuyện với ông ấy khi ông ấy trở về từ Mỹ Tho. Ông ấy đã biết những gì mà chiến tranh đang gây ra cho đất nước này và bắt đầu quan tâm tới chương trình chống quân nổi dậy mới được triền khai. Ông ấy là một trong những người đầu tiên nhận ra rằng chiến tranh sẽ có quy mô lớn. Rồi chúng tôi trở thành bạn thân, ông ấy đã đến dự đám cưới của tôi. Và tôi đã cung cấp cho ông ấy nhiều thông tin quan trọng”, Ẩn nói.
Như vậy, trong vòng một năm sau khi từ Mỹ trở về, Ẩn đã kết thân với bác sĩ Trần Kim Tuyến, làm nhân viên trong khu vực văn phòng tổng thống, trở thành bạn của Nguyễn Thái tạiViệt Tấn xã, rồi chuyển tới làm việc cho Reuters. Nick Turner, phóng viên người New Zealand đã thay thế Smark làm trưởng văn phòng Reuters vào tháng 5 năm 1962, về sau đã viết: “Một trong những lợi thế nữa mà tôi có được đó là người trợ lý Việt của tôi, ông Phạm Xuân Ẩn. Tất cả chúng tôi đều phải dựa dẫm rất nhiều vào các trợ lý người Việt, họ làm biên dịch, thông dịch về tình hình chính trị Việt Nam cũng như những diễn tiến của cuộc chiến quân sự. Người trợ lý của tôi được đánh giá là xuất sắc nhất Sài Gòn, rất thạo tin và sắc sảo. Ông ta là sĩ quan tình báo của tôi. Sau này thì người ta mới biết được ông ta cũng là sĩ quan tình báo của Việt Cộng, với cấp hàm đại tá. Làm việc cho Reuters tạo cho ông ta một vỏ bọc hoàn hảo để đi lại lấy thông tin. (6)
Trên thực tế, nhiệm vụ của ông với tư cách là một điệp viên chiến lược khi ấy mới sắp sửa bắt đầu. Ông sẽ sử dụng tất cả những mối quan hệ với các nhân vật chống Cộng nổi trội cũng như tất cả các kỹ năng xã hội từng học được tại Trường Orange Coast để có thể tiếp cận được các tài liệu, các buổi thông báo tin tức qua đó nắm được chìa khóa để đối phó với chiến thuật mới của Mỹ tại Việt Nam.
VIỆT NAM KHÔNG HỀ CÓ TRƯỜNG đào tạo tình báo, và điều trớ trêu là, hành trang bước vào lĩnh vực tình báo của ông Ẩn lại được tích lũy từ một cuốn sách xuất bản năm 1963, Mổ xẻ nghề tình báo: Điệp viên và kỹ thuật của điệp viên từ Roma cổ đại đến sự kiện U-2, mà Ẩn cho biết là ông được phóng viên trẻ David Halberstam làm việc tại Sài Gòn tặng để Ẩn trau dồi kỹ năng viết phóng sự.(7) Ẩn lôi cuốn sách ấy từ thư phòng nhà ông và chỉ cho tôi những phần quan trọng, đầu tiên là điệp viên huyền thoại Richard Sorge của Liên Xô, phóng viên chính thức của bốn tờ báo trong thời gian làm việc dưới vỏ bọc tại Nhật Bản từ năm 1933 tới 1942. vỏ bọc của Sorge giúp ông có thể vào Đại sứ quán Đức, nơi ông tạo dựng được những mối quan hệ đầy giá trị với nhiều đời đại sứ liên tiếp và những người này đã trở thành nguồn tin quan trọng của ông. “Điều đó rất quan trọng”, Ẩn nói với tôi. “Nhưng còn quan trọng hơn đó là Sorge đã sơ suất, bị bắt và rồi bị người Nhật treo cổ. Đó là kết cục mà tôi luôn sợ mình sẽ gặp phải”. Vào ngày 5 tháng 11 năm 1964, Richard Sorge đã được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
“Nghề tôi có hai cái kỵ”, Ẩn nói với người Việt Nam viết hồi ký cho ông. “Nếu bị bắt, không ữốn được (nếu trốn được thì tốt), nhưng nếu không sống được thì phải kể là chết. Cái cần giữ không phải xác anh. Xác anh kể là chết, nhưng không được tiết lộ nguồn tin. Không khai báo đã đành, ngay khi những gi địch đã biết, anh có thể nhận, nhmg tuyệt đối phải bảo vệ người cung cấp tin. Thứ hai là cái gì lấy được rồi, giấu tuyệt đối”. (8)
Cuốn sách của Ẩn chứa đầy những ký hiệu đánh dấu các đoạn văn viết về việc gặp gỡ với liên lạc viên tình báo. “Vì lý do an ninh, các cuộc gặp nên diễn ra nơi công cộng có khá đông người. Hai người mà hẹn gặp ở những nơi ít người qua lại thì dễ bị theo dõi, và nếu một người bị hại thì người kia cũng tự động lâm nguy. Ở những nơi đông đúc - trong quán rượu, nhà hát, địa điểm thi đấu thể thao, nhà ga chính - hai bên có thể dễ dàng liên lạc mà không gây chú ý. Thông tin có thể được trao đổi hai chiều theo nhiều cách mà cả hai người chẳng cần nói chuyện với nhau”. (9) Một phần khác nói về loại mực mất dấu và các kỹ thuật ngụy trang.
Ẩn chọn cách giấu các cuộn phim bên trong các miếng chả trứng cuốn hoặc nem chua (thịt sống được gói trong lá chuối), nhưng các điệp viên khác thì chọn phương cách khác. “Đối với tài liệu viết băng nước trà trên những tờ giấy dầu màu vàng thì dùng những tờ giấy đó… gói đồ, hoặc dán lại thành cái túi đựng đồ. Còn phim thì làm theo hai cách. Một là mua một đôi dép cao su xốp, lột lớp phía trên ra, rồi lấy dao cất rỗng miếng xốp trong đế dép, phim cắt ra từng khúc nhét vào đó rồi dán lại”, con trai ông Ba Quốc kể. “Một chiếc dép chứa được một phần tư cuộn phim, một đôi được nữa cuộn; nửa cuộn còn lại cũng cắt ra, cuộn nhỏ lại, nhét vào đồ chơi trẻ em. Tất cả đựng vào cái túi bằng giấy dầu màu vàng nói trên, cả vỏ cả ruột đều là tài liệu, ông đem cái túi đó để vào cốp xe Vespa rồi mang đi gặp giao liên nội đô”. (10)
Nỗi nguy hiểm thường gặp của các điệp viên là liên lạc viên có thể bị bắt giữ cùng tài liệu, sau đó được đưa tới Trung tâm Khai thác Tài liệu Hỗn hợp (CDEC), nơi đây một người phiên dịch thạo nghề sẽ truy tìm nguồn gốc. “Tài liệu không chỉ là tin tức mật, tài liệu chính là điệp viên. Mất tài liệu tức là mất điệp viên. (11) Trước tháng 10 năm 1965, công tác phân tích tài liệu (gọi là “khai thác”) được giao chủ yếu cho quân đội Việt Nam Cộng hòa. Ẩn nhớ có lần một đầu mối bên trong tổ chức này cho ông xem một tài liệu thu giữ được từ kẻ thù, trong đó có bản tóm tắt báo cáo do chính ông soạn về kế hoạch truy quét du kích quân do Quân lực Việt Nam Cộng hòa thực hiện. “Tôi đã nổi xung và vào rừng để nói với họ khi tóm tắt báo cáo nên cẩn thận, đặc biệt đây là những thứ tôi viết hồi năm 1961 và tôi biết rõ là của mình; tài liệu cũ nhưng có thể truy nguồn được”.
Ẩn luôn ví mình như một con sói cô đơn bởi không có một ai giám sát các hoạt động hằng ngày của ông. Ẩn chính là trường hợp mà trong ngành tình báo Mỹ gọi là điệp viên đơn độc hoạt động trong vùng cấm.(12) Do hoàn cảnh quá nguy hiểm nên việc tiếp xúc trực tiếp bị cấm; mọi bước đi đều do Ẩn tự nghĩ ra. Ông có một loạt cấp trên trực tiếp, đầu tiên là Mười Hương. (13) Nếu Trung ương cục miền Nam cần gì đấy đặc biệt, Ẩn sẽ nhận được yêu cầu thông qua mật thư của bà Ba hoặc bà này có thể gây chú ý cho Ẩn lúc ông đưa con đến trường.
“Tôi là nhà tình báo chiến lược, không phải tình báo chính trị, vốn thường chuyên về các hoạt động như tổ chức các nhóm đảo chính hoặc thực hiện các hoạt động gián điệp chính trị”, Ẩn thường nhấn mạnh. “Tôi là học trò của Sherman Kent, công việc của tôi là giải thích và phân tích thông tin”. Kent đã viết một trong những cuốn sách đầu tiên của mình để hệ thống hóa lại chủ đề phân tích thông tin tình báo, cuốn sách nhan đề Tình báo chiến lược phục vụ chính sách toàn cầu của Mỹ.(14) Ẩn biết được thông tin về Kent thông qua Lansdale cũng như từ các đồng nghiệp ở CIO khi họ vừa tu nghiệp ở Mỹ về theo các chương trình mà sách của Kent là tài liệu huấn luyện chính.
Sau chuyến thăm lịch sử của Richard Nixon tới Trung Quốc vào tháng 2 năm 1972, cách thức làm việc của Ẩn đã có sự thay đổi quan trọng. “Tôi buộc phải thay đồi mọi thứ sau chuyến thăm của Nixon bởi có rất nhiều gián điệp Trung Quốc hoạt động tại Việt Nam. Mọi việc đều rất nguy hiểm, ngoại trừ báo cáo, vì thế tôi phải đành nhiều thời gian hơn để đọc và phân tích tài liệu sau đó ngồi gõ những bản báo cáo dài. Chỉ có một lần vào năm 1974 là tôi có làm một chuyện ngoại lệ, nhưng lúc đó thì người Mỹ rút rồi. Tôi nói với cấp trên rằng tôi là người phân tích, nếu họ muốn lấy tài liệu thì các điệp viên sẽ làm; họ có rất nhiều phương cách để có tài liệu nhưng không phải lấy từ tôi nữa. Mang tài liệu về nhà rồi sau đó đem trả lại rất dễ bị tóm”.
Ẩn cho tôi biết rằng cuốn Mổ xẻ nghề tình báo đã giúp ông chuẩn bị một cuộc sống đơn độc, cho thấy tầm quan trọng của tự chủ và tinh thần kỷ luật: “Điệp viên là người cô đơn. Tính chất hoạt động không cho phép anh ta tiết lộ thân phận, bởi làm thế thì anh ta có thể gián tiếp tiết lộ ý đồ của mình… Anh ta phải hoàn toàn kiểm soát bản thân mình cũng như đặt các bản năng và phản ứng của mình theo một nguyên tắc nghiêm ngặt.(15)
Cuốn sách cũng gieo rác nỗi sợ, một cảm giác đeo đuổi rằng bất cứ lúc nào sứ mệnh của ông cũng có thể kết thúc và tính mệnh của ông cáo chung: “Thời chiến cũng như thời bình - đặc biệt là trong chiến tranh - anh ta phải cảnh giác với kẻ thù. Mọi bàn tay đều chống lại anh ta; một khoảnh khắc bộc lộ bản thân cũng đủ để khiến anh ta bị tấn công. Điệp viên biết điều đó. Ngay từ đầu anh ta ý thức được đòn thù mà kẻ địch sẽ tung ra một khi họ bắt được anh ta. Mối nguy đến tính mạng, thậm chí nếu không mất mạng (trong trường hợp những người bất giữ muốn tra tấn để khai thác thông tin), thì mối nguy bị cắt tay chân là điều mà mỗi điệp viên phải tiên lượng”.
“Điệp viên may mãn là điệp viên không bị bắt” là cách mà Ẩn luôn nói về bản thân. Ẩn có nhiều phen thoát hiểm trong gang tấc, nhưng ông đặc biệt nhớ hai lần. Lần thứ nhất là trong giai đoạn đầu sự nghiệp khi ông vừa ở Mỹ về và đang làm việc cho bác sĩ Tuyến. Lúc bấy giờ, Minh Cồ đang là trung tá của Sư đoàn 3 Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Ẩn giới thiệu một nữ quân nhân (WAC) vào làm việc trong văn phòng của Tuyến. Ẩn không hề biết cô này đã bí mật làm việc cho Mặt trận ở ngay trong văn phòng của Mình Cồ, và giờ đây, với sự tiến cử của Ẩn, cô ta vào làm cho Tuyến. Bên quân báo hỏi Tuyến ai đã tiến cử cô này. Khi bị chất vấn, Ẩn lập tức đáp, “Làm sao tôi biết con nhỏ là Việt Cộng? Tôi chưa vợ, mà con nhỏ thì đẹp và lại biết đánh máy nên tôi giới thiệu. Tôi chả biết gì ngoài chuyện đó”. Ẩn ngưng câu chuyện ở đấy và lật sang trang 30 cuốn Mổ xẻ nghề tình báo, “hành động và ứng khẩu mau lẹ, hai phẩm chất gần như song hành trong nghề, có thể giúp anh ta thoát hiểm”. Với vẻ hài lòng, Ẩn châm thêm trà và nói, “ông thấy đấy, trong nghề của tôi thì chẳng có gì là quá nhỏ nhặt, không đáng để phân tích và ứng dụng. Hy vọng ông cũng sẽ viết theo cách như thế”.
Ẩn còn có một vụ thoát hiểm khác, trong đó nhờ nhanh trí ông đã kiểm soát được một tình huống có thể dẫn tới thảm họa. Sau khi các con đã đi ngủ, và với chú chó bẹc giê Đức cùng người vợ đứng canh, Ẩn thường chuẩn bị báo cáo và phim để chuyển cho bà Ba. Một buổi sáng nọ, Ẩn nghe cô con gái của mình kể với anh trai rằng hồi đêm tỉnh giấc, cô bé thấy cha mình viết bằng một loại mực đặc biệt, cứ viết xong là chữ biến mất. Ẩn thất kinh. Ông đã không hay biết cô bé đến bên cạnh, còn vợ ông đã đi ngủ, con chó thì thấy người quen nên chẳng sủa.
Ẩn sợ con gái sẽ đến lớp kể với bạn bè về loại mực đặc biệt này. Thế nên ông nghĩ ra một trò để đánh lừa cô bé. Tối hôm đó, ông đặt một ngọn đèn sáng ngay trước mặt cô bé. Rồi ông bảo cô bé nhìn vào tờ giấy mà ông vừa viết bằng mực thông thường. Tất nhiên là trong vài phút đầu cô bé chẳng thấy gì cả do mắt còn bị chói sáng, rồi thì sau đó cô mới thấy mực. “Con nè, đây là nguyên nhân khiến tối qua con thức giấc và thấy ba viết nhưng không thấy chữ. Con đi từ trong tối ra chỗ sáng và tưởng là tờ giấy không có chữ. Lúc đó con bị hoa mắt nên mới như vậy, và do mệt quá nên sau đó con quên hết”. Thế là từ đó cô bé không còn nhắc tới loại mực đặc biệt nữa. Con trai của Ẩn là Hoàng Ân sau này kể với tôi rằng cậu ta thường tỉnh ngủ và thấy cha làm việc rất khuya nhưng không hề suy nghĩ gì về chuyện đó.
Ẩn luôn nhấn mạnh vai trò của vận may trong nghề tình báo. Ông thường đi xem bói và nếu thấy phán hôm đó là ngày xấu thì ông không ra ngoài. Ẩn thậm chí còn coi số xe của mình “NBC 253” là số xui vì đó là số bù, con số rất xấu theo quan niệm tướng số của người Việt Nam. “Tôi nhớ lúc bà Nhu cấm đánh bạc, chúng tôi thường ngồi ở góc đường và cá độ biển số mấy chiếc xe chạy qua. Không ai muốn ngồi gần xe tôi vì đấy là số xui”.
Vai trò của vận may có lẽ được minh họa rõ nhất trong câu chuyện của Ba Quốc, với tên gọi và chức danh trong hồ sơ của đảng là Thiếu tướng Đặng Trần Đức. Làm việc cho lưới tình báo H.67 dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương cục miền Nam, Ba Quốc hoạt động hơn hai mươi năm tại miền Nam Việt Nam, nhưng không giống Ẩn, cuối cùng Ba Quốc đã bị lộ tẩy. “Chuyện của ông ấy cho thấy tôi rất may mắn cũng như cho thấy mạng sống của tất cả chúng tôi hồi đó nguy hiểm như thế nào”, Ẩn nói.
Ba Quốc bị lộ rất tình cờ. Ông vừa gặp liên lạc viên lâu năm của mình là Bảy Anh (người làm việc cho riêng Ba Quốc từ năm 1966 tới 1974) tại một khu chợ và chuyển mấy chục cuộn phim, nhưng hôm đó Bảy Anh đã chuyển phim cho một nữ liên lạc viên trẻ để mang lên Củ Chi. Không may cho cô gái là cảnh sát đã dừng xe để kiếm một người nào đó, nhưng họ đã quyết định bắt hết tất cả để đảm bảo rằng không để lọt thành viên Việt Cộng nào trên xe. Thế là cảnh sát tìm thấy tài liệu trong túi xách của cô gái, và sau vài ngày điều tra, họ lần ra được Ba Quốc, nhưng ông ta đã nhanh chóng trốn vào rừng trước khi cảnh sát kịp tới gõ cửa. “Chỉ là tình cờ thôi. Và tôi luôn sợ những kiểu tình cờ như vậy”, Ẩn thổ lộ. “Biết đâu một liên lạc viên bị bắt và rồi đến một ngày tôi bị lộ, họ sẽ đến tìm tôi tại tờ Time, hoặc xấu hơn nữa, họ tìm gặp tôi ở những chỗ mà không ai thấy, tôi có thể bị tra tấn trước lúc bị giết”.
Khi thực hiện các bài viết cho Time, Ẩn chủ yếu dựa vào tài liệu mà các phóng viên khác có được - đó là tài liệu thu giữ của đối phương, bài của hãng thông tấn, bài viết trên các báo, thêm vào đó là các nguồn tin cấp cao của ông. Điều này có nghĩa là ông không sử dụng mọi thứ có được để phục vụ các bài viết cho tờ Time. Mặt khác, là một điệp viên chiến lược, Ẩn dựa vào các tài liệu lấy được nhờ vào đầu mối bên trong các cơ quan như CIO, Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Quốc hội và các đầu mối trong cộng đồng tình báo Mỹ, Pháp và Trung Quốc. “Tôi sử dụng các tài liệu do đầu mối ở CIO cung cấp để viết báo cáo gửi vào rừng”, Ẩn giải thích cho tôi. “Nguy cơ sơ suất và bị bắt là rất lớn, thế nên tôi phải tính táo để đảm bảo rằng không sử dụng hiểu biết thực sự của mình vào việc viết báo”.
Làm phóng viên giúp nâng cao tay nghề cho Ẩn trong lĩnh vực tình báo chiến lược bởi vì một phần việc của phóng viên giỏi là trích xuất những sự thật từ bên trong các tin đồn. Ồng thấy có rất nhiều điểm tương đồng giữa hai nghề. “Khác biệt duy nhất là ai sẽ đọc bài viết của bạn”, ông nói. Trong cuốn Mổ xẻ nghề tình báo, ông đã gạch chân đoạn “hoạt động tình báo thành công khi biết chắp nối các mẩu thông tin nhỏ bé, mà bản thân chúng có vẻ chẳng có gì quan trọng cả, nhưng khi xếp hàng chục mẩu cạnh nhau, chúng sẽ tạo nên một bức tranh để từ đó các cấp chỉ huy có thể lên kế hoạch”. Các đoạn đề cập đến việc tạo vỏ bọc cũng được gạch chân rất đậm: “Thực ra, cái công việc vỏ bọc mà điệp viên chọn cũng quan trọng không kém câu chuyện vỏ bọc của anh ta. Một cách lý tưởng thì nó sẽ giúp anh ta tiếp xúc trực tiếp với nguồn thông tin mà anh ta tìm kiếm; nhưng nếu điều này không thể, thì nó sẽ cung cấp cho anh ta thời gian và cơ hội để thực hiện việc tiếp xúc gián tiếp”. Điều này cho thấy tại sao Ẩn cho rằng các điệp viên của bác sĩ Trần Kim Tuyến cần phải coi trọng việc tạo vỏ bọc: “Nếu anh coi vỏ bọc chỉ là một nghề giả, một nghề mà anh không thực sự thông thạo, một công việc mà anh không thực sự làm, thì anh sẽ chết, bởi như vậy anh, chẳng có vỏ bọc nào cả”.
Ẩn không chỉ giỏi kỹ năng phân tích dữ liệu; ông còn rất giỏi về tổng hợp sách, như cuốnChiến tranh Hiện đại: Một cách nhìn của Pháp về chống quân nổi ảậy (Modern Warfare: A French View of Counterinsurgency, 1961), cuốn sổ tay hướng dẫn cách đối phó với các chiến thuật lật đổ chính quyền mà quân cách mạng áp dụng. Ông cũng thường xuyên tham khảo bản xuất bản năm 1940 của cuốn Cội rễ của chiến lược: 5 bài học quân sự kinh điển vĩ đại nhất mọi thời đại (Roots of Strategy: The 5 Greatest Military Classics of All Times) do Chuẩn tướng T. R. Phillips soạn. Bộ sưu tập những tài liệu quân sự kinh điển có ảnh hưởng lớn nhất trước thế kỷ 19 còn có Binh pháp của Tôn Tử; Thiết chế quân sự của người La Mã (The Military Institutions of the Romans) của Vegetius; Mộng tưởng của tôi về nghệ thuật chiến tranh (My Reveries upon the Art of War) của Đại thống chế Maurice de Saxe; Chi thị của Frederick Đại đế dành cho các tướng của ông ta (The Instruction of Frederick the Great for His Generals); và Châm ngôn quân sự của Napoleon (The Military Maxims of Napoleon).
Lấy cuốn sách nhàu nát từ trên kệ ở thư phòng, Ẩn hướng sự chú ý của tôi tới các sách của Tôn Tử và Maurice de Saxe. Mở một mục trong cuốn của Tôn Tử, Ẩn bảo tôi đọc đoạn văn sau đây: “Ta ngụy trang thật khéo khiến địch không tìm ra tung tích thì dù gián điệp có vào sâu trong đội hình cũng không biết rõ được quân ta, kẻ địch khôn ngoan mấy cũng chẳng biết cách đối phó với quân ta. Căn cứ vào sự thay đổi tình hình của địch mà vận dụng linh hoạt chiến thuật, dù có bày sẵn thãng lợi trước mất chúng cũng không nhận ra sự ảo diệu của nó. Người ngoài chỉ biết ta dùng phương kế thắng địch chứ không biết ta đã vận dụng phương kế đó thế nào… Dựa vào biến đổi của địch mà chiến thắng thì gọi là dụng binh như thần vậy”. (17)
Trước khi Mỹ tăng cường lực lượng ở khu vực xung quanh Củ Chi, Ẩn thường tới căn cứ của Việt Cộng để thảo luận về các báo cáo của ông và nhận nhiệm vụ mới. Ẩn thực hiện các chuyến đi này theo một cách rất lạ. Ông để ria mép và tóc khá dài nhằm che giấu diện mạo cũng như tạo vỏ bọc cho sự vắng mặt của mình. Ông nói với các đồng nghiệp ở Time rằng “giáo sư tình dục học sẽ đi nghỉ ba ngày ở Huế, nơi có nhiều gái đẹp mê vẻ ngoài nghệ sĩ và phong cách lập dị.
“Chuyện để ria mép là tôi học được từ CIO, không phải kỹ thuật để ria mà là nghiệp vụ phát hiện Việt Cộng”, Ẩn giải thích. “CIO thường tới Củ Chi dò hỏi người dân xem họ có thấy người lạ nào tới đây không. Nếu người ta thấy tôi rồi miêu tả lại cho CIO thì họ cũng không nhận ra, vì nhân viên CIO khi đó sẽ ghi chú là có một người lạ để ria mép. Trên đó không ai biết tên tôi, nên họ chi miêu tả hình dáng”. Điều gì sẽ xảy ra nếu ai đó ở Sài Gòn nhớ ra rằng ông đã để ria mép, tôi hỏi. Ông cười lớn và nói rằng đến lúc thông tin đó được chuyển xuống Sài Gòn cho CIO và họ đi tìm một ai đó phù hợp với miêu tả, thì ông có thể đã từ Huế về lâu rồi và chẳng ai nghi ngờ chuyến này cả, nhưng nếu thực sự họ nhớ ra chuyện để ria, thì ông có thể đáp: “Các ông nói gì thế? Tôi không có ria mép. Nhìn xem này, có đâu? Tôi ra Huế để kiếm gái đẹp, chứ đâu có lên Củ Chi tìm Việt Cộng. Rồi tôi có thể bảo họ tới hỏi ông Nguyễn Cao Kỳ xem - ông ta cũng để ria mép đấy, có lẽ ông ta đã tới Củ Chi!” Chứng cứ ngoại phạm này ông chưa bao giờ phải dùng tới.
Tôi hỏi điều gi sẽ xảy ra nếu nhân viên CIO phát hiện ông ở Củ Chi, Ẩn đáp, “Vậy thì tôi chết chắc”. Khi tôi đọc tài liệu miêu tả Ẩn của William Prochnau, tôi đã thấy rõ tính hiệu quả của vỏ bọc mà Ẩn tạo ra. “Ẩn có thể tinh giản các thủ tục, xử lý nhanh thông tin đề có thể vừa nói chuyện thi ca và triết học vừa hoàn tất bài báo đúng hạn. Có một trợ tá người Việt là rất quan trọng, và Ẩn là trợ tá xuất sắc nhất, ngay cả khi Ẩn biến mất một vài ngày thì ai cũng nghĩ rằng ông này đang có cuộc tình vụng trộm ở đâu đó”. (18) Điều vẫn còn bí ẩn đối với tôi là trong khi rất nhiều người biết được những lần biến mất có tính chu kỳ của Ẩn thì bằng cách nào mà ông lại không bao giờ bị cảnh sát hay lực lượng an ninh, vốn luôn sục tìm những người như ông, bắt gặp. Có lẽ là ông cực kỳ may mắn hoặc câu chuyện vỏ bọc của Ẩn như là một người huấn luyện chó, dân chơi chim quý, hay thậm chí là một gã đào hoa lãng tử cũng đủ để thuyết phục mọi người không dõi theo hành tung của ông.
***
HOẠT ĐỘNG NỔI DẬY Ở MIỀN NAM gia tăng mãnh liệt. Vào nửa cuối năm 1959, mỗi tháng trung bình có hơn một trăm vụ tấn công do các đơn vị du kích nhỏ thực hiện nhằm vào trạm kiểm soát và tháp canh của chính quyền.(19) Số vụ ám sát quan chức chính phủ, cảnh sát và chức sắc làng xã tăng hơn gấp đôi. Số vụ bắt cóc cao kỷ lục. Tại nhiều khu vực ở Đồng bằng sông Mê Kông và Cao nguyên Trung phần, nhiều cuộc “đồng khởi” đã nổ ra tại những làng xã không được kiểm soát. Bạo động và biểu tình lớn do Việt Công tổ chức lan rộng và thường châm ngòi cho các cuộc đàn áp khốc liệt của chính phủ.(20) Một “Báo cáo tình báo đặc biệt”(*) vào tháng 8 năm 1960 đưa ra nhận xét cho rằng đợt bùng nổ này “cho thấy sự gia tăng tâm lý bất bình đối với chính phủ của Diệm”.(21)
______________________
(*) Do Ban thẩm định tài liệu tình báo quốc gia Mỹ (Board of National Estimates) thực hiện.
______________________
Quân lực Việt Nam Cộng hòa không được chuẩn bị tốt để đối phó với đợt bùng nổ các hoạt động du kích này. Từ năm 1954 đến 1960, hai người đứng đầu của MAAG, tướng John w. “Iron Mike” O'Daniel và Trung tướng Samuel T. “Hanging Sam” Williams, chủ yếu tập trung vào việc ngăn chặn các cuộc tấn công chính quy từ bên kia vĩ tuyến 17 và không bao giờ cho rằng các cuộc nổi dậy nội tại có thể đe dọa ổn định ở miền Nam Việt Nam. Bộ binh cơ động nhẹ của Việt Nam Cộng hòa đã được tổ chức lại thành các sư đoàn bộ binh để tương thích với nhiệm vụ và cơ cấu của các kế hoạch quốc phòng Mỹ. Quân lực Việt Nam Cộng hòa được trang bị các phương tiện cơ bản của lục quân, và các cố vấn Mỹ huấn luyện cho họ kỹ năng về chiến tranh chính quy, xuất phát từ lo ngại về viễn cảnh Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ tổ chức một cuộc tấn công như họ đã từng thực hiện để đánh bại người Pháp vào năm 1954 hoặc cuộc tấn công của Bắc Triều Tiên xuống Nam Triều Tiên vào năm 1950.(22)
Tổng thống Eisenhower đã chỉ đạo xây dựng một kế hoạch chống nổi dậy toàn diện. Tháng 8 năm 1960, Trung tướng Lionel C. McGarr thay tướng Williams lãnh đạo MAAG. McGarr từng là sĩ quan chỉ huy tại Trường Sĩ quan Lục quân Mỹ và là tham mưu trưởng tại căn cứ Fort Leavenworth ở bang Kansas, ông là một trong những sĩ quan được vinh danh nhiều nhất thời bấy giờ, với bảy lần nhận Huân chương Chiến thương(*). Ông coi công tác chống nổi dậy như là “những dạng thức khác thường của chiến tranh đòi hỏi phải phát triển những học thuyết và kỹ thuật đặc biệt”. (23) Tổ chức của ông đã nhanh chóng hoàn tất xây dựng “Kỹ thuật và Chiến thuật dành cho các Chiến dịch chống nổi loạn (CIP)”.(24)
______________________
(*) Huân chương trái tim màu tím (Purple Heart) là một danh hiệu của quân đội Mỹ, do tổng thống trao tặng cho những quân nhân bị thương hoặc tử trận khi đang phục vụ quân đội từ sau ngày 5 tháng 4 năm 1917.
______________________
Tài liệu triển khai kế hoạch CIP được mang đến Sài Gòn đầu năm 1961.(25) Gần như ngay lập tức, một bản sao của nó được chuyển tới cho bác sĩ Trần Kim Tuyến, và ông ta đưa cho Ẩn với yêu cầu phân tích tài liệu này để ông có thể nắm bắt được toàn bộ chiến lược mới. Tổng tham mưu trưởng quân đội, Tướng Trần Văn Đôn, cũng đưa cho Ẩn một bản báo cáo, cùng với các tài liệu bổ trợ như Cẩm nang chiến trường 100-5 mang tên Các chiến dịch, trong đó trình bày ý tưởng và hành động tương ứng của các cố vấn Mỹ cũng như cách mà MAAG hình dung Quân lực Việt Nam Cộng hòa sẽ thực hiện cuộc chiến mới như thế nào. Cẩm nang này được chỉnh lý và bổ sung vào tháng 2 năm 1962, cập nhật những công nghệ chiến tranh mới, như các chiến dịch không vận và chiến tranh phi chính quy. Thêm vào đó, Ẩn còn nhận được bản sao của cẩm nang chiến trường 31-15, mang tên Chiến dịch chống lại các lực lượng phi chính quy, xuất bản tháng 5 năm 1961, cung cấp bốn mươi bảy trang gồm chữ viết và sơ đồ về việc xác định mục tiêu và tiêu diệt lực lượng Việt Cộng. Ẩn cũng thường liên lạc với những tư lệnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa trở về từ khóa huấn luyện đặc biệt về chiến lược chống quân nổi dậy tại Trung tâm Chiến tranh Đặc biệt của Lục quân Mỹ đặt ở căn cứ Fort Bragg.

BẮT ĐẦU CUỘC SỐNG KÉP
    
rên khoảnh sân bên hông nhà, ông Ẩn mở những chiếc tủ đựng tài liệu và lấy ra một chồng trong đống tài liệu rách nát ấy. “Giờ thì mấy thứ này đã có ở Trung tâm Việt Nam tại Đại học Công nghệ Texas rồi”, Ẩn cười lớn. “Sau khi tôi chết thì vợ tôi sẽ vứt hết. Chỉ có chúng ta mới quan tâm tới chúng”. Giám đốc của Trung tâm Việt Nam, ông Jim Reckner, là người bạn của cả hai chúng tôi, và đã giới thiệu chúng tôi với nhau mấy năm về trước. Jim và Lê Khanh, một người bạn khác cũng đang làm việc ở trung tâm, đã làm khách ở nhà Ẩn nhiều lần, và tôi biết họ đã đề nghị Ẩn xem xét việc chuyển các tài liệu của ông tới Phòng lưu trữ Việt Nam tại Đại học Công nghệ Texas để có thể bảo quản các tài liệu này cho mai sau.
Không có tài liệu nào trong số Ẩn cho tôi xem hôm đó hoặc bất cứ ngày nào khác được coi là bảo vật của tình báo hoặc chứa đựng các bí mật quân sự quan trọng, nhưng Cộng sản Việt Nam thời đó hiểu biết rất hạn chế về các chiến thuật đang được phát triển để phục vụ cho một loại hình mới của “chiến tranh đặc biệt”. Sự xuất hiện của trực thăng Mỹ và các trận càn của Quân đội Việt Nam Cộng hòa đã gây ra tổn thất nặng nề cho Việt Cộng. Nhiệm vụ của ông Ẩn là phân tích các chiến thuật mới để những nhà lãnh đạo quân sự Cộng sản có thể xây dựng các đối pháp. “Họ tin tưởng tôi nên đưa cho tôi những tài liệu này, kể cả ông Tuyến”, ông Ẩn nói. “Vì thế tôi đọc tất cả, nói chuyện với các cố vấn Mỹ và bạn bè tôi vừa đi huấn luyện về, rồi tôi viết báo cáo, chỉ có vậy thôi. Khi mà tôi đã có tài liệu rồi thì mọi chuyện trở nên đơn giản… Tất cả những gì tôi làm là đọc tài liệu của họ, tham dự các buổi họp báo, lắng nghe người ta nói, đưa ra sự phân tích và sau đó gửi báo cáo vào rừng. Tôi không biết điều gì xảy ra tiếp sau đó cho tới mãi nhiều năm về sau”.
Trong giai đoạn 1961 - 1965, ông Ẩn đã gửi đi hầu như mọi tài liệu quan trọng liên quan đến kế hoạch quân sự và dân sự phục vụ các chiến dịch ở miền Nam. “Nhiệm vụ cho trận Ấp Bắc là cung cấp thông tin về chiến thuật”, ông Mai Chí Thọ, người đã huy động tiền để Ẩn đi Mỹ học, cho biết, “ông Ẩn đã cho chúng tôi biết những chiến thuật mới mà người Mỹ đang triển khai, vì thế chúng tôi đã có thể phát triền phương án đối phó. Những người khác đã xây dựng kế hoạch mới để triển khai các phương án đối phó ấy, và sau đó những người khác nữa chiến đấu anh dũng tại Ấp Bắc, nhưng chính ông Ẩn là người cung cấp những tài liệu và báo cáo giúp thực hiện thành công chiến thuật”. Ẩn cũng nói với tôi điều tương tự khi chỉ cho tôi bản sao luận thuyết năm 1732 của Saxe: “Phân tích chiến lược cũng đòi hỏi phải am hiểu chiến thuật”. “Nhiệm vụ của tôi trong giai đoạn này là giúp họ hiểu được phương thức mới của Mỹ về chiến tranh đặc biệt để họ triển khai chiến thuật mới. Tôi cung cấp bản phân tích; những người khác quyết định cách đánh và nơi đánh”.
Tổng thống đắc cử John Fitzgerald Kennedy tin rằng Edward Lansdale là một trong số ít người Mỹ đủ khả năng tham mưu cho ông về chiến tranh phi chính quy và vai trò của Mỹ ở Đông Dương.(26) Lansdale đã rời Sài Gòn vào năm 1957, năm mà Ẩn đến California, để làm việc tại Văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ trong vai trò phó trợ lý bộ trưởng phụ trách các chiến dịch đặc biệt.
Trong giai đoạn chuyển giao ghế tổng thống năm 1961, Kennedy đã chỉ đạo Lansdale tới Việt Nam để đánh giá toàn bộ hoạt động nổi dậy. Có rất nhiều cuộc gặp cấp cao và thị sát chiến trường trong chuyến thăm đó, nhưng Ẩn nhớ ông và Lansdale có hai lần gặp. Cuộc gặp đầu ít nghi thức hơn. Họ đã tán gẫu về thời gian hai năm của Ẩn ở Mỹ. Sau khi ca tụng vẻ đẹp của vùng duyên hải California, Lansdale hỏi Ẩn có cần gì không thì trong chuyến thăm California tới đây ông ta sẽ kiếm giùm, ông Ẩn nói nếu tiện thì Lansdale ghé đâu đó trên xa lộ 17 Dặm chạy qua Pacific Grove và Pebble Beach kiếm cho ông vài viên tinh hoàn hải cẩu để ngâm rượu Black & White. Ông Ẩn nói với Lansdale rằng thứ rượu này là thuốc cường dương hiệu quả nhất!
Lansdale sau đó đã trở lại tay không, giải thích với Ẩn rằng ông không thể tìm ra phương cách nào buộc lũ hải cẩu đứng yên để thực thi cái nhiệm vụ mà Ẩn giao.
Cuộc nói chuyện thứ hai của họ nghiêm túc hơn. Lansdale, lúc này đã được biết Ẩn làm việc cho bác sĩ Tuyến, rất quan tâm tới đánh giá của Ẩn vẻ tình hình nổi dậy. Ông Ẩn nói với Lansdale đúng những gì mà ông đã nói với Tuyến. “Tôi không có lý do gi để nói dối với Lansdale về điều này, đặc biệt là tôi biết chắc ông ta sẽ nói chuyện với Tuyến. Tôi cần phải nhất quán và khách quan trong phân tích của mình”, Ẩn nói. “Tồi quen Lansdale đã lâu. Ông ấy là bạn tôi, và việc chúng tôi nói với nhau mấy chuyện đó cũng là lẽ thường. Tôi nói với Lansdale điều mà tôi nghĩ, còn ông ấy cũng chia sẻ những nhận định của ông ấy. Lansdale đã cung cấp cho tôi những thông tin quý giá. Ông ấy luôn chỉ vẽ cho tôi và tôi luôn láng nghe. Lansdale bảo tôi nên đọc cuốn “Tâm lý chiến” của [Paul] Linebarger.(27) Tôi học được từ Lansdale rất nhiều điều về chống nổi dậy, nhiều phương cách chiến đấu chống Cộng và về Sherman Kent”.
Điều mà Lansdale không biết đó là mọi thứ ông Ẩn nắm được đều sẽ được gửi ra Hà Nội. “Năm 1962, Hai Trung gửi ra hai mươi bốn cuộn phim của tất cả các kế hoạch liên quan tới chiến lược Chiến tranh Đặc biệt của Mỹ”, Mười Nho, cấp trên trực tiếp của Ẩn hồi đó, kể. “Trong đó bao gồm kế hoạch tổng thế của cuộc chiến, các tài liệu về xây dựng lực lượng quân sự, sự hỗ trợ của quân Mỹ, kế hoạch lập ấp chiến lược, kế hoạch tái chiếm vùng giải phóng và kế hoạch củng cố lực lượng ngụy quân bằng trang thiết bị quân sự của Mỹ”. (28)
Ông Mười Nho tự tay rửa phim; và ông run lên khi thấy toàn bộ báo cáo của Staley và Taylor hiện ra trước mặt. “Có cả tỉ đôla cũng không thể mua được những tài liệu như vậy. Việc hiểu địch đã giúp ta có kế hoạch chủ động đối phó, các đợt càn quét dữ dội của quân ngụy sau đó hầu hết chỉ nhằm vào chỗ trống… Thất bại hoàn toàn trong trận Ấp Bắc đã buộc Mỹ phải chấm dứt theo đuổi kế hoạch chiến tranh đặc biệt và tìm kiếm một chiến lược mới”.(29)
Khi tôi hỏi Mai Chí Thọ rằng ông ta đánh giá đóng góp nào của Phạm Xuân Ẩn là quý giá nhất, ông ta đã khiến tôi ngạc nhiên khi nói, “Ông Ẩn gửi cho chúng tôi mọi thứ về chương trình bình định hóa, ấp chiến lược, nhờ đó mà chúng tôi có thể lập đối pháp để đánh bại họ”. Nhưng ông Ẩn đã không nhận được huân chương nào cho các hoạt động đó, tôi bảo. Ông Thọ cười. “Còn rất nhiều công trạng mà ông Ẩn lập nên xứng đáng được thưởng huân chương nữa, nhưng tôi cho rằng đây là đóng góp quan trọng nhất bởi tầm chiến lược của nó”.
Hơn hai mươi năm sau, Lansdale đã cảm thấy rất khó chấp nhận thực tế rằng ông Ẩn làm việc cho phía bên kia. Năm 1982, Bob Shaplen viết thư cho Lansdale để kể về một bài báo của Stanley Karnow trong đó nhận diện Ẩn là một người có cuộc sống hai mặt. Lansdale hồi đáp, “Tôi không biết điều Karnow nói về Ẩn và Phạm Ngọc Thảo. Nhưng tôi sẽ hoài nghi bất cứ thứ gì ông ta nói về những người Việt này. Tôi tin là ông biết rõ hơn. (30)
Cuối tháng 1 năm 1961, Lansdale trở về Washington để họp với Kennedy và các cố vấn cấp cao của tổng thống. Sau khi nói với Kennedy rằng “Cộng sản cho rằng 1961 là năm của họ”, Lansdale đã hối thúc chính quyền ủng hộ Diệm bằng cái mà ông gọi là “niềm tin bằng hữu”. Kennedy chấp thuận hầu hết các đề xuất của Lansdale bằng cách duyệt 28,4 triệu đôla để nâng quân số của Việt Nam Cộng hòa thêm hai mươi ngàn quân và 12,5 triệu đôla để cải thiện lực lượng bảo an. Kennedy đã phê chuẩn Kế hoạch chống nồi dậy cho Việt Nam, tài liệu mà sau này Ẩn đã có được. Vào tháng 5, Phó tổng thống Lyndon Johnson thăm Việt Nam ba ngày, ông gọi Diệm là Winston Churchill của Việt Nam cũng như so sánh ông này với George Washington, Woodrow Wilson, Andrew Jackson, và Franklin D. Roosevelt. Sau này, khi Stanley Kamow hỏi rằng ông có thực sự tin vào điều mà mình từng nói hay không, Lyndon Johnson đã đáp, “Hừm, Diệm là thằng nhóc duy nhất mà chúng ta có ở đó”. (31)
Thuật ngữ chiến tranh đặc biệt bao hàm các biện pháp và hoạt động quân sự cũng như bán quân sự liên quan tới chiến tranh phi chính quy, chống nổi dậy và tâm lý chiến. Theo lời của chính Kennedy thì, “Để thắng cuộc chiến, các sĩ quan và binh sĩ của chúng ta phải hiểu và kết hợp giữa hoạt động chính trị, kinh tế, và dân sự với những nỗ lực quân sự thuần thục trong khi thực thi sứ mệnh này”. Chương trình chống nổi dậy cung cấp cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa thêm nhiều cố vấn, trực thăng và thiết xa để tăng tính cơ động trên chiến trường trong các chiến dịch chống nổi dậy, bao gồm cả vai trò quan trọng của công tác huấn luyện cho lực lượng Nam Việt Nam về chiến thuật mới.(32) Chống nổi dậy còn được bổ sung các chương trình ấp chiến lược, rải hóa chất và chất gây rụng lá xuống các khu vực du kích đóng quân và thiết lập các doanh trại của Lực lượng Đặc biệt vốn có vai trò được giới hạn trong hoạt động huấn luyện biệt kích cho Nam Việt Nam.
Với niềm tin rằng cần có những ý tưởng mới mẻ về Việt Nam, Kennedy đã cử sang một nhóm nghiên cứu kinh tế, dẫn đầu là Tiến sĩ Eugene Staley của Viện Nghiên cứu Stanford. Báo cáo của họ nhấn mạnh đến tác động không tách rời của viện trợ kinh tế và quân sự lên tình hình an ninh tại Việt Nam, nhận diện Việt Cộng là một kẻ thù “tàn bạo, tài giỏi và khó lường”, đòi hỏi phải “huy động toàn bộ nguồn lực kinh tế, quân sự, tâm lý và xã hội của đất nước này và sự giúp đỡ mạnh mẽ từ phía Mỹ”. (33)
Ngay khi Staley từ Sài Gòn trở về, Tổng thống Kennedy đã thông báo rằng Tướng Maxwell D. Taylor sẽ thăm Việt Nam với tư cách là đại diện auân sự của tổng thống. Taylor được tháp tùng bởi Walt W. Rostow, Chủ tịch Hội đồng Hoạch định Chính sách của Bộ Ngoại giao. Đoàn tới Sài Gòn vào ngày 18 tháng 10 và dành một tuần tập trung vào vấn đề triển khai quân tại Việt Nam. “Ngay khi vừa đến, Taylor và Rostow đã nhận ra rằng tình hình tồi tệ hơn so với hình dung của họ”.(34) Taylor cho rằng đây “là giai đoạn đen tối nhất kể từ những ngày đầu năm 1954… Không cường điệu khi nói rằng tinh thần của cả dân tộc đang suy sụp”.(35) Các cuộc tấn công và đột nhập thành công trong thời gian gần đó của Việt Cộng khiến cho Taylor và các thành viên đoàn công tác nhận thấy rằng cách duy nhất để cứu Diệm là đưa quân Mỹ vào.
Bản báo cáo Taylor-Rostow cuối cùng, đề xuất một kế hoạch toàn diện về việc Mỹ hóa cuộc chiến, được trình bày trước Kennedy vào ngày 3 tháng 11.(36) Mô tả một “cuộc khủng hoảng kép về niềm tin” trong cả quyết tâm của Mỹ lẫn năng lực của Diệm, Taylor đã thúc đẩy sự dấn thân sâu hơn của Mỹ bằng lời kêu gọi đưa tám ngàn lính lục quân, kỹ sư thiết yếu và nhân viên hậu cần, cùng các đơn vị lính chiến vào Đồng bằng sông Mê Kông để thiết lập nền tảng an ninh. Lực lượng hỗn hợp tám ngàn người này sẽ hoạt động dưới vỏ bọc cứu trợ nhân đạo cho khu vực rộng lớn bị ngập lụt tại đồng bằng, nhưng thực ra là để tạo ra “một biểu tượng rõ ràng về sự nghiêm túc trong các ý định của Mỹ”.(37) Taylor tin rằng những đội quân ấy có thể “được lệnh tham chiến để tự bảo vệ mình, bảo vệ cho các đối tác làm việc và cho khu vực họ đóng quân”. Taylor có vẻ không lo ngại về “những nguy cơ sa lầy vào một cuộc chiến lớn ở châu Á”, vốn là “món quà” nhưng “không ấn tượng”.
Theo cách nhìn của Hà Nội, những chuyến thăm công khai này gây ra quan ngại đặc biệt lớn. Đây là đánh giá trong một ấn phẩm của Cộng sản vào năm 1965: “Miền Nam đã trở thành nơi để quân đội Mỹ thực hành chiến thuật chống quân nổi dậy, một cuộc chiến thực nghiệm mà trước đây nước Mỹ chưa bao giờ triển khai".(38)
Ông Ẩn tiết lộ với tôi rằng Tướng Giáp rất lo ngại nên đã cử hai phái đoàn đến Moscow để bàn bạc với các lãnh đạo quân đội Liên Xô về phương cách chống chiến tranh đặc biệt của Mỹ, nhưng lúc bấy giờ người Nga chỉ biết tới chiến tranh chính quy. Ông Giáp sau đó đã cử một đoàn tới gặp các tư lệnh quân sự Trung Quốc từng chiến đấu chống lại quân Đồng Minh tại Triều Tiên, nhưng họ cũng chẳng giúp ích được gì nhiều. “Tôi là người đã làm việc đó. Tôi giúp họ hiểu về phương thức chiến tranh mới của Mỹ, và điều đó đã khiến ông Giáp rất vui mừng. Đã có hai kế hoạch thất bại, và rồi tôi giúp xây dựng chương trình đối phó”.
NGÀY 28 THÁNG 12 NĂM 1962, Sư đoàn 7 Bộ binh Việt Nam Cộng hòa, đóng tại Đồng bằng sông Mê Kông, được lệnh thu giữ một máy truyền sóng vô tuyến của PLAF (Quân Giải phóng nhân dân) hoạt động gần làng Ấp Bắc, vốn đang được một đơn vị Việt Cộng nhỏ với chừng 120 tay súng bảo vệ. Cố vấn cấp cao người Mỹ của Sư đoàn 7 Quân lực Việt Nam Cộng hòa là John Paul Vann, người đã ở Việt Nam trong tám tháng và chưa từng giáp mặt kẻ thù. Trung tá lục quân Vann là một trong những nhân vật huyền thoại của Chiến tranh Việt Nam. Ông tử nạn trong một vụ rơi trực thăng tại Việt Nam vào ngày 9 tháng 6 năm 1972.(39)
Vann ngứa ngáy muốn tham gia trận đánh để ông ta có thể đánh giá xem các tư lệnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã hấp thu các bài huấn luyện của ông tới mức nào. Ở phía bên kia, viên tư lệnh Việt Cộng cũng đã chuẩn bị giáng một đòn vào các máy bay trực thăng Mỹ. Sự xuất hiện của đại đội trực thăng vận đầu tiên của Mỹ vào tháng 12 năm 1961 đã gây ra nhiều khó khăn cho du kích quân, tương tự như các “trận càn” bạo liệt do Quân lực Việt Nam Cộng hòa thực hiện vào ban ngày quét qua các làng mạc để truy bắt Quân giải phóng. “Lúc bấy giờ chúng tôi không biết cách nào để chống lại trực thăng và thiết xa”, ông Mai Chí Thọ nói với tôi. “Ông Ẩn đã cung cấp các thông tin giúp chúng tôi xây dựng một lối đánh ở tầm chiến thuật”.
Giờ đây, được trang bị một kế hoạch chiến lược mới, Quân giải phóng đã sẵn sàng chọi lại trực thăng. Vài tuần trước, để tính toán tầm bắn hiệu quả nhất, họ đã tập luyện tại vùng Đồng Tháp Mười với mục tiêu là mô hình trực thăng Shawnee và Huey làm bằng giấy bìa gắn trên cọc tre để mô phỏng các đặc điểm bay của chúng.(40) “Một trong những sự kiện hiếm hoi, trong cuộc xung đột với những chuỗi đụng độ dường như không bao giờ ngơi nghỉ vốn có vẻ như không có ý nghĩa thực chất nào, sắp sửa xảy ra - đó là một trận đánh quyết định có thể ảnh hưởng tới cục diện của cuộc chiến tranh”, Neil Sheehan viết. “Giờ đây Việt Cộng đang vùng dậy chiến đấu”.(41)
Tin tức tình báo của Vann đã sai; không phải là một đại đội 120 người, ông ta đã đối mặt với Tiểu đoàn 261 chính quy của Việt Cộng với 320 quân được sự hổ trợ của 30 dân quân. Nhưng Quân lực Việt Nam Cộng hòa vẫn vượt trội về số lượng lẫn phương tiện. Một tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 7 Bộ binh gồm 330 binh sĩ, được yểm trợ bởi hai tiểu đoàn bảo an và một đại đội gồm mười ba xe thiết giáp chở quân M-113, thêm vào đó là một đại đội bộ binh cùng xe bọc thép chở quân (APC) mười tấn được Việt Cộng gọi là “rồng xanh”. Tổng quân số lên tới hơn 1.000.(42)
Mới bước vào trận, quân Việt Nam Cộng hòa ngay lập tức đã hứng chịu tổn thất về nhân mạng và các sĩ quan chỉ huy đã gọi quân tiếp viện từ làng Tân Hiệp gần đó. “Mười trực thăng Shawnee và năm trực thăng tấn công Huey thế hệ mới” bay đến.(43) Khi chúng vừa tới Ấp Bắc, chiếc lưới đã được bủa ra với hàng loạt đạn được bắn lên từ dưới các hàng cây trên bờ đê. Trong vòng vài phút, mưòi bốn trong số mười lăm trực thăng bị bắn trúng, bốn chiếc rơi, trong đó có một chiếc Huey, và ba người Mỹ thiệt mạng. Quân Việt Nam Cộng hòa vẫn còn cơ hội cứu vãn tình hình bởi Việt Cộng đã bị bao vây và lối rút quân duy nhất là băng qua cánh đồng phía đông. Vann vội điều động thiết xa nhưng Diệm trước đó đã ban lệnh rằng không ai được tham chiến nếu không được Sài Gòn trực tiếp chuẩn thuận, ông cũng chỉ đạo tất cả tư lệnh các quân đoàn và sư đoàn là phải tránh tổn thất lớn về nhân mạng. Ai không tuân theo chỉ thị đơn giản này sẽ không được thăng cấp. Viên tư lệnh Việt Nam Cộng hòa ở đấy đã không chấp hành chỉ đạo của Vann về việc bít đường rút quân của Việt Cộng. Khi hoàng hôn xuống, quân Việt Cộng rút lui.
Vann coi trận này là bằng chứng cho thấy đội quân mà ông được giao nhiệm vụ huấn luyện kém năng lực một cách tệ hại. “Một thành tích quá tồi tệ. Những người này không chịu nghe lệnh. Bọn họ cứ lặp đi lặp lại những lỗi chết tiệt”. (44) Trận đánh cho thấy những binh sĩ chiến đấu cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa sẽ chết uổng mạng nếu đặt họ dưới sự chỉ huy của mấy viên tướng bất tài và chuyên nịnh hót mà Diệm đã đưa vào các vị trí chủ chốt. “Trận Ấp Bắc đã bộc lộ cái chính sách thăng tiến và bổ nhiệm vào thành phần lãnh đạo Quân lực Việt Nam Cộng hòa mà chỉ dựa vào lòng trung thành với Diệm chứ không dựa trên năng lực nghiệp vụ là hoàn toàn sai lầm”, ông Ẩn nói với tôi. Tướng Huỳnh Văn Cao, người được Diệm tin tưởng là nhân vật trung thành nhất với gia đình họ Ngô và đã được thăng cấp rất nhanh, đã bộc lộ cả sự bất tài và hèn nhất, “ông Diệm có những vị tướng chưa bao giờ hoàn thành nhiệm vụ nhưng vẫn được thăng cấp bởi họ từng hôn tay Nhu và Diệm. Ấp Bắc là nơi những con gà trống đầu tiên về nhà”, Ẩn nói kèm theo nụ cười và nhìn vào bộ sưu tập chim của ông.
Báo cáo tổng kết trận chiến của Vann là bản cáo trạng đối với tư lệnh ở tất cả các cấp vì họ đã không hành động quyết đoán và không khích lệ binh sĩ của mình. Cố vấn cấp cao của Mỹ, Đại tá Daniel B. Porter, coi Báo cáo tổng kết này “có lẽ là bản nhiều tư liệu nhất, toàn diện nhất, có giá trị nhất và tiết lộ nhiều vấn đề nhất trong tất cả các bản báo cáo” từng được trình lên trong năm vừa qua.(45)
Không thể đánh giá thấp ý nghĩa của trận Ấp Bắc đối với Quân giải phóng ở miền Nam và uy tín của Ẩn tại Hà Nội. Ấp Bắc trở thành một lời hiệu triệu, và Trung ương cục miền Nam đã phát động một phong trào “Thi đua Ấp Bắc”(*) trên khắp miền Nam Việt Nam. Báo cáo đánh giá tình báo đặc biệt của CIA vào ngày 17 tháng 4 năm 1963 kết luận rằng “Việt Cộng đã cho thấy họ là một kẻ thù đáng gờm và là lực lượng du kích hiệu quả… Họ đã chứng tỏ sự linh hoạt trong việc điều chỉnh chiến thuật để đối phó với mô thức chiến dịch kiểu mới của Nam Việt Nam… Một nhân tố quan trọng góp phần vào thành công này chính là hệ thống tình báo hiệu quả của họ. Những người mật báo và có cảm tình với họ có mặt khắp vùng nông thôn, và rõ ràng Việt Cộng đã duy trì được mạng lưới tình báo phủ sóng ở mọi cấp trong hệ thống quân sự và dân sự của Nam Việt Nam”. (46)
Có lẽ đánh giá rõ ràng nhất là bản Báo cáo tổng kết sau trận Ấp Bắc của chính Quân giải phóng, thường được biết đến với tên gọi “Tài liệu Việt Cộng về Trận Ấp Bắc, ngày 2 tháng 1 năm 1963”.(47) Tài liệu này thu được từ đối phương và được dịch ra tiếng Anh rồi lưu hành tại tổng hành dinh của MACV vào cuối tháng 4 năm 1963. Phía Việt Cộng coi “trận chống càn vào ngày 2 tháng 1 năm 1963” là một “thắng lợi to lớn của quân và dân ta… Chiến thắng trong trận chống càn Ấp Bắc cho thấy quản ta đã lớn mạnh về kỹ và chiến thuật… Thắng lợi này cũng cho chúng ta thấy rõ các lợi điểm về chiến thuật của kẻ thù”.
Với những đóng góp trong trận Ấp Bắc, Ẩn về sau đã nhận Huân chương Chiến công đầu tiên trong bốn huân chương loại này mà ông được trao tặng. Chỉ có hai tấm huân chương được trao tặng cho trận đánh vào thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh này, một được trao cho Nguyễn Bảy(**) một chỉ huy thuộc Quân giải phóng nhân dân, và tấm còn lại được trao cho phóng viên của Reuters, Phạm Xuân Ẩn, vì những báo cáo mà ông gửi về đã giúp thay đổi tính chất của cuộc chiến.
______________________
(*) Phong trào này có tên gô “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công”
(**) Nguyễn Bảy, tên thật là Đặng Minh Nhuận (còn có tên là Đoàn Triết Minh, Bảy Đen), là Đại đội trưởng Đại đội 1, Tiểu đoàn 261, chỉ huy trực tiếp trong trận Ấp Bắc. Ngày 30-8-1963, ông chỉ huy bộ đội tiến công và tiêu diệt đồn Thạnh Nhựt (nay thuộc huyện Gò Công Tây, tinh Tiên Giang), ông bị thương nặng trong quá trình công đồn và không qua khỏi.
______________________
Thật trớ trêu là tấm Huân chương Chiến công đầu tiên của Ẩn, cũng như tấm thứ ba cho những đóng góp của ông vào Tổng tấn công Mậu Thân 1968, đều đánh dấu những thời điểm bước ngoặt trong hoạt động đưa tin về cuộc chiến. Trận Ấp Bắc là thời điểm bùng phát của cơn thù nghịch âm ỉ giữa báo chí và Phái bộ quân sự Mỹ ở Sài Gòn, vốn luôn khăng khăng phe mình đã thắng trận. “Tôi không hiểu tại sao có người lại coi trận Ấp Bắc là một thất bại”, Tướng Paul Harkins, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Viện trợ quân sự của Mỹ tại Việt Nam (MACV), nói. “Lực lượng của Chính phủ đã xác định mục tiêu (là máy truyền sóng vô tuyến), chiếm được mục tiêu đó, rồi Việt Cộng rút lui và thương vong của chúng lớn hơn tổn thất bên phía quân Chính phủ - Quý vị còn muốn gì nữa?”. Khi Peter Amett của hãng tin AP đặt một câu hỏi khó tại một cuộc họp báo sau trận Ấp Bắc, Đô đốc Harry D. Felt đã độp lại: “Trở về hàng ngũ đi”.
“Trước trận Ấp Bắc”, Sheehan viết, “chính quyền Kennedy đã thành công trong việc ngăn dân chúng có một sự hiểu biết rõ ràng rằng đất nước này đã can dự vào một cuộc chiến tranh ở một xứ sở gọi là Việt Nam… Thế rồi trận Ấp Bắc đã đưa Việt Nam lên trang nhất các tờ báo và trong các bản tin truyền hình buổi tối nhiều tới mức không có sự kiện nào sánh bằng”.(48) Các phóng viên như Neil Sheehan và David Halberstam đã tới Ấp Bắc và biết chuyện gì xảy ra ở đấy. “Ấp Bắc đã châm ngòi cho sự phân rã của chế độ Ngô Đình Diệm”, ông Ẩn nói. “Chúng tôi biết điều đó và chẳng bao lâu sau mọi người đều biết”.
Sếp của Ẩn là Nick Turner cùng với Sheehan có mặt tại chiến trường, tận mắt chứng kiến xác những chiếc trực thăng Mỹ bị bắn hạ và xác binh sĩ Việt Nam Cộng hòa. Halberstam được đưa đến hiện trường bằng một máy bay nhỏ. “Tôi không bao giờ quên được vẻ mặt (của Ẩn) khi ông ấy lao vào phòng với những tin tức về Ấp Bắc”, Nick Turner hồi tưởng, “và nhấn mạnh tầm quan trọng của trận này, trước khi những bản tin đầu tiên được truyền về”. (49)
Ồng Ẩn cũng nhanh chóng đến Ấp Bắc bằng máy bay trực thăng dành cho báo chí vào ngày 3 tháng 1. “Tôi tới đó trong vai trò là phóng viên, giúp các đồng nghiệp hiểu điều gì đã xảy ra cũng như để chứng kiến tận mắt”, Ẩn, với vỏ bọc cho phép ông được coi là một thành viên phe này, kể lại. “Những người bạn thân nhất của chúng tôi đều làm cho các báo như bản thân chúng tôi”, David Halberstam viết trong cuốn Tạo ra vũng lầy. “Phạm Xuân Ẩn của Reuters, Nguyễn Ngọc Rao của UPI, Võ Huỳnh của NBC và Hà Thúc Cần của CBS. Họ là những người xuất sắc… Họ đều có ý thức sâu sắc về công việc của một phóng viên… Họ đều kiêu hãnh; họ là những thành viên tự do hiếm hoi của một xã hội khép kín, và có lẽ họ còn cảm thấy bị xúc phạm nhiều hơn chúng tôi khi bất cứ ai đó tìm cách nhồi nhét cho họ những câu chuyện láo toét”. (50)
Ấp Bắc làm thay đổi phương cách tiếp cận lẫn nhau giữa báo chí và chính quyền. Có vẻ như MACV luôn thể hiện rằng cuộc chiến đang tiến triển thuận lợi, rằng sức mạnh của quân địch sa sút, rằng có thêm nhiều thôn ấp được kiểm soát, vùng nông thôn đã được bình định, nhưng các phóng viên ở đấy thì không thấy vậy. Phóng viên Malcolm Browne của AP nhanh chóng nhận ra rằng để có được một câu chuyện chân xác ở Sài Gòn đòi hỏi “những phương pháp không mấy thoải mái gần giống với cách thức hoạt động của gián điệp chuyên nghiệp. (51) Cuộc chiến thông tin đã đặt đội ngũ nhà báo đối chọi với lời khẳng định cuộc chiến đang tiến triển thuận lợi của tổng thống, đại sứ quán và MACV. Tình hình rất khốc liệt dưới thời Kennedy, và mọi sự càng tồi tệ hơn khi chiến tranh trở thành cuộc chiến của người Mỹ. Khi có các phóng viên chuẩn bị đến Việt Nam, Lyndon Johnson thường bảo họ: “Đừng có giống mấy tay Halberstam và Sheehan nhé. Bọn chúng là những kẻ phản quốc”.(52)
Cánh báo chí trở thành mục tiêu đặc biệt của bà Ngô Đình Nhu, thường được gọi là Bà Nhu, em dâu của ông Diệm, người mà sự kiêu căng đã trở thành biểu tượng của chế độ họ Ngô. Được biết đến với biệt danh “Rồng cái Việt Nam Cộng hòa” bởi tinh thần chống Phật giáo kịch liệt và ủng hộ Công giáo mãnh liệt, Bà Nhu tố cáo Phật giáo đã bị Việt Cộng cài cắm. Khi một nhà sư ở Huế tự thiêu để phản đối, bà đã tố cáo rằng chính các chức sắc Phật giáo “nướng” vị sư kia, và cả sau này nữa, đã dựa dẫm vào viện trợ từ nước ngoài bởi xăng là mặt hàng nhập khẩu. Sau khi nổ ra thêm nhiều hành động chống đối nữa, bà lại tuyên bố, ''Tôi sẽ vỗ tay hoan nghênh các vụ tự thiêu”.
Cuộc chiến nhằm vào báo chí tại Sài Gòn đã lên đến đỉnh điểm vào mùa hè năm 1963 khi phóng viên trưởng của Time tại Sài Gòn, Charles Mohr, thực hiện một bài viết chỉ trích Bà Nhu. Lúc bài viết được chuyển về New York, nó đã va chạm với quan điểm về thế giới của Henry Luce. Bài báo đã được sửa lại, chọc giận Mohr bởi toàn bộ kết luận của ông đã được sửa đổi đến mức có vẻ như ông ủng hộ lập trường của chính quyền rằng không tìm được phương án thay thế Diệm.
Vài tuần sau, Time công kích các phóng viên tại Sài Gòn bằng lời buộc tội rằng cánh nhà báo tại hiện trường “thay vì gỡ rối thì lại đang góp phần làm cho độc giả ở quê hương rối tinh rối mù”. Time tố cáo các phóng viên suốt ngày ngồi ở “quầy rượu trên lầu tám khách sạn Caravelle” và đưa ra những lời kết tội, các thông tin không xác thực và những lời ta thán. Kết quả là “các phóng viên có xu hướng hoàn toàn đồng ý với nhau về hầu hết những gì mình thấy. Nhưng sự đồng thuận đó là rất đáng ngờ bởi vì nó rõ ràng là xuất phát từ một mối. Các nhà báo đã biến mình thành một phần trong mớ hỗn độn về Nam Việt Nam; họ đã đưa tin về một bối cảnh phức tạp với chỉ một góc nhìn duy nhất, cứ như thể kết luận của riêng họ đã làm sáng tỏ mọi vấn đề cần thiết”. (53)
Trước khi xảy ra trận Ấp Bắc, hầu hết các phóng viên tại Sài Gòn đều ủng hộ mục tiêu của chính quyền đối với vấn đề Việt Nam. David Halberstam sau đó đã thay đổi quan điểm về cuộc chiến, cho rằng “sự thật, và sau bao năm vẫn còn nguyên vẹn trong tôi một sự thật đau đớn, là giới truyền thông chúng tôi sai lầm không phải bởi quá bi quan, mà là không đủ bi quan… Chúng tôi không bao giờ tìm cách đưa vào các bài viết của mình những điều mà cuộc chiến tranh thời Đông Dương thuộc Pháp đã gây ra đối với Việt Nam, và bằng cách nào nó đã tạo ra một xã hội hiện đại năng động ở miền Bấc và bằng cách nào nó đã mang đến cho chúng ta một trật tự giãy chết thời hậu phong kiến… [tội lỗi của chúng tôi] không phải nằm ở chỗ chúng tôi thiếu lòng yêu nước hoặc chúng tôi coi thường một mục đích dân tộc cao cả khác - mà nằm ở chỗ ngay từ đầu chúng tôi đã không viết rõ ra rằng đây là một cuộc chiến bất khả thi”. (54)
Chính quyền trở thành nơi mà phóng viên không thể coi là nguồn tin để phục vụ các bài viết về sự thật của cuộc chiến. Tinh trạng thiếu thông tin đáng tin cậy đã cho phép Phạm Xuân Ẩn nhanh chóng củng cố vỏ bọc nhà báo của mình bởi ông có thể cung cấp cho các phóng viên tại Sài Gòn những thứ mà họ cần, đồng thời lấy được những thông tin phục vụ các báo cáo chiến lược của chính ông rồi gửi vào rừng.
Vào giai đoạn này, chế độ Diệm đang đứng trước bờ vực phá sản, từ chối những quyền tự do cơ bản của Phật giáo và cắt giảm mọi thứ, trừ lòng trung thành tuyệt đối vào gia đình họ Ngô. Năm 1962, bác sĩ Trần Kim Tuyến, cũng giống như Nguyễn Thái và nhiều người khác, không còn chịu đựng nổi sự khuynh loát của Bà Nhu trong chính trường. Trong một lá thư dài trình lên ông Diệm, Tuyến hối thúc Diệm gạt bỏ Bà Nhu ra khỏi trung tâm sân khấu chính trị. Khi người em trai của tổng thống và là chồng của Bà Nhu, ông Ngô Đình Nhu, biết được lá thư ấy, số phận của Tuyến coi như đã bị định đoạt. Tuyến bị điều đi làm tổng lãnh sự ở Cairo, nhưng Nhu quản thúc tại gia cả gia đình ông ta tại Sài Gòn. Trước khi rời Sài Gòn, Tuyến đã đưa ra một kế hoạch đảo chính chi tiết và chia sẻ với ông Ẩn cùng những người khác. Tuyến không tới Cairo mà quyết định sang Hồng Kông để quan sát tình hình, đợi ngày trở về Sài Gòn sau khi chính quyền Diệm sụp đổ.
Một trợ lý thân tín khác của Tuyến là Ba Quốc (bí danh của Thiếu tướng tình báo Đặng Trần Đức) vượt qua một vài vòng kiểm tra nói dối và sau đó được chuyển qua cơ quan CIO mới được thành lập, nơi ông được đặt biệt danh là “Tá Bụt” vì ông “hiền như Bụt”. Ba Quốc trở thành trợ lý của giám đốc Cục tình báo Quốc nội. Ông đã tiếp cận được những tài liệu tối quan trọng của mạng lưới tình báo Việt Nam Cộng hòa. Đây là một bằng chứng nữa cho thấy gián điệp của Cộng sản Bắc Việt đã đột nhập thành công thực sự vào mọi cấp trong xã hội miền Nam Việt Nam, bao gồm cả các cơ quan tình báo Việt Nam Cộng hòa vốn có nhiệm vụ tiễu trừ Việt Cộng. Trong khi đó thì có vẻ như không có một điệp viên đối thủ ngang tầm Phạm Xuân Ẩn hoặc Ba Quốc hoạt động ở miền Bắc, đó có lẽ là lý do tại sao tình báo Mỹ từng cố gắng chiêu mộ Ẩn vào CIA hai lần nhưng đều thất bại.
Ba Quốc không hề biết Ẩn đang hoạt động ngầm: “Tôi quen với Hai Trung, nhưng chỉ biết anh ta là một nhà báo có ảnh hưởng rất lớn đang làm việc cho người Mỹ và có nhiều quan hệ… Vì biết anh ta là người có ảnh hưởng lớn nên tôi muốn tạo quan hệ để moi tài liệu. Tôi bảo cáo lên cấp trên về ý định này nhưng rồi nhận được chi thị không được liên lạc với anh ta”. Ẩn cũng không hề biết tới vai trò thực sự của Ba Quốc.(55)
Có lẽ trường hợp đáng ngạc nhiên nhất trong lĩnh vực tình báo là câu chuyện của Đại tá Phạm Ngọc Thảo, người có nhiệm vụ tạo bất ổn cho chính quyền chống Cộng ở miền Nam Việt Nam. Thảo cũng trở thành một chuyên gia đảo chính nổi tiếng, thường họp tác với bác sĩ Tuyến và các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa, làm tất cả mọi việc mà ông ta có thể thực hiện được để làm giảm uy tín chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Shaplen mô tả Thảo là “nhân vật cách mạng đầy mưu mô bước ra từ tiểu thuyết của Malraux”. (56)
Thảo và Ẩn là bạn, và cho dù Ẩn có biết về sứ mệnh của Thảo nhưng ông không bao giờ hé lộ một lời về điều đó với Thảo, người đồng thời cũng là bạn của bác sĩ Tuyến và Bob Shaplen. Thảo hoạt động trong vai trò một trong những trợ tá đáng tin cậy nhất của Diệm và thường được ca ngợi rộng rãi như là chiến binh chống Cộng thành công nhất. Sau khi chứng kiến việc làm của Thảo ở tỉnh Bến Tre, nơi Cộng sản hoạt động mạnh, Shaplen đã viết một bài ca ngợi các kỹ năng chống nổi dậy của ông.
Xuất thân từ một gia đình gia giáo theo Công giáo ở miền Nam, Thảo được cha mẹ giới thiệu với Ngô Đình Thục, anh trai của Diệm và lúc bấy giờ đang là giám mục giáo phận Vĩnh Long. Thảo thuyết phục người anh cả của Diệm rằng ông hoàn toàn tin tưởng vào sự nghiệp chống Cộng và mong muốn được phục vụ Diệm hết khả năng. Nhiệm vụ của Thảo đã được cấp cao nhất là Bộ Chính trị chấp thuận. Thảo được cử sang tu nghiệp tại Trường Sĩ quan tại Kansas và sau đó được thăng hàm đại tá. Ông làm tư lệnh Địa phương quân tại tỉnh Vĩnh Long, rồi tư lệnh Địa phương quân ở tỉnh Bình Dương, sau về làm tỉnh trưởng tỉnh Bến Tre.
Thảo trở thành một trong những ủng hộ viên nhiệt tình nhất của chương trình khu trù mật, kiểu làng tự quản hiện đại nhằm mục tiêu chia cách quân nổi dậy với dân chúng bằng cách đẩy nông dân vào những khu làng rộng lớn, có hàng rào và hệ thống phòng thú vững chắc để tạo điều kiện cho chính quyền bảo vệ họ. Thảo biết chương trình này sẽ khiến nông dân oán hận, đó là lý do tại sao ông ủng hộ nó mạnh mẽ nhất.(57) Nông dân ghét khu trù mật vì nhiều lý do, đầu tiên là việc họ bị buộc phải tham gia xây dựng làng xong mới rời nhà để vào đấy ở. Chương trình này đã làm dấy lên làn sóng phản đối và chán ghét chính quyền Diệm. Khi chương trình bị hủy bỏ, Thảo tập trung vào việc xây dựng ấp chiến lược, thuyết phục Diệm thực hiện càng nhanh càng tốt bởi nếu để lâu sẽ khiến nông dân oán hận và thù địch. “Thay vì thử nghiệm nhiều lần, họ cứ đẩy nhanh tiến độ theo kiểu Mỹ rất đặc trưng, với sự giúp sức của Phạm Ngọc Thảo”, ông Ẩn cho biết. “Thảo có nhiệm vụ khác xa tôi. Tôi là tình báo viên chiến lược; anh ta là người gây bất ổn cho chính quyền và lập kế hoạch đảo chánh. Sứ mệnh của anh ta nguy hiểm hơn tôi nhiều”.
Tôi hỏi Ẩn tại sao rất nhiều người ngưỡng mộ ông Thảo. “Bob Shaplen thích Thảo vì ông ta nghĩ đầu óc của Thảo là tách rời và khác xa Hà Nội. Thảo là một người mơ mộng, giống như nhiều người trong chúng tôi”. Người bạn thiếu thời của Thảo giải thích rằng “Thảo là người suốt đời chiến đấu với một mục tiêu duy nhất là độc lập cho Việt Nam. Ông ta là người theo chủ nghĩa dân tộc, chứ không phải theo chủ thuyết nào đó, là người có thái độ và mục đích sống được định hình trong giai đoạn Việt Nam là một thuộc địa bị áp bức về chính trị và bị khai thác về kinh tế của Pháp… Nhìn lại cuộc đời ông ta, không cường điệu chút nào khi nói rằng một mình ông ta đã làm thay đổi cán cân quyền lực chính trị giữa chính quyền Sài Gòn và Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Ông ta góp phần làm suy yếu Diệm và Nhu bằng cách giúp làm thất bại chương trình bình định nông thôn, và ông ta là nhân vật chính trong con lốc xoáy của các âm mưu phá hoại ngầm vốn làm suy sụp và cuối cùng là tiêu diệt chính quyền này”. (58)
Thảo bị giết vào ngày 17 tháng 7 năm 1965. Nguyễn Văn Thiệu được cho là đã ra lệnh xử tử Thảo, lúc này đã bị thương nặng, bằng cách dùng dây da thắt cổ và tinh hoàn. Khi nghe tin Thảo chết, Thiệu đã khui sâm banh cùng vợ uống mừng.(59)
Trong một lần nói chuyện sau chót của chúng tôi, tôi đã đùa rằng hóa ra bác sĩ Tuyến chỉ là một gã xoàng trong chiến dịch truy bắt gián điệp Cộng sản bởi Ba Quốc, Thảo và Ẩn đều khởi đầu sứ mệnh trong tổ chức của Tuyến. Đấy là một lần hiếm hoi trong các cuộc trao đổi của chúng tôi mà Ẩn đổi giọng. “Có những điều mà tôi không thể nói với ông, nhưng tôi không phải là người duy nhất cứu mạng Tuyến; Thảo cũng đã làm vậy bởi vì Tuyến đã giúp phóng thích rất nhiều tù nhân của chúng tôi sau khi ông ta không còn được Nhu và Diệm sủng ái!” Sau cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963, Tuyến từ Hồng Kông bay về Sài Gòn nhưng ngay lập tức phải vào tù vì bị nghi ngờ lập mưu đảo chính, ông ta phải ngồi hai tháng trong tù, bị cô lập, tra tấn, bỏ đói, lột trần và sống với lũ chuột.(60)
Chính Thảo, viên đại tá uy tín của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đã sử dụng ảnh hưởng của mình để Tuyến được tha. “Bác sĩ Tuyến là bạn tôi”, Ẩn nói. “Ông ấy cũng là bạn của Thảo, và chúng tôi cứu mạng ông ấy vì ông ấy đã giúp người của chúng tôi trong tù. Điều này có thể cho ông biết đôi chút về tình bạn của chúng tôi”. Tôi nhớ lúc bấy giờ mình đã nghĩ rằng có quá nhiều cái hộp lồng vào nhau trong cuộc đời của Ẩn.
ẨN NHẬN HUÂN CHƯƠNG CHIẾN CÔNG thứ hai vì đã có báo cáo đánh giá chiến lược về khả năng Mỹ có đưa bộ binh sang vào giai đoạn 1964-1965 hay khỏng. Theo sau cuộc đảo chính lật đổ Diệm vào năm 1963, một vài nhân vật ở Hà Nội cho rằng Mỹ sẽ tìm kiếm một hình thức dàn xếp hoặc hòa giải bằng thương lượng. Ngày 1 tháng 11, Diệm và em trai bị hạ sát trong thùng chiếc xe bọc thép chở quân do Mỹ sản xuất. Cuộc đảo chính này là do Quân lực Việt Nam Cộng hòa thực hiện, nhưng CIA đã can dự vào rất sâu thông qua người bạn của Ẩn là Lou Conein.
“Tôi bất ngờ trước cuộc đảo chánh”, Ẩn nói. “Người Mỹ đã đầu tư vào Diệm quá nhiều, nhưng Lansdale là người duy nhất có thể kiềm chế ông ta. Cấp trên của tôi đã nhận định sai rằng sau khi lật đổ Diệm, Mỹ cũng sẽ rút khỏi Việt Nam. Tôi phá lên cười và bảo, 'Không đâu, họ đang tới đây và các anh nên chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh lớn’. Tôi nói với họ rằng ông Diệm cũng chống việc Mỹ đưa quân vào và đó là một lý do nữa để CIA lật đổ ông ta. Ông ta phải trả giá vì đã vượt ra khỏi cái dây xích của người Mỹ”.
Cuộc can dự quy mô lớn của Mỹ vào Việt Nam được quyết định vào ngày 28 tháng 7 năm 1965,(61) nhưng các báo cáo của Ẩn bắt đầu vào năm 1964 trong thời gian Nguyễn Khánh nắm quyền. Ẩn kể cho tôi đúng cái điều mà ông đã nói riêng với Bob Shaplen ba mươi năm về trước, rằng khi CIA biết được những lời đề nghị bí mật của Nguyễn Khánh với Mặt trận Dân tộc Giải phóng, ông ta sẽ bị truất quyền lãnh đạo vì chính quyền của Johnson đang hướng tới việc Mỹ hóa cuộc xung đột.(62) “Tôi đã biết rằng người Mỹ không bao giờ ra đi. Sau này tôi mới biết nhiều người ở Hà Nội nghĩ khác, nhưng hồi đó tôi không hay biết về suy nghĩ của họ. Tôi chỉ đưa cho họ sự phân tích chân xác của mình và sau đó mới hay tôi được trao huân chương”.
Ông Ẩn cho biết nguồn cung cấp chính các thông tin về Nguyễn Khánh là thành viên CIA Lou Conein, nhưng tôi ngờ rằng ông còn có các nguồn khác nữa. “Một ngày nọ, Lou Conein trở về sau chuyến bay bằng trực thăng với Nguyễn Khánh và hét lên với tôi, 'Ẩn, gọi cho vợ con và gia đình ông thu dọn đồ đạc rồi biến khỏi đây. Mất sạch rồi. Đất nước của ông sắp rơi vào tay Cộng sản rồi. Mọi việc tệ hơn tôi tưởng, Khảnh đã lên giường với Mặt trận Dân tộc Giải phóng’. Ông Ẩn giải thích rằng trong khi đang ngồi chung máy bay, Conein quyết định “thử” Khánh bằng cách nói vài câu dẫn tới ý niệm rằng “bây giờ có lẽ đã đến lúc tìm kiếm một chính phủ liên minh và đàm phán với Mặt trận Dân tộc Giải phóng”.
Khánh sập bẫy ngay khi nói rành mạch, chi tiết ý nghĩ của mình với Conein, người không thể kiềm chế được cảm xúc của mình. “Tôi chưa bao giờ thấy Lou Conein giận dữ như thế, nhưng ông ấy cũng rất lo cho tôi và gia đình. Ông ấy cứ quát tháo liên hồi, 'Mất sạch rồi, mất sạch rồi’, Ẩn nhớ lại. “Khi bình tĩnh lại, Conein nói với tôi rằng ông ấy không nghĩ Khánh sẽ có thể tìm kiếm được sự ủng hộ cho kế hoạch đàm phán với Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Lúc bấy giờ tôi đã biết rằng CIA sẽ không để Khánh ở lại lâu. Người Mỹ sẽ không cho phép đàm phán với Mặt trận bởi vì người Việt Nam không được phép tự tìm kiếm sự đồng thuận, điều đó không phù hợp với lợi ích của Mỹ”.
Vụ đánh bom vào doanh trại Lục quân Mỹ tại Pleiku vào ngày 7 tháng 2 năm 1965, làm thiệt mạng tám người Mỹ và làm bị thương hơn một trăm người, đã châm ngòi cho một loạt sự kiện tiếp theo dẫn tới việc lực lượng chiến đấu mặt đất của Mỹ được đưa tới Việt Nam. Một ngày sau cuộc tấn công, Johnson đưa ra lời cảnh báo công khai. “Chúng ta không còn lựa chọn nào khác ngoài việc sẵn sàng hành động và tỏ rõ quyết tâm của chúng ta trong việc hỗ trợ miền Nam Việt Nam chiến đấu đề duy trì độc lập”.
Trợ lý đặc biệt của tổng thống, McGeorge Bundy, có mặt tại Pleiku trong ngày xảy ra vụ tấn công. Ông ta đánh về cho Lyndon Johnson một bức điện nêu rõ “tình hình tại Việt Nam đang xấu đi tệ hại, và nếu Mỹ không có một chương trình hành động mới thì thất bại là không tránh khỏi”. Ngày 13 tháng 2, Johnson khởi động Chiến dịch Sấm Rền, một chiến dịch ném bom có hệ thống và rộng khắp nhằm vào các mục tiêu của Bắc Việt.
Giữa lúc nhịp độ của chiến dịch không kích trở nên nhanh hơn, quyết định đưa lực lượng tham chiến mặt đất của Mỹ vào Việt Nam cũng đồng thời được đưa ra. Đầu tiên, 3.500 lính thủy quân lục chiến tràn lên bờ biển để bảo vệ căn cứ không quân trọng yếu tại Đà Nẵng; tới ngày 7 tháng 6, Tướng William Westmoreland đề xuất tăng thêm bốn mươi bốn tiểu đoàn để giúp miền Nam tránh khỏi thất bại. Suốt sáu tuần sau đó, vấn đề Mỹ hóa cuộc chiến đã chiếm lĩnh sân khấu chính trị tại Washington và được Hà Nội đặc biệt quan tâm theo dõi. “Tôi luôn cập nhật thông tin về cuộc tranh luận từ các đầu mối ở trong dinh”, Ẩn kể. “Tôi không bao giờ nghi ngờ về việc người Mỹ sẽ không bỏ đi. Họ đã đổ quá nhiều tiền và uy tín vào đây, nên câu hỏi của tôi lúc bấy giờ là họ sẽ đầu tư thêm bao nhiêu nữa. Khoản đầu tư sẽ rất lớn và đủ cho họ trụ vững dài lâu hơn, nhưng người Mỹ không bao giờ chịu đầu tư để tạo ra một thế hệ lãnh đạo mới tại miền Nam. Đó là sai lầm lớn của họ”.
Ý kiến bất đồng duy nhất trong chính quyền Johnson lúc bấy giờ xuất phát từ Thứ trưởng Ngoại giao George Ball, người đã tìm cách cảnh báo cho Johnson về việc ông ta đang khởi động một cuộc chiến tranh mới đặt Mỹ vào sự đối đầu với Việt Cộng. “Có lẽ việc đưa lực lượng quân sự quy mô lớn của Mỹ với hỏa lực mạnh sẽ buộc Hà Nội và Việt Cộng đi đến quyết định mà chúng ta đang tìm kiếm. Mặt khác, chúng ta có lẽ sẽ không thể thực hiện cuộc chiến này một cách đủ thành công - dù có đưa sang miền Nam Việt Nam 500.000 quân Mỹ thì chúng ta cũng cần phải có nhiều bằng chứng hơn so với hiện nay rằng quân của chúng ta sẽ không sa lầy trong rừng rậm và trên các ruộng lúa - trong lúc chúng ta từ từ cho nổ tung đất nước này thành muôn mảnh”. Trong một bản ghi nhớ, Ball viết rằng “về khía cạnh chính trị thì miền Nam Việt Nam là một thất bại… Hà Nội có một chính phủ, một mục tiêu và một nền kỷ luật. Chính quyền ở Sài Gòn thì lại là một trò đùa. Thực sự thì miền Nam Việt Nam là một đất nước có quân đội nhưng vô chính phủ. Theo quan điểm của tôi, một sự can dự sâu của Mỹ vào chiến trường trên bộ tại Nam Việt Nam là một sai lầm chết người. Nếu từng có một dịp để tiến hành một cuộc rút quân chiến thuật thì chính là lúc này đây”. (63)
Lời của Ball chẳng có ai nghe. Ngày cuối cùng của ông ở nhiệm sở là vào cuối tháng 7, vài ngày trước khi Johnson tuyên bố Westmoreland sẽ có tất cả những gì ông ta cần. Tổng thống đã nói với Ball rằng Mỹ sẽ mất uy tín nếu rút quân. “Không đâu, thưa ngài”, Ball đáp. “Thất bại tồi tệ hơn sẽ là việc quốc gia hùng mạnh nhất quả đất không thể khuất phục được một nhúm nhỏ du kích”. Như sau này Ẩn giải thích, “Mỹ là một quốc gia tươi đẹp, với những con người dễ mến; họ chỉ không học thuộc lịch sử thôi”. (64)
TRONG VÒNG NĂM NĂM sau khi trở về từ Mỹ, Phạm Xuân Ẩn đã nhận hai Huân chương Chiến công nhờ các báo cáo chiến lược và những đóng góp của ông đối với trận Ấp Bắc và quá trình Mỹ hóa cuộc chiến tranh, ông cũng tạo dựng được danh tiếng có lẽ là nhà báo Việt Nam giỏi nhất làm việc cho báo chí phương Tây. Tuy nhiên, trong thập niên sau đó, từ 1965 tới 1975, ông sẽ còn tạo dựng dấu ấn không thể phai mờ đối với hoạt động của ông trong lĩnh vực tình báo cũng như trong vai trò là một ký giả của tờ Time.
______________________

CHÚ THÍCH:

BẮT ĐẦU CUỘC SỐNG KÉP
(1) Báo cáo sau trận đánh, Hộc 86, Tệp Ấp Bắc, Tài liệu của Sheehan.
(2) Lost Victory, 39.
(3) Phỏng vấn Nguyễn Thái.
(4) Sách đã dẫn.
(5) Peter Smark, “Death and Vomit: The Real Meaning of War”, báo Sydney Morning Herald, 12-7-1990.
(6) Nick Turner, “Media and War: Reflections on Vietnam-Nick Turner Recalls His Experience as a War Correspondent During the Vietnam War”, tạp chí New Zealand International Review 28, so 4 (tháng 7 - 8. 2003).
(7) Ronald Seth, Anatomy of spying (New York: Nhà xuất bản Dutton, 1963). Halberstam không nhớ mình từng tặng cuốn sách này cho Ẩn.
(8) Tên người như cuộc đời. Merle Pribbenow và Ti Ti Mary Trần dịch.
(9) Anatomy of spying, trang 57.
(10) Bắt đầu vào ngày 21-2-2004, trang mạng của báo Thanh Niên đăng loạt bài về Ba Quốc với nhan đề “Ông tướng tình báo bí ẩn và những điệp vụ siêu hạng”, số ngày 10-3-2004, truy cập ngày 11-3-2004, tại địa chỉ http://www.thanhnien.com.vn/TiriTuc/Xa- Hoi/2004/3/10/10518; Merle Pribbenow dịch.
(11) Trích dẫn trong “Những huyền thoại để lại”.
(12) Xin cảm ơn Merle Pribbenow về vấn đề này.
(13) Mười Nho là cấp trên trực tiếp của Ẩn giai đoạn 1961-1965, sau đó là Tư Cang 1966-1972 và Ba Minh 1972-1975. Thật thú vị là sau cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968, việc các lãnh đạo vào Sài Gòn trở nên quá nguy hiểm. “Vì thế, chúng tôi chỉ trao đổi thư từ và tới sau ngày giải phóng mới gặp nhau”, Ba Minh cho biết. A General of the Secret Service, trang 118.
(14) Strategic Intelligence; https://www.cia.gov/csi/books/shermankent/toc.html
(15) Xem Anatomy of spying, chương 2.
(16) Roger Trinquier, Modem Warfare: A French View of Counterinsurgenqr (New York: Nhà xuất bản Praeger, 1961), trang 4. Sách xuất bản lần đầu tại Pháp năm 1961, đây là ấn phẩm mà ông Ẩn sử dụng. Sau đó ông nghiên cứu cuốn Counterinsurgency Warfare: Theory and Practice của David Galula (New York: Nhà xuất bản Praeger, 1964).
(17) T. R. Phillips, Roots of Strategy: A Collection of Military Classics (Harrisburg, PA: Nhà xuất bản Military Service Publishing Co, 1940), trang 36-37.
(18) William Prochnau, Once upon a Distant War (New York: Nhà xuất bản Times Books, 1995), trang 154.
(19) CIA Current Weekly Intel Summary, 17-3-1960, Advice and Support, trang 349.
(20) “Country Team Study Group Report on Internal Security Situation in Vietnam”, Advice and Support, trang 330-331.
(21) Ước tính sản phẩm của Việt Nam, 1948-1978 (Washington, D.C.: Cục ấn loát Chính phú, 2005), 23-8-1960, Special National Intelligence Estimate (SNIE) 63. 1-60.
(22) Xem James Lawton Collins, Jr, The Development and Training of the South Vietnamese Army (Washington, D.C.: Bộ Ngoại giao, 1975), trang 5; xem thêm Advice and Support, trang 365.
(23) Sách đã dẫn, Advice and Support, 365.
(24) “Báo cáo mười hai tháng đầu tiên của chỉ huy MAAG, Việt Nam”. Tháng 9-1961. Kế hoạch này là một đề cương chi tiết về tái cấu trúc Quân đội của Việt Nam Cộng hòa, trong đó có đẻ nghị của McGarr về việc đặt Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Tự vệ dân sự/lực lượng Bảo an trong cùng một hệ thống chì huy.
(25) Biên bản cuộc họp, 24-4-1961. FRUS, 1961-1963. Tập 1, Việt Nam, trang 78; Chương 6, “The Advisory Build-Up, 1961-1967”, trong bộ Hỗ sơ Lâu Năm góc (The Pentagon Papers), Ẩn bản của Gravel, tập 2 (Boston: Nhà xuất bản Beacon Press, 1971), trang 408-514; Mục 1, trang 408-457.
(26). http://www. statecraft. org/ Chương8. html.
(27) Paul M. A. Linebarger, Psychological Warfare. (Washington, D.C.: Nhà xuất bản Infantry Journal Press, 1948).
(28) A General of the Secret Service, trang 83-84.
(29) Trích dẫn trong Những huyền thoại để lại.
(30) Lansdale nói với Shaplen, 8-6-1982, Hộc 1, Tệp 14, Tài liệu của Lansdale. Xem Stanley Kamow, “In Vietnam, the Enemy Was Right Beside Us”, báo Washington Star, 22-3-1981.
(31) Stanley Karnow, Vietnam: A History (New York: Nhà xuất bản Viking, 1983), trang 214; xem thêm Sài Gòn, Việt Nam, Ghi chép làm hồ sơ lưu, 9-9-1963, Hộc 22, Tệp 1, UPI, Tài liệu của Sheehan.
(32) R. B. Smith, An International History of the Vietnam War, tập 2 (New York: Nhà xuất bản St. Martin's, 1985), trang 58.
(33) FRUS, 1961-1963, tập 1, Việt Nam, trang 179.
(34) Xem Andrew Preston, The War Council: McGeorge Bunđy, the NSC, and Vietnam (Cambridge, MA: Nhà xuất bản Harvard University Press, 2006), trang 91.
(35) Maxwell Taylor, Swords and Plowshares (New York: Nhà xuất bản Perseus Books, 1990), trang 228-229.
(36) “Taylor to Kennedy”, 3-11-1961, FRUS 1961-1963, Việt Nam, tập 1, trang 478; xem từ trang 477-532 để đọc toàn bộ báo cáo.
(37) Những yêu cầu mới này có thể làm đổi thay sự cam kết vốn chỉ đơn thuần giới hạn trong vai trò cố vấn. Tháng 2-1962, Bộ chỉ huy Viện trợ quân sự của Mỹ tại Việt Nam (MACV) đã ra đời, thay thế MAAG. Cơ cấu chỉ huy mới này đã hiện thực hóa sự gia tăng của vai trò cố vấn của Mỹ đối với Quân lực VNCH.
(38) “Kế hoạch Staley-Taylor là kế hoạch 'chiến tranh đặc biệt' được quân đội Sài Gòn thực hiện dưới sự chủ trì của các cố vấn Mỹ”. Thất bại của chiến tranh đặc biệt, 1961-65. Số 1, Nghiên cứu Việt Nam (Hà Nội, Xunhasaba, 1965).
(39) http://www.medaloffreedom.com/JohnPaulVann.htm.
(40) Once upon a Distant War, trang 214-219.
(41) A Bright Shining Lie, trang 205-206; Sheehan giải thích rằng “trận chiến này được biết đến với tên gọi là trận Ấp Bắc thay vì trận Bác bởi vì tin tức về cuộc chiến đều bao gôm chữ 'ấp', nghĩa là một 'làng' như là một phần của địa danh”.
(42) Tôi sử dụng nhiều chi tiết từ cuốn The Battle of Ap Bac, Vietnam của Toczek và A Bright Shining Lie của Sheehan.
(43) Once upon a Distant War, trang 224.
(44) A Bright Shining Lie, 277.
(45) Tệp Ắp Bắc, Hộc 86, Tài liệu của Sheehan.
(46) The U.S. Army in Vietnam. Trích từ ấn phẩm tái bản của loạt Tài liệu về Lịch sử Quân đội Mỹ, Trung tâm Lịch sử Quân sự của Lục quân Mỹ, trang 634; Đánh giá của Lục quân Mỹ về Ấp Bắc nêu “Tầm quan trọng của trận Ấp Bắc vượt ra ngoài khuôn khổ một trận đánh. Thất bại này là một điềm báo cho những gì sẽ xảy đến. Với việc giờ đây đã có thể thách thức các đơn vị VNCH với sức mạnh tương đương trong các trận đánh mang hơi hướng chính quy, Việt Cộng đang tiến tới một bước quyết liệt hơn trong cuộc chiến tranh cách mạng”.
(47) Tài liệu Việt Cộng về trận Ấp Bắc, 2-1-1963, Tệp Ấp Bắc, Hộc 86, Tài liệu của Sheehan.
(48) A Bright Shining Lie, trang 277-8.
(49) E-mail, 10-10-2006
(50) Xem David Halberstam, The Making of a Quagmire (New York: Nhà xuất bản Ballantine Books, 1968).
(51) Trích lời trong Once upon a Distant War, trang 13.
(52) The Powers That Be, trang 450. Xem Daniel C. Hallin, The “Uncensored War”: The Media and Vietnam (Berkeley: Nhà xuất bản University of California Press, 1989), trang 41.
(53) Sheehan có lần hỏi Bà Nhu rằng bà ta có nghĩ là Cộng sản đã xâm nhập vào báo chí Mỹ hay không. “Chắc chắn rồi”, Bà Nhu đáp. Cộng sản “luôn chọn những tổ chức nổi tiếng hoặc nghiêm túc nhất như Đại học Harvard hoặc báo New York Times”. Bà nói, “Tạp chí Time thì thường nịnh tôi”. Once upon a Distant War, trang 121-122.
(54) Trích dẫn trong Thomas B. Morgan, “Reporters of the Lost War”, tạp chí Esquire, 7-1984, trang 52.
(55) Ông Ẩn nói, “Tôi biết ổng là Nguyễn Văn Tá, sĩ quan của Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo”. Trang mạng của báo Thanh Niên, 21-3-2004, truy cập ngày 21-3-2004 tại địa chỉ http://www!thanhnien.com.vn/TinTuc/Xa-Hoi/2004/3/21/11594/. Merle Pribbenow dịch.
(56) Robert Shaplen, The Road from War (New York: Nhà xuất bản Harper & Row, 1970). Xem bài viết ngày 20-3-1965 của shaplen, trang 1-9.
(57) “In Vietnam, the Enemy Was Right Beside Us”, báo Washington Star, 22-3-1981.
(58) Trương Như Tảng, A Vietcong Memoir (New York: Nhà xuất bản Vintage), trang 60.
(59) Hộc 8, Việt Nam, Tài liệu của McCulloch. Đây là các ghi chú phỏng vấn của McCuiloch.
(60) Tài liệu năm 1975 của Shaplen có câu trả lời của Tuyến về tình trạng nhà tù thời đó: “Tuyến: bị bắt, biệt giam, trân truồng, 5 tuần, 2 bát cơm mỗi ngày, mới chín tới, không có thức ăn nào khác, một chai nhỏ nước máy, nôn ra máu, rất ốm yếu. Ngồi tù 73 ngày, ra ngày 2-11” Hộc 93, Tài liệu của Shaplen.
(61) Xem Larry Berman, Planning a Tragedy (New York: Nhà xuất bản W. W. Norton, 1982).
(62) “ẨN: Mặt trận Dân tộc Giải phóng “đề nghị điều tương tự với Nguyễn Khánh vào năm 1964 (tham gia chính phủ) và Khánh sẵn sàng thực hiện điều đó, đã viết cho Nguyễn Hữu Thọ. CIA bắt được - lá thư thứ hai - và loại Khánh. Lúc đấy Khánh sẵn sàng nói chuyện”. Tài liệu của Shaplen, Ghi chú phỏng vấn. Hộc 93.
(63) Planning A Tragedy, 109
(64) Ẩn nói điều này với phóng viên ảnh Ted Thái. Tác giả cũng phỏng vấn Thái.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét