THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THI VÂN YÊN TỬ

SỚM CHIỀU DU NGOẠN CÙNG MÂY NÚI
HOA TRÁI QUA NGÀY TA VỚI TA

Thứ Ba, 13 tháng 4, 2010

Văn học Dân gian Quảng Trị

Người thành cổ Quảng trị
Văn hoá nói chung, là biểu tượng của mọi lề lối, phương thức sinh hoạt từ tiếng nói, tập tục, cách ứng xử, lễ hội, tín ngưỡng đến cách ăn mặc, lời ru, tiếng hát… gom lại; là cốt cách, sức sống… của một cộng đồng dân cư từ nhỏ đến lớn. Chưa có một kết luận cụ thể nào xác định thời điểm có mặt của người Việt tại vùng đất Quảng Trị, chỉ biết một điều là đã được diễn tiến bởi nhiều đợt di dân qua hàng bao thế kỷ. Cội nguồn của người Việt được hình thành trong vùng châu thổ các sông ở miền Bắc, tạo dựng một nền văn minh, văn hoá nông nghiệp.
Những người di dân vào Nam vẫn mang theo truyền thống ấy. Quảng Trị là một dải đất hẹp nhưng có nhiều hệ sinh thái, nhiều khu vực nông nghiệp khác nhau, không phải là một nơi dễ dàng làm ăn sinh sống, hàng ngày người dân đối mặt với nhiều thứ khắc nghiệt.
Do bản năng sinh tồn, họ chiến đấu và chiến thắng mọi gian nguy để tồn tại và phát triển. Góp phần vào việc giảm bớt sự căng thẳng để tạo nét hài hoà trong sinh hoạt đời thường, họ nghĩ ra những thứ để thưởng ngoạn, vui chơi dân giả. Đó là những chuyện thần thoại, chuyện cười, những nhân vật có óc khôi hài, châm biếm, những câu ca, lời ru tiếng hát, điệu hò; tất cả do mang một nét đặc thù Quảng Trị, một nền văn học dân gian. Trong phạm vi một bài viết ngắn chúng tôi chi giới thiệu những thể loại có tính cách đại chúng là Thơ Ca Hò Vè với một số nội dung tiêu biểu mà xin bỏ qua những mẫu chuyện, những con người đã tạo nên sắc thái vui tươi thú vị nhưng chỉ hạn hẹp trong một địa phương nào đó.
Thơ Ca Hò Vè là sản phẩm của nông dân, phản ảnh bao trùm mọi sinh hoạt với một loại ngôn ngữ bình dân mang tính đại chúng, cho thấy rõ nét cái chơn chất mộc mạc nhưng thắm đậm nhân tính của con người Quảng Trị. Tạm thời có thể sắp xếp theo các thể loại sau:
I/ Tục ngữ:
A. Về thời tiết và sản xuất
Cò ăn ruộng sâu thì nắng/Cò ăn ruộng cạn thì mưa
Công cấy thì bỏ, công làm cỏ thì ăn/Chớp ngã Cồn Tiên, mưa liền gặp trộ
Đập đất nhỏ, luống đánh to/Xung quanh rắc đậu, trồng ngô xen vào
Đói thì ăn môn ăn khoai/Đừng thấy ló lỗ giêng hai mà mừng
Trăng rằm đã to lại tròn/Khoai lang đất cát đã ngon lại bùi
Xứ Cùa đất đỏ ba dan/Ai ơi trồng mía làm giàn thả tiêu
B. Về đời sống xã hội
Liệu cơm mà gắp mắm ra/ Liệu cựa liệu nhà mà gả con vô
Khun ba năm không ai biết/ Dại một giờ bạn hay
Đi buôn bữa lỗ bữa lời/ Ra câu giữa vời bữa có bữa không
Ai ơi chớ lấy học trò/ Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm
Khoai lang cổ bở cổ trân/ Làm rễ họ Trần cực lắm ai ơi
Bỏ công múc nước đường xa/ Có trong thì múc, ngà ngà thì thôi
Sui gia là bà con tiên/ Ăn ở không hiền là bà con quỷ
II/ Câu đố:
Hai người ở hai buồng/ Ngó đi nhìn lại như tuồng cấm cung/ Đêm về sập cửa thả chông/ Ngày thì vòi vọi đứng trông nhau hoài (Hai con mắt)
Gặp nhau đây bất luận đêm ngày/ Lật ra xem thử lỗ này ở đâu/ Đâm vô thì rút ra mau/ Đừng để trung nớ mà đau lòng nàng/ Rút ra máu chảy tràn lan/ Khi nớ duyên thiếp, nợ chàng ngái xa (Đạp gai)
Họ hàng chỉ sống trên non/ Tìm cây hút nhụy nuôi con tháng ngày/ Không may lửa dậy khói bay/ Thảm thương ấu tử sống rày thác mai (Tổ ong bị đốt)
Cây xanh mà lá cũng xanh/ Dầm mưa dãi nắng theo anh võ vàng/ Một mai lửa đỏ thành than/ Mây bay khói lượn truớc mặt chàng, chàng ơi (Cây thuốc lá)
III/ Vè:
Một thể loại truyền khẩu rất phổ thông, dễ nhớ, thường là mô tả cảnh sinh hoạt ở nông thôn, một nhân vật đặc biệt, đôi khi nêu thói hư tật xấu với dụng ý giáo dục .
A. Vè Ba Lòng:
Thanh trời rạng thấy núi xây/ Rừng xanh suối bạc đáo vầy tứ phương/ Trà Trì, Văn Vận hai phường/ Đá Nầm, Chinh Thạch giao lương thuận hòa/ Tháng năm bắp đã tới mùa/ Chè thơm mít chuối bên Cùa gánh sang/ Bao nhiêu thao vải, lụa hàng/ Vật gì phường chợ cũng băng ngàn trải lên/ Đò thì mắm nục, mắm nêm/ Đò thì cá khô, muối ruốc cũng mang lên tại phường/ Đò thì gạo, nếp, trứng, đường/ Đò thì vàng bạc, lược, gương, cau trầu/ Đò thì ghè, đục, ang, âu/ Tréc, om, trình thống, dĩa dầu, bình vôi/ Buôn chi thì nỏ có lời/ Lưỡi cày, lưỡi cuốc, núc, nồi, đá, dao/ Buôn chi than, vải lụa thao/ Nhuộm màu xanh lục, rêu rao thêu thùa/ Bao nhiêu cũng nhờ hột bắp mà thôi/ Rồi mùa ngó lại, giơ cồi với mao
B. Vè thằng nhác
Lẳng lặng mà nghe/Kể vè thằng nhác/Gia dình khổ cực/Vợ yếu con thơ/Chồng ai được nhờ/Chẳng nên trò trống/Nửa ngày thức dậy/Lục đục soong nồi/Vắt áo đi chơi/La cà hàng xóm/Vợ nhờ cày ruộng/Tao bị đau chân/Vợ nhờ quét sân/Đau lưng vẹo cổ/Vợ/nhờ bửa củi/Cái búa nó hư/Vợ bảo đi bừa/Sợ rằng trâu húc/Vợ nhờ đi gặt/Tao gánh đau vai/Thở ngắn than dài/Tội tình chị vợ/Ấy thế mà!/Nồi cơm vừa dở/Chưa kịp ai mời/Cúi cổ cúi tai/Một hồi chén sạch/Là cái thằng nhác/Ăn dữ không làm/Hỡi xóm hỡi làng/Nghe vè thằng nhác
C. Vè con gái
Nghe vẻ nghe ve/Nghe vè con gái/Tay chân mềm mại/Khác thể bông ba/Chờ mẹ đi ra
Cắp tiền thu dấu/Muốn ăn khoai nấu/Muốn ăn khoai nướng/Muốn ăn xôi chè/Ăn rồi ngồi xếp bè he/Cái lưng bơ bừng cái thúng/Ăn chùng ăn vụng/Cho sướng cái thân/Việc nỏ muốn mần/Dôông thì muốn lấy/Áo năm bảy cấy/Mược vào đi chợ/Béng ướt dụy tôm/Hai tay bóoc lá/Lộ mồm hả ra
IV/ Đồng dao
Bập bong bong tay mô khôông tay mô có/Bập bò bọ tay mô có tay mô khôông/Chị lấy dôông em ở quá/Chị ăn cá em mút xương/Chị đường em mật/Chị vật em coi/Chị voi em ngựa/Chị bựa em bèn/Chị kèn em trống/Chị trống em mái/Chị méo em tròn/Hai hòn về chị/Rầm rà rầm rì/Xây lúa Đồng Nai/Cơm gạo phần ngài/Tấm cám phần tui/Lờ đệng cháy nhà/Bà già chạy chựa/Cháy nửa bồ thóc/Lóc cóc chạy về/Ông Đề hỏi răng
Cu Nhăng cắn nhện
V/ Câu đối
Văn vận tuột quần Văn vận vận/Bích La đau bụng Bích La la
Cam Lộ buôn cam, Cam Lộ Lộ/Bích giang không nón, Bích giang giang
Tân Trúc trồng tre, thở hoi hóp/Đông Hà xúc hến hát ngêu ngao
VI/ Ca dao
Ca dao chiếm phần lớn nhất trong văn học dân gian, biểu hiện tâm hồn giàu tình cảm, phóng khoáng của người nông dân, một thứ tình cảm bình dị chơn chất trong sáng như cuộc đời hiền hòa đôn hậu của họ, được thể hiện trong mọi tình huống, hoàn cảnh về gia đình, xã hội, đặc biệt là về tình yêu đôi lứa, một đề tài muôn thuở
A. Quan hệ gia đình
Biết răng chừ cá gáy hóa rồng/Để đền công ơn Thầy Mẹ ẵm bồng ngày xưa
Chị em như chuối nhiều tàu/Tấm lành che tấm rách, đừng nói nhau nặng lời
Cây kia ăn quả ai trồng/Sông kia uống nước hỏi giòng từ đâu/Cơ đồ gầy dựng bấy lâu
Công lao tiên tổ lẽ đâu quên hoài/Mộ phần gìn giữ hôm mai/Những ngày lễ tết chẳng sai lệ thường
Có chồng rồi khác chi con ngựa có dây cương/Lôi mô chạy nấy khổ trăm đường ai ơi
Còn cha gót đỏ như son/Một mai cha chết, gót con đen sì
Mẹ già ham việc tiếc công/Cầm duyên con lại thu đông mãn rồi/Mãn rồi cai đội hồi hương/Trai về làm ruộng, gái buôn nuôi chồng
Ra đi bố mẹ ở nhà/Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai bưng
B. Quan hệ xã hội
Ai về Đông Hà, ai qua Cam Lộ/Ai về Gia Độ, ai đến Gio Linh/Ai về Triệu Phong, Quảng Trị quê mình/Cho em nhắn gởi chút tình nhớ thương
Bạn về không có chi đưa/Môn khoai đang dại, mít dừa đang non
Cây cao bóng mát chẳng ngồi/Lại ngồi trửa nắng trách trời không dim
Cây khô xuống nước cũng khô/Phận nghèo đi tới chỗ mô cũng nghèo
Con quan lấy đứa mần than/Nắng mưa phải chịu cơ hàn phải theo
C . Quan hệ lứa đôi
Trăng lên tới đó rồi tề/ Nói chi thì nói, em về kẻo khuya
Bướm vàng đậu đọt cau tơ/Kiếm cái nơi mô nương tựa/Chơ răng cứ vất vơ rứa hoài
Chàng ơi phụ thiếp làm chi/Thiếp là cơm nguội những khi đói lòng
Đi mô cho thiếp đi cùng/Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp theo
Cam chua, quýt ngọt… bồng the/Thấy em nho nhỏ, anh ve anh để dành
Xa anh có bấy nhiêu ngày/Tình em như mảnh trăng gầy nửa đêm
Hai ta mót củi một cồn/Bứt tranh một chỗ, tiếng đồn thật xa
Em đương vút nếp hong xôi/Nghe anh lấy vợ, thúng trôi nếp chìm
Ai hay nông nổi mần ri/Ngày xưa ở rứa, vội chi trao lời
Anh đã có vợ thời thôi/Không phải mắm nêm chuối chát mà muốn moi cho nhiều
Anh về đừng có ngó lui/Để em ngó dọi ngùi ngùi thêm thương
Anh đưa em lên đến ngã tư sòng/Em trở Về Cam Lộ, anh trở lại Triệu Phong với ai chừ
Được nên chồng nên vợ thì hay/Rủi thời đói khổ có ăn mày cũng phu thê
VI. Hò:
Hò là thể loại dân ca phong phú, đa dạng, có tính quần chúng và mang nét đặc thù Quảng Trị Đó là một hình thức sinh hoạt sôi nổi, được diễn ra trong công việc đồng áng, lễ hội hay là một cách giải trí trong buổi nông nhạn Có nhiều điệu hò và cách hò tùy theo không gian thời gian, lao động nặng nhọc khác nhaụ Quét vôi thì hò hụi, giã gạo thì hò khoan, hò hô, chèo đò thì hò mái nhì, nếu đò mắc cạn thì hò mái đảy, hò rủ rơm, hò đánh bài thai, bài chòi, hò kéo gỗ, hò ru và hò đối đáp… Ở đây chúng tôi xin giới thiệu mấy điệu hò tiêu biểu:
A. Hò ru:
Tất cả chúng ta đều lớn lên từ 4 tao nôi và lời ru của Mẹ. Làn điệu ngọt ngào êm dịu như đã thấm vào máu thịt xương tủy và cũng lớn lên theo giòng đời . Qua năm tháng nổi trôi, lời ru luôn luôn là sự gợi nhắc tình cảm, nghe mãi nhưng nghe lại vẫn không khỏi bồi hồi:
Khi con thức Mẹ cho con bú/ Khi con lú Mẹ lại ru hời/ Nuôi con cực lắm con ơi/ Chỉ mong cho con lưng dài vai rộng/ Để lấp biển vá trời như ai !
Mẹ thương con ngồi Cầu Ái Tử/ Vợ trông chồng đứng núi Vọng Phu/ Mai đây bóng xế trăng lu/ Con ve kêu mùa hạ/ Biết mấy thu đợi chờ
Em nghe anh đau đầu chưa khá/ Em đây băng đồng chỉ sá bẻ nạm lá qua xông/ Ước làm sao cho nên đạo vợ chồng/ Đổ mồ hôi ra em quạt/Lại ngọn gió lồng em che
Ru hời ru hỡi là ru/Bên cạn thời chống bên su thời chèo
Xây thành đắp lũy trên non/ Cắm hoa dưỡng nước nuôi con tháng ngày/ Một mai lửa dậy khói bay/ Con ơi ! Mẹ không biết sống rày thác mai
Ơn cha ba năm báo bổ/Nghĩa mẹ chín tháng cưu mang
Bên ướt Mẹ nằm bên ráo con lăn/Lấy chi trả nghĩa sinh thành/Lên non tạc đá xây lăng phụng thờ
B. Hò đối đáp:
Là một thể loại văn nghệ tự túc độc đáo dược phổ biến rộng rãi trong mỗi làng quê Quảng Trị trong thập niên 30, 40. Những lúc nông vụ đã tạm ổn, vào những đêm trăng, đâu đâu cũng nghe tiếng hò rộn ràng sôi nổi tạo nên một không khí tưng bừng vui vẻ. Có thể chia làm hai loại: Hò ân tình và Hò đâm bắt.
1) Hò ân tình
Loại này đơn giản dễ hò, có thể lấy từ câu đố, một cốt chuyện đã có sẵn, chỉ cần nhập vai là hò được hoặc đôi bên đối đáp về những chuyện trời trăng mây nước vô thưởng vô phạt Địa điểm hò thường được chọn ở những nhà rộng rãi thoáng mát để có được đông đảo khán giả tham dự. Thường thì các cô gái đã đợi sẵn còn các chàng còn vòng vòng ngoài ngõ hay trước sân:
Ai đứng ngoài đường cho muỗi cắn ho kêu/ Vô đây phân giải đôi điều cho vui
Các chàng chỉ đợi có thế mạnh dạn bước vào:/ Chào lê chào lựu chào đào/ Ai xa chào trước ai gần chào sau/ Chào bên nam mất lòng bên nữ/ Chào người quân tử sợ dạ thuyền quyên/Cho anh chào chung một tiếng kẻo chào riêng khó chào
Ai có chồng thì khuyên chồng đừng sợ/ Ai có vợ thì xin vợ đừng ghen/ Ra đây ta hò hát cho quen/ Rạng ngày ai về nhà nấy…/ Khá thể ngọn đèn hai tim
Đó là màn dạo đầu, cuộc hò sẽ tiếp tục:
Đố anh chi sắc hơn dao/Chi sâu hơn biển, chi cao hơn trời
Con mắt em sắc hơn dao/Lòng sâu hơn biển, trán cao hơn trời
Bánh cả mâm răng kêu bánh ít/Trầu cả chợ răng gọi trầu không/ Ai mà đối đặng làm chồng nữ nhi
Chuối không đi tây răng kêu chuối sứ/Cây không đi học răng kêu cây thông/Anh đã đối đặng em theo chồng về mau
Nghe anh thuộc sách Kinh Thi/Hỏi anh con cá nằm dưới cỏ gọi là con cá chi rứa anh hè
Anh đây thuộc sách Kinh Thi/Con cá nằm dưới cỏ anh nghĩ là con cá tràu
Em như bông sen trong hồ/Các anh như bèo như bọt nhìn chi được cơ đồ nơi em
Nước lên cho sóng cuộn theo/Cho sen chìm xuống bèo trèo lên trên
Em đây như con rồng vàng/Chín tầng mây phủ nằm ngang giữa trời/Anh đây có phép thần thông/Vén mây cỡi gió bắt con rồng coi chơi
Em đây như chiếc chuông vàng/Treo trong thành nội có hàng ngàn quân canh/Quân canh dù mấy chục ngàn/Dùi chiêng anh mang sẵn, anh nện chuông vàng đứt đôi
Kiến bò cột sắt sao mòn/Con vò vò xây tổ sao tròn mà xây/Kiến bò cột sắt thành đàn
Con vò vò xây tổ khám vàng cũng xây
Thương thay các cậu chự bò/Cái lưng môốc thếc thếc/Bộ giò đen thùi thui/Em về dở sách ra dò/Cha em lúc trước cũng chự bò như anh
Trai không vợ như chợ không đình/Mưa dông một trộ ghé mình vào đâu
Trai chưa vợ lo phò vua vệ quốc/Chợ không đình tại thợ mộc suy vi/Sao không lo phận thiếp lại đi hỏi chàng
Văn nghệ dân gian như đã nói là một chất liệu ngôn ngữ hòa tan trong tâm thức của mọi người, nó như mạch ngầm ẩn dấu đâu đó tưởng chừng quên nhưng chỉ một giây lắng đọng khắc khoải, sẽ bừng dậy những nỗi nhớ niềm thương da diết. Đó là một kho tàng vô tận tiềm ẩn trong mỗi người Quảng Tri, không thể có một công trình tìm kiếm hoàn chỉnh .Trong phần lược ghi với một ít nội dung tượng trưng, hy vọng tạo được một khoảnh khắc thanh thản khi nhớ về quê hương

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét