THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THI VÂN YÊN TỬ

SỚM CHIỀU DU NGOẠN CÙNG MÂY NÚI
HOA TRÁI QUA NGÀY TA VỚI TA

Thứ Tư, 9 tháng 12, 2009

Lịch sử Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị (1966- 1973)

Người thành cổ Quảng trị

CHƯƠNG IV
TRONG CHIẾN DỊCH TIẾN CÔNG TRỊ - THIÊN 1972

1. Tiến công giải phóng tỉnh Quảng Trị.
Bước vào Đông Xuân 1971- 1972, tình hình cách mạng ở miền Nam nước ta diễn ra hết sức sôi động. Sau thắng lợi có ý nghĩa chiến lược Xuân-hè năm 1971 của quân và dân ba nước Đông Dương, Cục diện chiến tranh đã thay đổi quan trọng. Chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ bị thất bại nặng nề. Mỹ - ngụy buộc phải chuyển hẳn vào thế phòng ngự chiến lược. Quân ngụy Sài Gòn tuy còn trên một triệu quân, được Mỹ viện trợ trang bị thêm nhiều súng đạn và phương tiện kỹ thuật chiến tranh nhưng sức chiến đấu đã bị sa sút trầm trọng. Việc bổ xung quân gặp nhiều khó khăn.
Quân Mỹ sau đợt rút quân tháng 3 năm 1972 còn khoảng 9,5 vạn tên, nhưng trên thực tế đã chấm dứt hoạt động chiến đấu bằng bộ binh trên chiến trường. So sánh cục diện chiến tranh, rõ ràng "Ta đang ở thế thắng, thế đi lên! Mỹ - ngụy đang ở thế thua, thế đi xuống". Nhưng với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, với tiềm lực chiến tranh lớn chúng vẫn tiếp tục thực hiện những âm mưu và hành động chiến tranh phiêu lưu nhằm chống lại nhân dân ba nước Đông Dương, thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" rút dần số quân Mỹ còn lại, tạo điều kiện mặc cả với ta trên thế mạnh trong hội nghị Pa ri, đồng thời để xoa dịu phong trào đấu tranh của nhân dân Mỹ, tạo thuận lợi cho Ních - xơn tái cử tổng thống trong cuộc bầu cử vào cuối năm 1972.
Trước tình hình đó, tháng 8 năm 1971 Bộ Chính trị họp ra nghị quyết về phương hướng hoạt động quân sự năm 1972 là mở nhiều chiến dịch tiến công trên chiến trường Đông Dương, trọng điểm là chiến trường miền Nam, đẩy mạnh đánh phá "bình định” của địch ở nông thôn, đưa phong trào đấu tranh chính trị ở đô thị lên một bước mới, phát huy thế chủ động chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam, tạo ra một bước chuyển biến cơ bản, tiến lên thay đổi cục diện chiến tranh. Theo phương hướng đó, Bộ Chính trị đề ra nghị quyết cụ thể mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên các hướng miền Đông Nam Bộ, Trị - Thiên, Tây Nguyên, trong đó miền đông Nam Bộ là hướng tiến công chủ yếu đánh vào đây sẽ tác động mạnh tới Sài Gòn.
Nhưng thông qua diễn biến của chiến trường, nhất là việc chuẩn bị vật chất cho chiến trường miền Đông Nam Bộ tuy có nỗ lực lớn nhưng chưa đảm bảo yêu cầu, nên đầu tháng 3 năm 1972 Quân ủy Trung ương quyết định thay đổi hướng tiến công chiến lược chính sang chiến trường Trị - Thiên, Miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên chuyển thành hướng quan trọng, và sẵn sàng đưa một bộ phận chủ lực thọc sâu xuống đồng bằng khi có thời cơ. Có sự thay đổi như vậy là vì ở chiến trường Trị - Thiên sát với hậu phương chiến lược miền Bắc, ta có thể tập trung lực lượng và bảo đảm vật chất cho một chiến dịch quy mô lớn, dài ngày. Thêm nữa, cho đến lúc này, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ vẫn cho rằng hướng tiến công chiến lược chính của ta vẫn là chiến trường Tây Nguyên, nên đã điều động phần lớn sư đoàn dù (lực lượng dự bị chiến lược) và các lực lượng chủ lực của quân khu 2 lên cao nguyên trung phần...
Quyết tâm mới của Quân ủy Trung ương được Bộ Chính trị thông qua ngày 11 tháng 3 năm 1972. Cũng trong hội nghị, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên 1972, trong đó có cả sáp nhập Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị. Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó tổng tham mưu trưởng được cử làm tư lệnh; Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy. Các đồng chí Cao Văn Khánh, Giáp Văn Cương, Doãn Tuế, Phạm Hồng Sơn, Lương Nhân, Nguyễn Anh Đệ làm Phó tư lệnh. Đồng chí Hồ Sỹ Thản, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị cũng tham gia Đảng ủy Bộ tư lệnh chiến dịch.
Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Uỷ viên Bộ Chính trị Tổng tham mưu trưởng được cử làm đại diện của Quân ủy Trung ương trực tiếp chỉ đạo hướng chiến lược quan trọng này.
Sau khi phân tích tình hình địch, ta trên chiến trường Trị - Thiên (đặc biệt là tỉnh Quảng Trị), Quân ủy Trung ương xác định chiến dịch tiến công Trị -Thiên 1972 có một số nhiệm vụ chủ yếu như sau:
- Tiêu diệt phần lớn lực lượng quân sự địch ở Trị -Thiên, cơ bản tiêu diệt cho được 2 sư đoàn và đánh thiệt hại nặng 1 sư đoàn khác.
- Phối hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng ở nông thôn đồng bằng, đẩy mạnh phong trào đô thị và công tác binh vận; tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng bảo an, dân vệ, phòng vệ dân sự, đánh bại kế hoạch bình định của địch.
- Giải phóng phần lớn địa bàn Trị -Thiên, có điều kiện thì kiên quyết giải phóng toàn bộ hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Tiêu diệt, phân tán, giam chân, thu hút lực lượng địch, phối hợp với các chiến trường khác giành thắng lợi chung cho cuộc tiến công chiến lược 1972. . .
Trong những nhiệm vụ trên thì hai nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch và hỗ trợ cho quần chúng trên cả ba vùng nổi dậy là quan trọng bậc nhất. Hai nhiệm vụ này có quan hệ mật thiết với nhau. Muốn phong trào quần chúng nổi dậy mạnh mẽ thì phải có những đòn tiêu diệt sinh lực địch, phá thế kìm kẹp của địch; mặt khác, muốn tiêu diệt nhanh gọn sinh lực địch mở rộng địa bàn hoạt động nhất thiết phải có sự đấu tranh hỗ trợ của nhân dân.
Căn cứ nhiệm vụ của Quân ủy Trung ương giao cho, ngày 15 tháng 3 năm 1972 tại Bãi Hà (Vĩnh Linh), Đảng ủy, Bộ tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên họp bàn triển khai kế hoạch tác chiến. Đảng ủy Bộ tư lệnh chiến dịch nghiên cứu sâu thêm về nhiệm vụ quân sự năm 1972 của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương trên chiến trường miền Nam nói chung và chiến trường Trị -Thiên nói riêng. Đồng chí Lê Trọng Tấn thay mặt Đảng ủy Bộ tư lệnh chiến dịch báo cáo tình hình và nhiệm vụ, nội dung cơ bản như sau:
Chiến trường Trị - Thiên (nhất là Quảng Trị) là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng trong hệ thống phòng ngự chiến lược của địch. Trong thời gian qua, mặc dầu bị đánh đau nhiều, binh lực bị hao tổn nặng, nhưng địch vẫn ngoan cố, không chịu rút bỏ một điểm nào. Ngay từ cuối năm 1971, Mỹ - ngụy đã phán đoán hướng tiến công chiến lược chính năm 1972 của ta không phải là Trị - Thiên, nhưng chúng vẫn tăng cường phòng vệ, ráo riết hành quân, tung biệt kích thám báo thăm dò, phát hiện lực lượng và sự chuẩn bị của ta.
Đến trung tuần tháng 2 năm 1972, lực lượng địch ở Trị - Thiên gồm có: 2 sư đoàn bộ binh (1, 3), 2 lữ đoàn lính thủy đánh bộ (147, 258), 4 tiểu đoàn, 94 đại đội bảo an, 302 trung đội dân vệ, 5.100 cảnh sát, 14 tiểu đoàn pháo binh (258 khẩu), 3 thiết đoàn 184 xe tăng, thiết giáp. Với lực lượng trên, địch tập trung bố phòng trên hai hướng Quảng Trị và Thừa Thiên, lấy Quảng Trị làm trọng điểm, ở đây luôn luôn có 5 trong số 8 trung đoàn chủ lực địch.
Lực lượng địch bố trí thành ba tuyến.
Tuyến ngoài cùng (giáp ranh giữa ta và địch), chúng bố trí tương đối chặt chẽ, liên hoàn; có không gian rất rộng kéo dài từ biển Đông đến sát biên giới Việt -Lào, có nhiệm vụ phát hiện, ngăn chặn, phá hoại sự chuẩn bị của ta từ xa. Lực lượng bảo vệ tuyến này là không quân, pháo binh, biệt kích; khẩn cấp lắm thì dùng một bộ phận nhỏ chủ lực hành quân càn quét.
Tuyến giữa, tuyến phòng thủ cơ bản quan trọng nhất, quyết định nhất trong hệ thống phòng thủ của chúng. Đó là các điểm cao, các căn cứ mà từ lâu Mỹ - ngụy đã từng huênh hoang tuyên bố "bất khả xâm phạm": Động ông Do, các điểm cao 52, 365, 548, 597, 241, 544... kéo tới tận Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quán Ngang, Cửa Việt. Nhiệm vụ của tuyến này là ngăn chặn cuộc tiến công của ta, bảo vệ các thị xã, thị trấn, các căn cứ, đường giao thông quan trọng và các vùng đã "bình định" của địch. Trên tuyến này, địch tổ chức thành từng khu vực phòng thủ cấp trung đoàn, tiểu đoàn hoặc tương đương, vừa có thể liên kết phòng giữ vừa có thể độc lập tác chiến.
Tuyến trong cùng - còn gọi là tuyến phòng thủ dự bị - từ đường số 1 kéo ra biển Đông gồm các thị trấn, thị xã đông dân: Đông Hà, Ái Tử, Quảng Trị. Binh sĩ ở hướng này có nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với bảo an dân vệ kìm kẹp, đánh phá các phong trào đấu tranh, hoặc nổi dậy của quần chúng.
Dựa trên cơ sở phân tuyến, sư đoàn 3 và các lữ đoàn phối thuộc tổ chức phòng thủ ở Quảng Trị thành năm khu vực cấp trung đoàn. Trung đoàn 57 bố trí từ Quán Ngang đến Dốc Miếu. Trung đoàn 2, từ Bái Sơn đến Cồn Tiên. Trung đoàn 56, từ điểm cao 241 đến nam Tân Lâm, lữ đoàn 147 lính thủy đánh bộ từ Mai Lộc đến Động Toàn... Lữ đoàn 258 từ Tân Điền đến điểm cao 36 7. Sở chỉ huy sư đoàn 3 đóng tại Ái Tử. . .
Nhìn chung chỗ mạnh cơ bản của địch là hệ thống phòng ngự kiên cố, vững chắc được xây dựng và hoàn chỉnh từng bước trong gần hai mươi năm nay. Đây là những cứ điểm lợi hại, có hệ thống hỏa lực mạnh đã được tính toán chi li cho pháo binh, pháo hạm và không quân Mỹ có thể khống chế được một vùng rộng lớn hai bên nam bắc sông Bến Hải. Nhưng chỗ yếu cơ bản của chúng là bên ngoài mạnh, bên trong sơ hở. Vả lại, từ khi bộ binh Mỹ rút, tinh thần binh lính ngụy hoang mang, quân dự bị chi viện lại rất yếu và thiếu . . .
Căn cứ tình hình địch triển khai trên chiến trường, chiến dịch tổ chức thành bốn cánh quân và sử dụng các lực lượng tác chiến trên từng cánh như sau:
- Cánh bắc, cánh chủ yếu, sử dụng Sư đoàn 308 (thiếu một trung đoàn), 2 trung đoàn bộ binh (48, 27), tiểu đoàn l5 độc lập, 2 trung đoàn pháo mặt đất (164, 84), 1 trung đoàn pháo cao xạ (284), 2 tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp; 2 tiểu đoàn công binh, 1 tiểu đoàn đặc công (33), 3 trung đội hoá học, trinh sát, súng phun lửa... do đồng chí Phạm Hồng Sơn, Phó tư lệnh chiến dịch và đồng chí Hoàng Minh Thi, Phó chính ủy chiến dịch trực tiếp chỉ huy, phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương tiêu diệt trung đoàn 57 và trung đoàn 2 bộ binh (thuộc sư đoàn 3) ở điểm cao 544, Đồi Tròn, Động Mã, Cồn Tiên, thừa thắng bao vây tiêu diệt Miếu Bái Sơn, Quán Ngang, sẵn sàng diệt địch ở Hồ Khê, Đá Bạc, Thiện Xuân, Lăng Cô, Gia Bình... Sau khi đã tiêu diệt toàn bộ các mục tiêu nói trên, nhanh chóng chuyển sang bao vây tiến công cụm cứ điểm Đông Hà, kiên quyết không cho địch co cụm đối phó.
- Cánh tây, sử dụng Sư đoàn bộ binh 304, trung đoàn pháo binh 38, bốn trung đoàn pháo cao xạ (230, 232, 241, 280), 2 tiểu đoàn tên lửa, 1 tiểu đoàn xe tăng, 1 tiểu đoàn công binh do đồng chí Hoàng Đan, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304 chỉ huy, đảm nhận tiến công tuyến phòng ngự phía tây của địch ở Động Toàn, Ba Tum, vây ép Ba Hồ; nếu địch phản ứng có thể tổ chức tiêu diệt trước thời gian quy định, nhằm thu hút địch cho các cánh khác chuẩn bị. Sau đó, toàn cánh phối hợp với cánh bắc chiếm Núi Kiếm, bao vây tiêu diệt các cứ điểm 241, Mai Lộc, Đầu Mầu, sẵn sàng tiến công tiêu diệt Ái Tử.
- Cánh nam do Sư đoàn 324 (thiếu 1 trung đoàn) cùng các đơn vị phối thuộc, phối hợp chặt chẽ với 3 tiểu đoàn địa phương tỉnh Quảng Trị, do đồng chí Giáp Văn Cương, Phó tư lệnh và đồng chí Lê Tự Đồng, Phó Chính ủy Bộ tư lệnh chiến dịch chỉ huy, có nhiệm vụ tiêu diệt địch ở nam và bắc sông Thạch Hãn, chủ yếu là khu vực Phượng Hoàng, Động ông Do và một đoạn đường số 1 bắc sông Mỹ Chánh, thực hiện thật tốt chia cắt chiến dịch, hỗ trợ cho nhân dân Triệu Phong, Hải Lăng nổi dậy diệt ác, phá kìm giành quyền làm chủ. .
- Cánh đông, cánh thứ yếu của chiến dịch, kéo dài trên một dải đất hẹp từ Hoàng Hà, Mai Xá lên ngã ba Gia Độ hầu hết là những doi cát trắng và những cánh đồng quanh năm ngập nước. Ở đây, tuy cơ sở cách mạng vững, bộ đội địa phương và du kích tự vệ có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, đa số nhân dân theo cách mạng, nhưng đường cơ động của bộ đội chủ lực khó, nhất là việc triển khai binh khí kỹ thuật cơ giới. Mặt khác, bọn địch chốt giữ khu vực này từ lâu đã có hệ thống phòng thủ vững chắc, thông thạo địa hình, phản ứng nhanh, pháo hạm và giang thuyền nhiều, gây cho ta không ít khó khăn trở ngại. Từ tình hình đó Bộ tư lệnh quyết định sử dụng tiểu đoàn 47 bộ đội Vĩnh Linh, 2 tiểu đoàn đặc công (31, 25), một tiểu đoàn vận tải mang vác, 4 đại đội địa phương và đoàn đặc công hải quân 126, do đồng chí Bùi Thúc Dưỡng, Tham mưu phó chiến dịch chỉ huy, đảm nhiệm bao vây Dốc Miếu, Quán Ngang từ phía đông, tiêu diệt căn cứ hải thuyền Cửa Việt, phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương tiêu diệt và làm tan rã lực lượng kìm kẹp của địch, hỗ trợ quần chúng Do Linh, Triệu Phong nổi dậy giành quyền làm chủ.
Về phương châm, phương pháp chỉ đạo và thực hiện tác chiến, Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Chính ủy chiến dịch nhấn mạnh: Cần tranh thủ đánh dã ngoại để tiêu diệt sinh lực địch và phương tiện chiến tranh, tạo thời cơ đánh những trận quyết định tiêu diệt từng trung đoàn, lữ đoàn địch, phá vỡ tuyến phòng thủ, nhanh chóng đột phá tung thâm, không cho chúng đối phó. Đồng thời phát huy cao độ uy lực của mọi loại binh khí kỹ thuật hiện có, đánh tập trung hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, coi trọng đánh vừa và nhỏ, đánh sâu và hiểm bằng những lực lượng tinh nhuệ, hỗ trợ cho nhân dân tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên nổi dậy giành quyền làm chủ. Đó vừa là ý chí quyết tâm vừa là tình cảm thiêng liêng của cán bộ, chiến sĩ trên Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị. Khẩu hiệu "Tất cả vì Quảng Trị thân yêu”, "Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, phải trở thành tâm huyết của mỗi người. Trong chiến đấu dù gặp phải khó khăn gian khổ, ác liệt hy sinh đến mấy cũng đập tan hệ thống phòng ngự mà một thời Mỹ - ngụy đã rêu rao "Kiên cố nhất chiến trường Đông Dương”, là "bất khả xâm phạm".
Tiếp theo Hội nghị Đảng ủy Bộ tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên, ngày 19 tháng 3 năm 1972, Thường vụ Tỉnh ủy và Tỉnh đội Quảng Trị đã họp bàn thực hiện nhiệm vụ. Tinh thần nghị quyết nêu rõ: Quân và dân trong tỉnh tích cực chuẩn bị mọi mặt, phối hợp với bộ đội chủ lực, tận dụng mọi thời cơ thuận lợi, động viên mọi khả năng, nhanh chóng khắc phục những khó khăn, vượt qua hy sinh, ác liệt đánh bại mọi kế hoạch bình địch của địch, giành quyền làm chủ hầu hết nông thôn đồng bằng, giải phóng 75% đến 95% dân số...
Sau khi thảo luận cân nhắc kế hoạch tác chiến, Thường vụ Tỉnh ủy và Tỉnh đội Quảng Trị quyết định lãnh đạo, tổ chức chỉ huy lực lượng vũ trang địa phương thành hai hướng:
- Hướng bắc gồm hai huyện Do Linh, Cam Lộ và thị xã Đông Hà do đồng chí Nguyễn Thư, Uỷ viên Thường vụ Tỉnh ủy, Chỉ huy trưởng quân sự tỉnh phụ trách.
- Hướng nam gồm hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng và thị xã Quảng Trị do đồng chí Nguyễn Đức Dũng, Phó bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Nguyễn Văn Lương, ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy đảm nhiệm.
Cuối tháng 2 năm 1972, khi thời điểm chiến dịch càng đến gần thì nhịp độ chuẩn bị hoàn thiện cho tác chiến càng khẩn trương hơn bao giờ hết. Bên cạnh việc tăng cường trinh sát kỹ các mũi, hướng, đưa các tổ đài kỹ thuật luồn sâu bám nắm địch, báo cáo kịp thời cho chỉ huy các cấp xử lý các tình huống xảy ra; mở gấp và hoàn chỉnh các mạng đường tiến công, Bộ tư lệnh chiến dịch bắt đầu ra lệnh cho các cánh quân hành quân vào vị trí dừng chân, nhanh chóng bổ sung đầy đủ vật chất trang bị chiến đấu; đồng thời tiếp tục chỉ đạo nghi binh chiến dịch. Trong nghệ thuật chiến dịch, điều quan trọng hàng đầu là phải giữ được bí mật, tạo được bất ngờ. Đối với một chiến dịch quy mô lớn như chiến dịch Trị - Thiên năm 1972, với mức độ huy động lực lượng lớn, với hàng nghìn công tác chuẩn bị phức tạp; giữ được bí mật, tạo được bất ngờ là điều hết sức khó khăn, nhưng cũng hết sức cần thiết.
Để đảm bảo tốt cho nghi binh chiến dịch, Bộ chỉ huy chiến dịch đã chỉ đạo Tỉnh đội Quảng Trị thực hiện một số trận đánh cài thế ở cánh nam và cánh đông để lừa địch. Các bộ phận cơ động chuẩn bị chiến dịch, chủ yếu dựa vào hệ thống thông tin hữu tuyến tại chỗ của các đơn vị để sử dụng, tuyệt đối không dùng vô tuyến liên lạc. Tổ đài vô tuyến của Sư đoàn 304 tiếp tục được lệnh hành quân vào Tây Nguyên, thường xuyên phát lên không trung những chỉ thị, mệnh lệnh giả . . .
Đối với công tác hậu cần, do chuyển hướng chiến dịch rất khẩn trương, thời gian chuẩn bị chiến dịch rất ngắn, trong khi đó phải đảm bảo một khối lượng vật chất rất lớn, nên trên đường vào tham gia chỉ đạo chiến dịch, Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng đã trực tiếp làm việc với đồng chí Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần đang công tác ở Đoàn 559 và đồng chí Đồng Sỹ Nguyên, Tư lệnh 559 kế hoạch tập trung bảo đảm cho chiến dịch Trị - Thiên.
Đến ngày 26 tháng 3 năm 1972, mọi công việc chuẩn bị cho chiến dịch đã cơ bản hoàn thành. Cục Vận tải Đoàn 559 và Đoàn vận tải Quân khu 4 cùng 50.000 dân công hỏa tuyến của các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, hàng nghìn thanh niên xung phòng, bằng các phương tiện vận chuyển ô tô, xe thồ, mang vác tập kết được 16.020 tấn hàng đạt yêu cầu thời kỳ đầu của chiến dịch.
Có được thành tích to lớn trong bước cài thế chuẩn bị chiến dịch, cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận chẳng những phải nỗ lực vượt bậc để thực hiện nhiệm vụ trên giao, mà còn phải biết vận dụng những kinh nghiệm trong lãnh đạo chỉ huy chiến dịch, chiến đấu trên mỗi cương vị chỉ huy của mình. Ở chiến trường Quảng Trị, kinh nghiệm này không chỉ mới xuất hiện trong chiến dịch năm 1972, mà còn ở tất cả các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược trong những năm tháng đánh Mỹ. Vì thế, kẻ thù ở Mặt trận Đường 9 -Bắc Quảng Trị không chỉ bị bất ngờ vì các chiến dịch có nhiều sư đoàn, binh đoàn chủ lực của Bộ tham dự, mà còn bị bất ngờ trước các trận chiến đấu của các trung đoàn bộ binh 27, 246, Đoàn đặc công hải quân 126, Trung đoàn pháo binh 84, hai tiểu đoàn đặc công 31, 33... thường xuyên có mặt trên chiến trường, làm cho Mặt trận luôn luôn sôi động. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện cài thế chiến dịch, đội hình hành quân rất lớn của ta vẫn vấp phải thương vong, phần lớn do địch đánh phá theo kế hoạch trên tuyến giao thông vận chuyển chiến lược, chiến dịch và sự chuẩn bị chiến trường của ta. (Chú thích: Tổn thất: hy sinh 34, bị thương 75; hỏng 4 pháo mặt đất, 17 pháo cao xạ, 8 xe tăng, 12 xe xích, 39 ô tô.)
Cuối tháng 3 năm 1972, khi các binh đoàn chủ lực của ta đã cài thế chiến dịch xong và sẵn sàng lao vào trận quyết chiến, thì bọn tướng tá ngụy và quan thầy của chúng vẫn sa vào thế "mê hồn trận" chưa đoán định được hướng nào là hướng chính của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của ta. Chính Nguyễn Văn Thiệu và những người giúp việc của y sau tết nguyên đán Nhâm Tý đã liên tục bay đi thị sát các chiến trường; ở đâu y cũng chỉ nhắc nhở vài câu, đại ý: Cộng quân Bắc Việt sẽ tiến công, nhưng khả năng không bằng Mậu Thân năm 1968. Và, quân lực Việt Nam Cộng hòa sẵn sàng chiến đấu chống sự xâm lăng của cộng sản. Phan Bá Hòa, đại tá tỉnh trưởng Quảng Trị thì tỏ ra lạc quan với "tình hình an ninh Quảng Trị đã đạt tới một trăm phần trăm" và tuyên bố "quân lực Việt Nam Cộng hòa đã quét sạch đối phương", "Việc phát triển bình định đã hoàn thành”. Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh sư đoàn bộ binh 3 trấn ải bắc Quảng Trị tuy không lộ rõ niềm hân hoan như đại tá Hòa nhưng cũng tỏ ra "lạc quan trước sự yên ổn của tỉnh Quảng Trị". Vì vậy theo kế hoạch, cuối tháng 3 Vũ Văn Giai vẫn cho các đơn vị trong sư đoàn thay quân: tiểu đoàn 2 (trung đoàn 2) từ Đông Hà ra Cồn Tiên; tiểu đoàn 3 (trung đoàn 66) từ Cồn Tiên vào Tân Lâm, Đầu Mầu; tiểu đoàn 3 (trung đoàn 2) thay tiểu đoàn 1 ở điểm cao 544, v.v...
Mãi đến ngày 29 tháng 3, khi mà Phan Bá Hòa và Vũ Văn Giai đang chuẩn bị nghênh đón trung tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh quân đoàn 1, quân khu 1 ra úy lạo thiết đoàn 20 ở Đông Hà thì chúng mới phát hiện ra "mấy sư đoàn tinh nhuệ với hỏa lực tối đa của cộng sản" đã thình lình xuất hiện tấn công vào "Phòng tuyến Mắc Na-ma-ra’, thì thầy tớ chúng mới cuống cuồng lo đối phó. Hàng loạt bức điện khẩn cấp từ Ái Tử, Đông Hà, Quảng Trị được phát về Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn "báo cáo về tình hình nguy cấp sẽ diễn ra ở Quảng Trị”. Đề nghị với quân đoàn 1 và quân lực Việt Nam cộng hòa nhanh chóng cho tăng viện ở Quảng Trị.
Sáng ngày 30 tháng 3 năm 1972, theo thường lệ Bộ tư lệnh chiến dịch giao ban nắm tình hình và kiểm tra lần cuối mọi công tác chuẩn bị cho giờ G (giờ nổ súng của chiến dịch), thì vào lúc 8 giờ 30 phút đồng chí Kim Hùng Trưởng phòng quân báo của mặt trận báo cáo "trung đoàn 56 ngụy đang thay quân ở điểm cao 544 và Đồi Tròn". Với vẻ mặt đầy hào hứng, vui vẻ như đã vượt qua khó khăn trong quá trình chuẩn bị chiến dịch, Tư lệnh chiến dịch Lê Trọng Tấn nói: "Đây là thời cơ nổ súng tốt nhất, đảm bảo bất ngờ nhất, vì địch chưa biết thời điểm tấn công của ta! Kế hoạch là 16 giờ mới nổ súng, nhưng ta đề nghị cho đánh ngay vào 11 giờ 30 phút trưa nay!".
Chiến dịch tiến công Trị - Thiên được bắt đầu bằng trận đánh địch thay quân ở khu vực điểm cao 544. Khoảng 10 giờ, đội hình hành quân tiểu đoàn 2 địch lọt hẳn vào trận địa phục kích của tiểu đoàn 3 do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Huy Hiệu và chính trị viên Trần Xuân Gừng chỉ huy ở bình độ 322 và 288. Tuy chưa đến giờ quy định của Mặt trận, nhưng tiểu đoàn vẫn quyết định nổ súng không chỉ vì bọn địch chủ quan, sơ hở, mà cái chính là tiêu diệt được bọn địch ở đây, sẽ tạo thuận lợi cho tiểu đoàn bạn và cả trung đoàn nhanh chóng đánh chiếm điểm cao 544 và Đồi Tròn.
Sau hơn một giờ chiến đấu, tiểu đoàn 3 được sự chi viện của hỏa lực ĐKZ, cối 82 của trung đoàn đã tiêu diệt gọn tiểu đoàn 2, bắt sống tiểu đoàn trưởng Hà Thúc Mẫn, phá tan kế hoạch thay quân của địch.
Thắng lợi của tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 27) càng làm cho tiếng súng mở đầu chiến dịch thêm giòn giã. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 3 năm 1972, tại sở chỉ huy chiến dịch, lệnh tấn công Quảng Trị được phát ra. Cả mặt trận lao vào chiến dịch quyết chiến với quân thù.
Mở màn chiến dịch, hàng chục trận địa pháo binh với hàng trăm khẩu đại bác các loại, theo phần tử đã được tính toán sẵn, cùng gầm lên một lúc như sấm rền chớp giật lan tỏa cả một vùng không gian rộng lớn từ Dốc Miếu, Cồn Tiên, Dốc Sỏi, Miếu Bái Sơn đến điểm cao 544, Đồi Tròn, Đầu Mầu, Tân Lâm, Động Toàn, Đông Hà, Ái Tử... Ngay từ phút đầu, pháo binh ta đã bắn trúng hàng loạt các mục tiêu quy định dìm đầu quân địch tạo điều kiện cho bộ binh và xe tăng áp sát mục tiêu.
Tại cánh bắc, các trung đoàn bộ binh 27 và 48 (Sư đoàn 320B) sau một đêm hành quân vượt qua những bãi mìn, những toạ độ pháo cối của địch, triển khai trận địa, nóng lòng chờ đợi giờ nổ súng. Khi giờ "G” mới điểm, pháo chiến dịch thi nhau giã xuống các căn cứ địch, Trung đoàn 27 ào ạt đánh lên điểm cao 544. Sau hai mươi phút chiến đấu, các chiến sĩ tiểu đoàn 2 đã cắm cờ giải phóng lên căn cứ địch. Thừa thắng xốc tới, tiểu đoàn 2 tiếp tục tiến xuống bao vây công kích Đồi Tròn. Cùng lúc với hỏa lực cối, ĐKZ, 12,7 ly bắn phá mãnh hệt, tiêu diệt hỏa điểm lộ; trung đoàn cho tiểu đoàn sử dụng hai bộ vũ khí FR mở tung hai cánh cửa, ào căn cứ địch. Bọn địch hoang mang định rút chạy. Chớp thời cơ, bộ đội ta ào ạt tiến lên, vừa truy kích, vừa gọi hàng, vừa tiêu diệt những tên ngoan cố chống cự. Đến 10 giờ sáng ngày 31 tháng 3 năm 1972, Trung đoàn 27 đã giải phóng căn cứ Đồi Tròn. Tối hôm đó, một hãng tin phương Tây đã phát đi từ Huế. "Tướng Giai đã để lọt vào tay Quân giải phóng hai căn cứ tiền tiêu cực kỳ quan trọng ở bắc đường số 9 một cách nhanh chóng:. “. Thế là mắt xích quan trọng trong hàng rào điện tử Mắc Na-ma-ra bị chặt đứt.
Hướng Trung đoàn 48; sau khi tiêu diệt địch ở khu vực Quất Xá, cầu Đuồi, quân ta đã nhanh chóng chuyển sang bao vây chi khu Cam Lộ, ngăn chặn địch rút chạy và tăng viện cho đường 9. Trưa ngày 31 tháng 3, để cứu nguy cho đồng bọn đang bị bao vây, địch cho 2 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 56 có xe tăng, thiết giáp yểm trợ lên giải tỏa và tăng cường giữ sở chỉ huy trung đoàn ở điểm cao 241. Tiểu đoàn 15 và các đơn vị có hỏa lực tăng cường của ta đã chặn đánh quyết liệt bọn này ở cầu Thiện Xuân, buộc chúng phải dừng lại chống đỡ chờ quân tăng viện.
Cùng thời gian này, trên hướng Cồn Tiên, Miếu Bái Sơn, Đoàn bộ binh 31 của ta đã nhanh chóng bao vây chia cắt tiêu diệt bọn địch cơ động ở vòng ngoài; sau đó, cùng lực lượng vũ trang địa phương vây hãm căn cứ Cồn Tiên. Lo sợ trước đòn tiến công như vũ bão của ta, ngay chiều ngày 31 thảng 3, bọn địch còn lại ở Cồn Tiên bỏ căn cứ tháo chạy về Miếu Bái Sơn, mở đầu cuộc rút chạy trên tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch.
Ở cánh tây cánh trọng yếu của chiến dịch, ngay sáng ngày 30 tháng 3, khi sương mù chưa tan hết trên đỉnh căn cứ Động Toàn, cứ điểm Ba Hồ và các thung sâu kế cận, một bộ phận trinh sát của Trung đoàn 66 đã phục kích diệt gọn 1 trung đội địch nống ra lùng sục để phát hiện bàn đạp tấn công của ta. Đến 11 giờ 45 phút trưa, nắng xuân mới bừng lên soi tỏ từng lô cốt đen ngòm trên đỉnh Động Toàn thì cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 304 được chứng kiến một cơn bão lửa đại bác, hỏa tiễn chưa từng thấy trút xuống hàng chục căn cứ địch rải dọc hai bên đường 9, dọc hàng rào điện tử Mắc Na-ma-ra. Những chớp lửa nhằng nhịt, những đụn khói xám xịt như những cái nấm cứ thi nhau trùm lên căn cứ địch.
Chớp thời cơ bọn địch đang hoảng loạn, 11 giờ 55 phút, Phó sư đoàn trưởng Duy Sơn một mặt lệnh cho hai trung đoàn pháo (68, 38) tiếp tục bắn phá Động Toàn, Ba Hồ, Mai Lộc, điểm cao 241; mặt khác, lệnh cho Trung đoàn 9 lợi dụng kết quả pháo bắn, bao vây tiến công quân địch ở điểm cao 252. Trận đánh diễn ra rất ác liệt. Sau 8 giờ chiến đấu, người trước ngã, người sau xông lên, tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 9) đã làm chủ điểm cao 252 và truy kích diệt bọn địch bỏ chạy về điểm cao 245.
Đến trưa ngày hôm sau (31-3), Trung đoàn trưởng Lê San ra lệnh cho tiểu đoàn 2 (trung đoàn 9) tiếp tục bao vây tiến công căn cứ Đầu Mầu - một trong những vị trí phòng thủ quan trọng từ phía tây bắc căn cứ Tân Lâm. Sau hai giờ chiến đấu, được sự chi viện đắc lực của pháo binh chiến dịch, quân ta đã làm chủ căn cứ diệt gọn tiểu đoàn 3 trung đoàn 56 ngụy, bắt sống 31 tên, thu toàn bộ vũ khí, khí tài và quân trang quân dụng. Đầu Mầu bị tiêu diệt, tạo điều kiện thuận lợi để ta đưa lực lượng Trung đoàn 24 và Trung đoàn 9 vào bao vây tiêu diệt bọn địch ở Núi Kiếm và căn cứ 241 - sở chỉ huy trung đoàn 56 ngụy.
Trong khi Trung đoàn 9 phát triển khá thuận lợi thì trên hướng Trung đoàn 66 đánh chiếm Động Toàn gặp rất nhiều khó khăn. Đúng 12 giờ trưa ngày 30 tháng 3, ngay sau khi pháo binh ta bắn phá tạm ngừng. Trung đoàn 66 chia làm ba hướng đã ồ ạt đánh lên điểm cao 548. Tiểu đoàn 7 tổ chức hỏa lực B40, B41 , đại liên bắn phá mãnh liệt các lô cốt tiền tiêu hỗ trợ cho các bộc phá viên dùng bộc phá và mìn định hướng ĐH10 phá rào. Tiểu đoàn 8 tổ chức từng phân đội tiến công đẩy lùi quân địch, nhằm đánh chiếm đầu cầu. . . Nhưng tiểu đoàn lính thủy đánh bộ 4 (lữ đoàn 147) lợi dụng hầm hào kiên cố, vách đá và dốc đứng của Động Toàn chống trả quân ta rất quyết liệt. Nhiều nơi đã xảy ra những trận đánh đẫm máu để giành từng mỏm đất, đoạn hào...
Trận đánh kéo dài tới ngày thứ ba. Với sự yểm trợ đắc lực của hỏa lực các loại, Trung đoàn 66 mới làm chủ được Động Toàn. Cùng thời gian trên, tiểu đoàn đặc công 19 của sư đoàn, bằng lối đánh táo bạo: vây chặt, tiến công nhanh tiêu diệt tiểu đoàn 1 (lữ 147) giải phóng cứ điểm Ba Hồ. Rạng sáng ngày 2 tháng 4, những lá cờ chiến thắng mang tên "Chiến thắng Đầu Mầu”, "Chiến thắng Động Toàn”, "Chiến thắng Ba Hồ”... của Sư đoàn 304 đã phấp phới tung bay trên một loạt các điểm cao phía tây bắc Quảng Trị.
Hiệp đồng tiếng súng tiến công với hai hướng chủ yếu ở cánh đông, Trung đoàn đặc công hải quân 126 táo bạo tiến công duyên đoàn 11 ở cảng và hai bên bờ sông Cửa Việt, khoá chặt quân cảng không cho địch ở biển vào cũng như từ Đông Hà ra. Trong khi đó, căn cứ Dốc Miếu nằm bên trục đường 1 vừa bị pháo kích phá hủy nặng nề, vừa bị vây hãm từ ba phía.
Sáng ngày 1 tháng 4, trước nguy cơ bị tiêu diệt. địch ở Dốc Miếu, Dốc Sỏi hoảng hốt bỏ chạy về Quán Ngang.
Trước tình thế thuận lợi, tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh kết hợp chặt chẽ với bộ đội đặc công, dân quân du kích địa phương tiến công tiêu diệt các lực lượng vũ trang địch ở các thôn ấp, chi khu, đập tan hệ thống kìm kẹp, giải phóng quận lỵ Do Linh, khu tập trung Bến Ngự, Mai Xá Thị, Xuân Khánh, Hà Thượng. . . tạo điều kiện cho nhân dân các xã Do Hà, Do Lễ, Do Mỹ, khu tập trung Quán Ngang nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ.
Cánh nam do Sư đoàn 324 đảm nhiệm. Đêm ngày 29 rạng ngày 30 tháng 3, sư đoàn tổ chức cho Trung đoàn 1 và Trung đoàn 2 cùng các đơn vị phối thuộc hành quân chiếm lĩnh trận địa.
Trên hướng Trung đoàn 1, mặc dù gặp khó khăn do biệt kích, thám báo phát hiện gọi pháo bắn ngăn chặn, nhưng cán bộ, chiến sĩ trung đoàn vẫn lặng lẽ vượt qua những khó khăn ác liệt ban đầu, hình thành thế trận bao vây điểm cao 365 - một điểm cao có tầm khống chế mọi hoạt đông của ta ở nam căn cứ Mai Lộc, bắc điểm cao 367 - một "lá chắn thép" chặn đường quân ta tiến xuống đổng bằng Quảng Trị. Do tính chất quan trọng ấy, địch đã bố trí tiểu đoàn lính thủy đánh bộ 8 (lữ đoàn 147) chốt giữ. Gần 11 giờ, như thường lệ, hai trực thăng từ Ái Tử bay lêu 365 tiếp tế vật chất. Khi cánh quạt trực thăng chưa dừng hẳn và bọn địch còn đang hò nhau lôi đẩy hàng thì lệnh tiến công trên toàn tuyến phát ra. Ngay từ loạt đạn đầu, hai trực thăng đã bốc cháy. Lửa cháy, đạn nổ, khói bay càng phấn khích cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 1 lao vào trận đánh.
Đến 17 giờ, hầu hết hỏa điểm lộ xung quanh căn cứ 365 bị phá hủy. Địch hoang mang cực độ định bỏ chạy. Nhưng mọi con đường về hướng đông đã bị khoá chặt, Trung đoàn 1 lần lượt xung phong tiêu diệt những ổ kháng cự. 18 giờ ta làm chủ hoàn toàn trận địa. Mất điểm cao 365, địch ở điểm cao 367 hoang mang rút chạy về căn cứ Phượng Hoàng.
Sáng ngày 2 tháng 2, trên cánh bắc, sau khi nhận được lệnh thông báo tình hình địch của Bộ tư lệnh chiến dịch. Ban chỉ huy Trung đoàn 48 (sư đoàn 320B) tổ chức triển khai chiến đấu ngay. Trung đoàn cho tiểu đoàn 1 bôn tập tiến công cụm địch hỗn hợp của thiết đoàn 20 đang tiến lên giải tỏa Cam Lộ. Tiểu đoàn 2 phối hợp với đơn vị bạn tiêu diệt cụm địch ở đông bắc chi khu quân sự Cam Lộ. Bị bộ đội ta tiến công từ nhiều phía, một bộ phận của thiết đoàn 20 đi cứu viện bị đánh thiệt hại nặng, số còn lại vượt đồi Cao Hạ tháo chạy về Đông Hà. Thấy quân chi viện bị đánh tan, quận trưởng Cam Lộ và cấp dưới của hắn bỏ chạy không kịp mang theo dấu ấn và tài liệu mật.
Cánh tây bắc, Trung đoàn 24 (Sư đoàn 304) siết chặt vòng vây tiến công mãnh liệt quân địch ở điểm cao 241, căn cứ chỉ huy trung đoàn 56 ngụy. Khiếp đảm sức mạnh tấn công như vũ bão của ta, toàn bộ quân ngụy trong căn cứ gồm chỉ huy, cơ quan tham mưu trung đoàn cùng một tiểu đoàn bộ binh và các đại đội trực thuộc do trung tá trung đoàn trưởng Phạm Văn Đính, thiếu tá trung đoàn phó Nguyễn Vĩnh Phong chỉ huy chấp nhản đầu hàng. Ta chiếm căn cứ, tiếp nhận hàng binh và vũ khí phương tiện. 12 giờ 45 phút ngày 2 tháng 4 toàn bộ khu vực phòng thủ của trung đoàn 56 ngụy bị phá vỡ. Đây là trung đoàn ngụy đầu tiên bị ta tiêu diệt trong chiến dịch.
Phối hợp với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở vòng ngoài, bộ đội đặc công, bộ đội địa phương và các tổ võ trang công tác tỉnh Quảng Trị đã bí mật luồn sâu vào hậu cứ địch mật tập một số mục tiêu ở Đông Hà, Ái Tử, thị xã Quảng Trị khiến cho địch càng thêm bối rối hoang mang. Bộ đội địa phương, du kích hai huyện Do - Cam chia thành nhiều cụm, nhiều khu bám sát các mục tiêu được phân công chuẩn bị đánh địch. Khoảng 2 giờ sáng ngày 31 tháng 3, các lực lượng vũ trang luồn sâu đồng loạt nổ súng vào các mục tiêu, phát động quần chúng nổi dậy diệt ác, phá kìm, phá các khu tập trung đưa dân về làng cũ. Các xã có lực lượng tại chỗ mạnh như Do Hải, Cùa, Ba Lòng, khi bộ đội chủ lực tiến công áp đảo địch, quần chúng chủ động nổi dậy. Đặc biệt xã Do Hà, tuy bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương chưa đến, nhưng lực lượng du kích ở đây cũng chớp thời cơ nổi dậy diệt địch, giải phóng quê hương.
Ở các xã Cam Chính, Cam Nghĩa, trước giờ nổ súng, các đồng chí ở huyện uỷ Cam Lộ đã phát động trên 2.000 quần chúng tự trang bị mọi mặt sẵn sàng nổi dậy. Trong khu tập trung đồng bào dân tộc thiểu số ở nam Cùa, lực lượng cách mạng vận động 3 trung đội dân vệ làm binh biến, khởi nghĩa cướp xe ô tô của địch, cắm cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng chạy khắp khu tập trung, kêu gọi đồng bào phá ấp chiến lược trở về bản cũ. Ở Ba Lòng, các đội vũ trang công tác vận động được 14 lính ngụy ra đầu thú, tuyển chọn thanh niên tăng cường cho đội vũ trang của xã...
Đến ngày 4 tháng 4, toàn bộ các vị trí địch trên ba cánh cung đông - tây - bắc được mệnh danh "lá chắn thép", “pháo đài bất khả xâm phạm” bị ta xoá sạch. Ta tiêu diệt gọn 1 trung đoàn, đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn và thiết đoàn 20. Bốn căn cứ trung đoàn, 7 căn cứ tiểu đoàn và nhiều căn cứ dã chiến khác đã trở thành bàn đạp để ta tiếp tục tiến công sâu vào tuyến phòng thủ dự bị của địch. Ba huyện Hướng Hóa, Cam Lộ, Do Linh với hơn 10 vạn dân được giải phóng.
Bị mất tuyến phòng thủ vòng ngoài, địch vội vã tăng cường lực lượng đối phó. Ngày 2 tháng 4 năm 1972 Nguyễn Văn Thiệu từ Sài Gòn ra Huế thị sát tình hình và khẩn trương mở cuộc họp với các tư lệnh quân khu, sư đoàn, lữ đoàn bàn cách "ngăn chặn hữu hiệu sự xâm lăng của cộng sản!". Nguyễn Văn Thiệu một mặt khích lệ "tinh thần quả cảm vô song của binh lính đồn trú ở biên ải", mặt khác ra lệnh cho quân khu 1 và sư đoàn 3 bộ binh tổ chức cụm phòng ngự Đông Hà - Ái Tử - La Vang và quyết tâm "tử thủ” tại đó. Đồng thời, Thiệu cũng chỉ thị cho Bộ Tổng Tham mưu ngụy cấp tốc tăng viện cho mặt trận Quảng Trị.
Ngày 4 tháng 4, Mỹ - ngụy không vận lữ đoàn lính thủy đánh bộ 369 từ Sài Gòn ra Mỹ Chánh. Ngày 5 tháng 4, không vận tiếp 3 liên đoàn biệt động quân (4, 5, 6) từ quân khu 2, quân khu 4 ra tăng cường cho Đông Hà, Quảng Trị. Chỉ trong hai ngày, bằng sự nỗ lực cao nhất, chúng đã đưa được 9 tiểu đoàn tới mặt trận nóng bỏng này. Cùng với việc tăng cường lực lượng phòng thủ, chúng ra lệnh cho các lực lượng không quân (kể cả máy bay chiến lược B52) và pháo hạm oanh kích ngăn chặn sự tiến công của ta. Địch lợi dụng các điểm cao còn lại ở phía tây tổ chức thành tuyến phòng thủ liên hoàn, hỗn hợp bộ binh xe tăng với lối đánh phân tán nhỏ, di động nhanh để tránh hỏa lực và tránh bị tiêu diệt lớn.
Trước diễn biến phức tạp của tình hình này, ngày 6 tháng 4 năm 1972, Bộ tư lệnh chiến dịch nhận định: Địch tuy đã tăng cường lực lượng nhưng chưa được củng cố, tinh thần đang hoang mang, nếu ta đánh nhanh, đánh mạnh thì chúng sẽ tan vỡ. Bộ tư lệnh quyết tâm tiến công vào khu trung tâm phòng ngự của địch, không cho chúng kịp củng cố thế trận.
Về sử dụng lực lượng, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định dùng Sư đoàn 308 (thiếu Trung đoàn 88) được tăng cường Trung đoàn 28 và 2 đại đội xe tăng, tiến công tiêu diệt địch co cụm ở Đông Hà - Lai Phước; Sư đoàn 304 (thiếu Trung đoàn 66) tiến công địch ở Ái Tử, khống chế cầu Quảng Trị chặn đường rút lui của địch; Sư đoàn 324 (thiếu) đánh địch ở La Vang, Tích Tường, cắt giao thông quốc lộ số 1 đoạn từ cầu Nhùng đến cầu Mỹ Chánh. Trung đoàn 27 và tiểu đoàn 47 được hai đại đội xe tăng chi viện, thọc sâu vu hồi ở cánh đông diệt địch hỗ trợ nhân dân nổi dậy làm chủ hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng.
Sau hai ngày chuẩn bị cơ sở vật chất và điều chỉnh lực lượng vào khu vực tác chiến, đúng 15 giờ ngày 8 tháng 4, Bộ tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho các cụm pháo binh bắn phá mãnh liệt cụm căn cứ Đông Hà - Ái Tử - La Vang. Tiếp đó, cho các mũi hướng bộ binh cơ giới lợi dụng pháo bắn và đêm tối dâng đội hình chiếm lĩnh trận địa.
Đến 5 giờ sáng ngày 9 tháng 4, trên hướng Đông Hà do Sư đoàn 308 đảm nhiệm. Trung đoàn 36 và Trung đoàn 102 được xe tăng, thiết giáp yểm trợ đột phá mãnh liệt bọn địch trên một cánh cung dài 8 km từ chùa Tám Mái (tây bắc Đông Hà) sang điểm cao 32, qua dãy động Quai Vạc. Sau hai giờ chiến đấu, bộ binh và xe tăng ta đã chiếm được một số mỏm đồi ở phía bắc và phía tây, tiêu diệt được một số tổ chốt hỗn hợp xe tăng và bộ binh địch. Nhưng sau đó bị địch tổ chức phản kích nhiều lần rất quyết liệt, quyết đánh bật quân ta ra khỏi các vị trí mới chiếm được, Trung đoàn 36 đã phải điều phân đội xe tăng dự bị từ phía sau lên đột phá giữ trận địa. Các chiến sĩ xe tăng của ta thiếu kinh nghiệm chiến đấu, lại có phần chủ quan nên bị xe tăng và súng chống tăng địch nằm bí mật trong công sự bắn cháy 3 xe. Bộ đội ta phải chiến đấu vất vả mới giữ được trận địa .
Ở phía tây Ái Tử, 5 giờ sáng ngày 9 tháng 4, Trung đoàn 24 Sư đoàn 304 được xe tăng yểm trợ chiếm căn cứ Phượng Hoàng - một vị trí sống còn của Ái Tử. Chiều cùng ngày, địch tăng quân phản kích chiếm lại. Đến 17 giờ ngày 10 tháng 4, sau hai lần tập trung đột phá quyết liệt ta mới chiếm lại được.
Ở cánh đông, hai tiểu đoàn đặc công (19, 25) và tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh bí mật vượt sông Cửa Việt tiến công địch ở một số xã phía bắc huyện Triệu Phong. Nhưng bọn bảo an dân vệ ở đây được lính chủ lực hỗ trợ đã chống trả quyết liệt, ta bị tổn thất không đủ sức chốt giữ đành phải rút sang phía bắc sông Thạch Hãn để củng cố chấn chỉnh.
Như vậy, qua hai ngày tiến công địch trên tuyến phòng thủ cơ bản Đông Hà - Ái Tử - Quảng Trị, các đơn vị của ta không những không làm chủ được các mục tiêu được giao, trái lại còn bị những tổn thất về sinh lực và phương tiện chiến đấu. Sở dĩ gặp trở ngại đó là vì chúng ta không nắm được sự thay đổi về hình thức chiến thuật phòng ngự của địch - một hình thức chiến thuật phòng ngự di động mà chúng gọi là "chiến thuật di tản".
Tư tưởng chủ yếu của chiến thuật này là tận dụng khả năng chống đỡ của vỏ thép và sức cơ động lớn xe tăng, thiết giáp trên địa hình đồi bằng liên tục, kết hợp với bộ binh thành từng cụm gồm một tiểu đoàn bộ binh và một chi đoàn thiết giáp. Trong từng cụm, chúng phân thành từng tốp nhỏ. Các cụm liên hoàn yểm trợ cho nhau thành tuyến phòng ngự. Ở vòng ngoài, chúng luôn luôn thay đổi vị trí, ngày ở chỗ này, đêm ở chỗ khác. Xe tăng được ngụy trang kín đáo nằm trong công sự nhô tháp pháo lên thành một hỏa điểm mạnh. Chưa phát hiện được ta, chúng bí mật nằm yên. Khi phát hiện được, chúng thông báo cho nhau hợp đồng chống cự hay phản công. Ở vòng trong, chúng dựa vào hệ thống công sự xi măng cốt thép, dựa vào cấu trúc vững chắc của thị trấn, thị xã và địa hình phức tạp của đồi trống, làng xóm để tạo cho các tuyến phòng ngự có một chiều sâu nhất định. Ở Đông Hà, Ái Tử, chiều sâu đó khoảng bốn đến năm ki-lô-mét. Ngoài ra, chúng còn dựa vào hỏa lực không quân chiến lược, chiến thuật, hệ thống pháo hạm từ ngoài khơi và một mạng lưới pháo binh mặt đất vừa ngăn chặn từ xa, vừa yểm hộ trực tiếp cho các trận đánh. Nhiều nguồn tin còn cho biết: đây là "chiến thuật trâu rừng” do tướng A-bram khởi xướng, đã được lính Mỹ áp dụng ở Mặt trận Đường 9 -Bắc Quảng Trị trong những năm 1969 - 1970.
Sau khi chỉ đạo cho các đơn vị tổ chức rút kinh nghiệm đợt chiến đấu không thành công ấy, Bộ tư lệnh chiến dịch đã kịp thời phát hiện thiếu sót của tư tưởng chủ quan, nóng vội, chưa nắm chắc địch. Nhưng một câu hỏi rất cấp thiết buộc những người lãnh đạo chỉ huy chiến dịch và sư đoàn cần nghiên cứu và trả lời nhanh chóng, đó là làm thế nào để tiêu diệt lực lượng quân địch lớn đang tập trung cố thủ với chiến thuật "phòng ngự cứng” có xe tăng, thiết giáp yểm trợ này. Chưa tìm được câu trả lời đó, chưa thể nói tới giành thắng lợi ở Đông Hà - Ái Tử - Quảng Trị - La Vang. Bằng trí tuệ tập thể và kinh nghiệm chỉ huy tác chiến dày dạn, Đảng ủy và Bộ tư lệnh chiến dịch đã tìm được giải pháp để chỉ đạo các đơn vị tác chiến.
Đối với các cụm phòng ngự Đông Hà - Ái Tử - La Vang (đặc biệt là Đông Hà - Ái Tử) rõ ràng không thể dùng lối đánh "ồ ạt”, "chớp nhoáng” để đập tan các cụm phòng ngự ấy bằng một đòn, mà ta phải đập tan nó bằng nhiều đòn liên tục nhằm làm rạn vỡ từng đoạt tiến tới đập tan nó bằng một đòn quyết định.
Để trả lời cho chủ trương đúng đắn đó, từ ngày 10 đến 25 tháng 4, trên các hướng quân ta vừa chuẩn bị cơ sở vật chất cho đợt chiến đấu lớn, vừa tổ chức đánh những trận nhỏ nhằm tiêu hao sinh lực địch, giữ vững vị trí đứng chân.
Trên cụm tác chiến Đông Hà, Sư đoàn 308 chỉ thị cho Trung đoàn 36 đang giữ bàn đạp làng Tây Trì (bắc Đông Hà) tổ chức các trận đánh phục kích tiêu hao lực lượng bộ binh và xe tăng địch, sau đó tiến công tiêu diệt tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn 57 ngụy ở các điểm cao 30 và 28... Trung đoàn 102 khẩn trương chấn chỉnh duy trì lực lượng mạnh để cơ động đánh liên tục, đồng thời tổ chức đánh nhỏ lẻ ở các điểm cao 25, 32, 30 vừa tiêu diệt địch vừa tạo bàn đạp ở tây nam Đông Hà và cầu Lai Phước. Trung đoàn 48 (đơn vị tăng cường) thanh chóng củng cố đội hình, tích cực hoạt động ở tây và nam Tân Vĩnh. Trung đoàn pháo binh 58 đưa tiểu đoàn 10 lựu pháo 122 vào chân động Quai Vạc để vươn tầm bắn hiệu quả tới Trung Chỉ, Đại Áng.
Trên cụm tác chiến Ái Tử, Sư đoàn 304 tổ chức cho Trung đoàn 9 đánh một số trận vào An Đôn, Nham Biều, áp sát cầu Quảng Trị vừa co cụm kéo địch ra ngoài để tiêu diệt, vừa thực hiện ý đồ chia cắt chiến dịch. 2 giờ 30 phút ngày 10 tháng 4 năm 1972, tại đây đã diễn ra trận chiến đấu vô cùng dũng cảm của trung đội Mai Quốc Ca - một tập thể anh hùng làm cho quân thù khiếp sợ, nhân dân hết lòng mến phục. Tập thể đó, sau khi cùng các trung đội trong đại đội đánh sập cầu Quảng Trị đã bám chắc địa bàn thực hiện "một tấc không đi, một ly không rời” với tinh thần 1 thắng 100, đánh bại 3 lần tiến công của 3 tiểu đoàn địch. Hai mươi dũng sĩ ấy đã bám trụ kiên cường trước bom đạn địch, chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và anh dũng hy sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chia cắt chiến dịch.
Đặc biệt trong đợt hoạt động tạo thế này, lần đầu tiên quân ta đã sử dụng vũ khí chống tăng B72. Trong trận đánh ngày 23 tháng 4, các khẩu đội B72 Lục Vĩnh Tưởng, Lê Văn Trung được sự hỗ trợ đắc lực của các phân đội bộ binh đã tiêu diệt 14 xe tăng thiết giáp, gây cho địch nỗi kinh hoàng về huyền thoại "đạn có mắt”, "bắn đâu trúng đấy” của quân ta. Tóm lại, trong đợt hoạt động tạo thế 15 ngày này, ta diệt hơn 2.000 tên địch, bắt sống gần 40 tên, làm hạn chế bước triển khai phòng thủ địch. Nhưng điều chủ yếu và trước hết là quân ta đã tìm ra "bí quyết” của chiến thuật co cụm cứng bằng xe tăng thiết giáp địch. Đánh bại "Chiến thuật trâu rừng”, tất yếu ta sẽ đánh bại hoàn toàn cụm phòng thủ của địch ở Đông Hà - Ái Tử - La Vang.
Trong lúc Bộ tư lệnh Mặt trận và các cánh quân của ta ở Quảng Trị đang dốc sức hoàn thiện lần cuối phương án tác chiến tiến công tiêu diệt tập đoàn phòng ngự địch ở Đông Hà - Ái Tử - La Vang giải phóng tỉnh Quảng Trị, thì trên các chiến trường ở miền Nam quân dân ta đang thu nhiều thắng lợi lớn.
Ngày 7 tháng 4, quân dân miền Đông Nam Bộ tiến công giải phóng quận lỵ Lộc Ninh; ngày 14 tháng 4, quân dân Tây Nguyên đập tan tuyến phòng thủ tây sông Pô Cô do 2 lữ đoàn dù địch chốt giữ; tiếp đó (ngày 20 tháng 4) đánh chiếm quận lỵ Đắc Đô - Tân Cảnh; ngày 1 tháng 5, giải phóng Võ Định, bao vây thị xã Kon Tum. Ở đồng bằng Trung Bộ, ta đánh chiếm Bồng Sơn, Tam Quan... toàn Miền hình thành sự phối hợp tác chiến rất chặt chẽ.
Thắng lợi dồn dập của quân dân Tây Nguyên, Nam Bộ, Trung Trung Bộ càng thúc giục quân dân Quảng Trị khẩn trương hoàn thành mọi công tác chuẩn bị để bước vào đợt tác chiến mới.
Đến ngày 26 tháng 4, lực lượng địch bố trí trên chiến trường Quảng Trị so với thời kỳ đầu có biến động không đáng kể:
- Cánh chủ yếu Đông Hà - Lai Phước, địch vẫn giữ nguyên trung đoàn 57 (sư đoàn 3) mới chạy từ Cồn Tiên, Miếu Bái Sơn về "giữ vai trò trọng yếu” trong phòng ngự thị trấn Đông Hà; sẽ cùng với 2 liên đoàn biệt động quân (4, 5) và 2 thiết đoàn (17, 20) có nhiệm vụ ngăn chặn tiến tới đẩy lùi "quân địch" khỏi Đông Hà, Sông Hiếu... thu hồi những phần đất đã mất.
- Khu sân bay, kho tàng, hậu cứ Ái Tử do trung đoàn 2 (sư đoàn 3), lữ đoàn lính thủy đánh bộ 147 và thiết đoàn 11 đảm nhiệm, phối hợp chặt chẽ với hướng chủ yếu Đông Hà bảo vệ bằng được các tiền đồn ở đông căn cứ Phượng Hoàng, nam Tân Vĩnh, kiên quyết không cho "địch” phát triển từ hướng tây xuống và từ hướng sông Thạch Hãn lên.
Cả khu vực Đông Hà - Lai Phước - Ái Tử được trung tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh quân khu 1 giao cho đại tá Nguyễn Trọng Luật người đã từng "nướng” gần hết thiết đoàn 17 ở Bản Đông trong chiến dịch "Lam Sơn - 719" ở Đường 9 - Nam Lào tháng 3 năm 1971, làm chỉ huy trưởng.
- Cụm La Vang - Long Hưng, địch bố trí liên đoàn biệt động quân 1, lữ đoàn lính thủy đánh bộ 369 và 2 chi đoàn thiết giáp, 2 trận địa pháo hỗn hợp đảm trách ngăn chặn các đợt tiến công "tạt sườn" của bộ đội ta vào các điểm cao phía tây thị xã Quảng Trị, bảo vệ bằng được trục đường 1.
Tất cả các lực lượng ở "Mặt trận Quảng Trị’ được Nguyễn Văn Thiệu và Hoàng Xuân Lãm một lần nữa giao cho chuẩn tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh sư đoàn bộ binh 3 chỉ huy.
Thông qua việc bài binh bố trận, ta thấy chỗ mạnh của địch là đã tổ chức được các cụm phòng ngự lớn, liên hoàn, có chiều sâu, chiều rộng thích hợp, khi xảy ra tác chiến chiến thuật, chiến dịch có thể hỗ trợ cho nhau bảo vệ khu vực phòng thủ; việc vận chuyển đường bộ, đường không, đường biển đang được duy trì và chiếm ưu thế về phương tiện hiện đại; cường độ và số lượng hoạt động của không quân và pháo hạm của địch gia tăng đáp ứng yêu cầu tối đa của các đơn vị tham chiến ở phía trước. Chỗ yếu của địch là tác chiến cải thiện thế phòng thủ không đạt yêu cầu; lực lượng được tăng cường lớn nhưng tư tưởng hoang mang; đội hình phòng thủ bị co hẹp trên một khu vực dài dọc đường 1 có nhiều sông núi ngăn cách, khi tác chiến dễ bị chia cắt, tiêu diệt.
Về phía ta, sau đợt hoạt động tạo thế, quân ta đã tìm ra "bí quyết” của chiến thuật "phòng thủ cứng” của địch, khí thế các đơn vị đang lên, lực lượng ta vẫn sung sức chiếm ưu thế hơn hẳn về xung lực, hỏa lực (trừ máy bay, pháo hạm), những bàn đạp quan trọng ta vẫn giữ vững. Căn cứ tình hình đó, Bộ tư lệnh chiến dịch chủ trương tác chiến và sử dụng lực lượng như sau:
Tập trung lực lượng tấn công tiêu diệt các cụm dịch ở Đông Hà, Ái Tử, La Vang hỗ trợ cho quần chúng hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng nổi dậy diệt ác phá kìm, giành quyền làm chủ, giải phóng hoàn toàn thị xã Quảng Trị, nắm thời cơ phát triển giải phóng Thừa Thiên.
Hướng tiến công chủ yếu Đông Hà - Lai Phước, hướng phối hợp quan trọng Ái Tử. Đoạn Cầu Nhùng đi Mỹ Chánh là hướng chia cắt chiến dịch; đồng bằng Triệu Phong, Hải Lăng là hướng thọc sâu vu hồi.
Sư đoàn bộ binh 308 cùng các lực lượng tăng cường tiến công Đông Hà - Lai Phước. Sư đoàn bộ binh 304 tiến công cụm cứ điểm Ái Tử, chia cắt địch ở cầu Quảng Trị, đập tan các đợt phản kích, ứng cứu của địch ở Quảng Trị, La Vang. Sư đoàn bộ binh 324 chia cắt địch ở đường số 1 (đoạn Quảng Trị - Mỹ Chánh), kiên quyết đánh bại các đợt giải tỏa ứng cứu của địch ở Huế ra, Quảng Trị vào. Trung đoàn 27 cùng với các tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh được tăng cường 1 tiểu đoàn thiết giáp, 1 tiểu đoàn đặc công thọc sâu vào đồng bằng ven biển Triệu Phong - Hải Lăng với hai nhiệm vụ: bao vây vu hồi chia cắt chiến dịch và hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy giải phóng quê hương.
Phương thức tác chiến chiến dịch là hiệp đồng binh chủng chặt chẽ, phát huy cao độ sức mạnh của binh khí kỹ thuật, vừa bắn phá trên toàn tuyến, vừa tập trung diệt từng điểm, từng cụm, quyết bao vây chia cắt chiến dịch; kết hợp đánh vỡ từng mảng tiến tới tiêu diệt hoàn toàn 25 tiểu đoàn bộ binh, 3 trung đoàn thiết giáp cùng toàn bộ lực lượng bảo an và phòng vệ dân sự.
Chiều ngày 26 tháng 4 năm 1972, sau khi kiểm tra lần cuối công tác chuẩn bị, Bộ tư lệnh chiến dịch hạ lệnh cho các cánh quân vào tuyến xuất phát tiến công. Trên suốt dọc chiến tuyến từ tây bắc Đông Hà- Lai Phước đến những dải đồi trùng điệp ở phía tây Ái Tử, La Vang, bộ binh, xe tăng và pháo binh ta nối nhau vào vị trí quy định
Ở hướng Đông Hà - Lai Phước do Sư đoàn 308 đảm nhiệm, Trung đoàn 102 lặng lẽ tiến dọc theo sông Vĩnh Phước, hình thành thế bao vây điểm cao 26, điểm cao 23, dự kiến tiếp phương án phát triển đánh chiếm Đồi Vuông, điểm cao 20.
Trung đoàn 88 chia thành hai mũi bí mật luồn sâu vào bên trong bao vây điểm cao 24. Trung đoàn 36 từ hướng Tây Trì tiếp cận các điểm cao 19 và 28. Trung đoàn 48 tiến vào Tân Vĩnh, xe tăng, thiết giáp phối thuộc các trung đoàn, được lệnh dừng lại cách đội hình bộ binh từ 1 đến 2 km. Đến 4 giờ 35 phút, trên trận tuyến đông Hà, Sư đoàn 308 đã ở tư thế sẵn sàng tiến công.
Hướng Ái Tử, Sư đoàn 304 cho Trung đoàn 9, Trung đoàn 24 áp sát các điểm cao 22, 23, 42. Hướng Đông, Trung đoàn 27, tiểu đoàn 47 và các đơn vị phối thuộc được nhân dân Triệu Phong giúp đỡ vượt sông Cửa Việt tiến sâu vào đồng bằng ven biển.
Sư đoàn 324 ở hướng nam tiến ra đường 1 thực hiện chia cắt chiến dịch. Hai trận đánh nhỏ giữa Trung đoàn 1 với lữ đoàn 369 lính thủy đánh bộ đã diễn ra . .
5 giờ 30 phút ngày 27 tháng 4, sau khi cùng Bộ Tham mưu chiến dịch kiểm tra toàn bộ công tác chuẩn bị chiến đấu của các cánh quân, Tư lệnh Lê Trọng Tấn ra lệnh tấn công.
Bắn mở màn cổ trận quyết chiến chiến dịch vẫn là pháo hạng nặng 130, Đ74, lựu pháo 122, l05, 100, súng cối 160 ly, 120 ly. Đạn hỏa tiễn A12, H12, ĐKB... dội bão lửa lên tất cả các vị trí địch.
5 giờ 30 phút, các sư đoàn bộ binh trên khắp các chiến tuyến được lệnh xung phong.
Hướng Sư đoàn 308, Trung đoàn 88 sau khi cùng xe tăng, thiết giáp vượt qua điểm cao 37 đã chia làm hai mũi đánh vào quân địch chốt giữ vòng ngoài thị trấn Đông Hà. Mũi một tiến xuống đồi Mâm Xôi tiếp giáp với các điểm cao 24. 28. Tại đây một trận ác chiến đã xảy ra. Trước sức tiến công mãnh liệt của ta, bộ binh và thiết giáp địch vừa chống cự và lùi dần về điểm cao 24 nằm cạnh sân bay Đông Hà. Mũi hai luồn sâu chiếm bàn đạp Làng Mới, công kích tiểu đoàn biệt động quân 30, đẩy chúng vào tình thế bị uy hiếp từ nhiều phía. Thấy tình thế bị nguy ngập, bộ chỉ huy địch ở Đông Hà liền cho một chi đoàn thiết giáp lên tăng cường và cho không quân, pháo binh đánh phá tối đa, quyết đánh bật Trung đoàn 88 ra khỏi vị trí vừa chiếm được.
Được tăng viện, tiểu đoàn biệt động quân cùng 12 xe tăng và xe M113 dàn hàng ngang hò hét xông lên tưởng chừng nuốt chửng quân ta. Các chiến sĩ Trung đoàn 88 chờ cho bộ binh, xe tăng địch đến thật gần mới nổ súng. Sau một loạt đạn tên lửa chống tăng B72, B40, B41, 10 xe tăng địch đã bị trúng đạn. Lính biệt động hết chỗ dựa, bất chấp lệnh chỉ huy, bỏ trận địa tháo chạy. Đến 9 giờ, Trung đoàn 88 đã làm chủ các điểm cao 35. 24, 37, đưa lực lượng bộ binh cơ giới thọc sâu bao vây sở chỉ huy trung đoàn 57 ở Đại Áng, Trung Chỉ.
Trên hướng tiến công chủ yếu của Sư đoàn 308 do trung đoàn 102 đảm nhiệm, cuộc chiến đấu diễn ra hết sức ác liệt. Sau đợt pháo bắn yểm trợ, trung đoàn cho một lực lượng áp sát tiêu diệt Đồi Vuông, rồi nhanh chóng chuyển sang bao vây quân địch ở điểm cao 26 và điểm cao 23. Địch dựa vào thế cao, hào sâu có xe tăng yểm trợ chống trả quyết liệt. Trung đoàn đã ba lần tổ chức cho bộ đội xung phong chiếm các điểm cao nhưng đều bị địch đẩy lùi và bị thiệt hại. Trong tình thế cấp thiết đó, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 102 một mặt kiên quyết bám trụ giữ vững trận địa, mặt khác quan sát xem xét sự chống trả của địch. Sau chốc lát quan sát, cán bộ chiến sĩ ta phát hiện ra hai hỏa điểm xe tăng địch chôn ngầm rất lợi hại có thể khống chế sự phát triển của ta. Yêu cầu khẩn thiết tiêu diệt hai hỏa điểm lợi hại đã được một trung đội bộ binh thực hiện. Hai hỏa điểm xung yếu của địch bị diệt, bộ đối ta ào ạt đánh lên, lính ngụy vỡ tổ phá chạy. Trung đoàn 102 lần lượt làm chủ các mục tiêu thuộc các điểm cao 26, 23, 32, áp sát bao vây điểm cao 28. Trận đánh kéo dài hết buổi chiều, nhưng Trung đoàn 102 vẫn chưa diệt được điểm cao 28 để thực hiện chốt chặn tại cầu Lai Phước.
Hai giờ sáng ngày 28 tháng 4, sau khi xem xét lại toàn bộ diễn trình tác chiến ngày 27, Bộ tư lệnh chiến dịch hài lòng nhận thấy bộ đội ta trên các hướng chiến dịch phát triển nhịp nhàng, ăn ý, hoàn thành được các mục tiêu đã giao; tư tưởng tiến công liên tục không cho địch có thời gian hồi sức là rất đúng với sự chỉ đạo của chiến dịch... Nhưng muốn đảm bảo đánh chắc thắng, thắng nhanh, thắng giòn giã, ngay lúc này phải chỉ đạo cho các hướng (đặc biệt là hướng Sư đoàn 308) phải trinh sát thật kỹ, luôn bám sát địch, không để hoạt động nào của chúng thoát khỏi mắt ta. Đồng thời chỉ đạo Sư đoàn 308 tổ chức lại các mũi bộ binh có thiết giáp yểm trợ đột phá ra đường 1 chốt giữ và phá sập cầu Lai Phước. Sư đoàn 304 khẩn trương đánh Ái Tử, Quảng Trị. Sư đoàn 324 phải đánh phản kích thật tốt ở Cầu Nhùng, cầu Bến Đá, chốt giữ chặt đường số 1, kiên quyết thực hiện tốt nhiệm vụ chia cắt chiến dịch.
5 giờ 30 phút ngày 28 tháng 4 năm 1972, cuộc tiến công quy mô toàn diện của quân dân Quảng Trị vào sào huyệt địch bắt đầu. Mở màn đợt 2 chiến dịch, pháo binh của ta ầm ầm nã đạn. Bốn cụm mục tiêu Đông Hà - Ái Tử - La Vang, thị xã Quảng Trị chìm ngập trong biển lửa 6 giờ, các sư đoàn bộ binh, các trung đoàn độc lập, có xe tăng, thiết giáp yểm trợ đồng loạt mở cuộc tiến công.
Ở hướng Sư đoàn 304, tiếng súng bộ binh nổ ra sớm hơn ít phút. Năm giờ, khi Trung đoàn 24 đang triển khai đội hình phát triển vào Ái Tử thì một cụm địch hỗn hợp (cả bộ binh và xe tăng) chốt ở vòng ngoài phát hiện được ta đã sổ súng. Tình huống đó không làm cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 24 lúng túng. Như phương án đã vạch sẵn, trung đoàn cho một phân đội dựa theo bình độ khuất vòng trái, nổ súng thu hút địch. Quân địch bị đánh, bất ngờ bộc lộ lực lượng tổ chức phản công lại ta. Thế là "tổ con chuồn chuồn" đã bị lộ. Mười hai xe tăng địch và nhiều bộ binh bám theo dàn hàng ngang hùng hổ xông thẳng vào đội hình tiến công của ta. Đúng như kế hoạch hiệp đồng, 2 tiểu đội tên lửa chống tăng B72 được lệnh phát hỏa. Sáu chiếc xe tăng M48 kềnh càng kiêu ngạo của địch lập tức bị bốc cháy. Những chiếc còn lại khiếp sợ "đạn có mắt” vội vàng quay đầu tháo chạy. Bộ binh và xe tăng ta xung phong truy diệt toàn bộ xe tăng và bộ binh lữ đoàn 258 bám theo. Cùng lúc, Trung đoàn 48, sau khi tiêu diệt căn cứ Tân Vĩnh (ngày 27 tháng 4) đã nhanh chóng xốc lại đội hình phối hợp cùng Sư đoàn 304 tiến công vào Ái Tử. Trung đoàn chia làm hai mũi, một mũi phát triển xuống nam Tân Vĩnh hỗ trợ lực lượng vũ trang địa phương diệt ác, phá kìm giải phóng hai xã Triệu Giang,Triệu Ái (Triệu Phong), một mũi tiến xuống nam cầu Lai Phước đè bẹp các ổ kháng cự trên đường rồi thọc thẳng ra sân bay.
12 giờ trưa, hai trung đoàn 24 và 48 được sự yểm trợ đắc lực của xe tăng, thiết giáp mở nhiều cuộc tiến công vào quân địch cố thủ ở sân bay Ái Tử. Địch chống trả điên cuồng, quyết sống chết với ta. Nhiều trận đánh đẫm máu để giành giật từng đoạn hào, từng lô cốt đã diễn ra. Đến 17 giờ 30 phút ta mới chiếm được hơn nửa sân bay. Nhưng quân số hao hụt, đạn dược cạn dần, quân ta phải tạm dừng củng cố, bổ sung rồi mới đánh tiếp.
Ở mũi thọc sâu của Trung đoàn 66 tình hình diễn ra còn phức tạp hơn nhiều. Sau một đêm hành quân vượt qua 23 km mệt mỏi căng thẳng, trung đoàn đã đến nam cầu Quảng Trị triển khai trận địa thực hiện chốt chặn đường 1. Nhưng quân địch ở đây phòng bị rất chặt chẽ. Ngay từ phút đầu quân ta đặt chân đến, chúng đã phát hiện ra và gọi phi pháo đánh chặn rồi phản kích mạnh mẽ quyết đánh bật trung đoàn ra khỏi khu vực Cầu. Tình huống ngày càng phức tạp. Trung đoàn phó Đinh Xuân Nguyên và Chính ủy Nguyễn Van Tời vừa chỉ huy đơn vị lợi dụng địa hình địa vật tổ chức bám trụ phản kích địch, vừa gọi pháo binh chiến dịch bắn mạnh vào hai khu vực đầu cầu phía bắc và phía nam yểm trợ cho quân ta xoay chuyển tình thế phát triển tiến công. Đến 8 giờ sáng, Trung đoàn phó Nguyên tập trung bộ đội đột phá quân địch chốt giữ ga Quảng Trị. Bị đánh bất ngờ, địch núng thế, chống cự yếu ớt rồi lùi ra đường 1. Tận dụng thời cơ thuận lợi, mũi đột phá phía bắc ào lên đánh địch chốt giữ đầu cầu. 12 giờ trưa, Trung đoàn 66 cơ bản làm chủ mục tiêu phía nam cầu và lập tức chuyển sang đánh địch giải tỏa đường 1. Việc đưa Trung đoàn 66 vượt sông Thạch Hãn đánh chiếm phía tây thị xã Quảng Trị không chỉ tạo thế chốt chặn chiến dịch đường rút chạy của địch từ Đông Hà - Ái Tử mà còn trực tiếp uy hiếp sở chỉ huy sư đoàn 3 và cố vấn Mỹ ở thị xã Quảng Trị.
Trên hướng chú yếu chiến dịch do Sư đoàn 308 đảm nhiệm, 5 giờ 30 phút ngày 28 tháng 4, pháo chiến dịch mới chuyển làn, cả sư đoàn bộ binh và thiết giáp phối thuộc đã đồng loạt tiến công. Trung đoàn 102 ở hướng nam, chia làm hai mũi đánh thẳng ra đường 1 , đánh chiếm cầu Lai Phước chia cắt đội hình địch. Địch dùng xe tăng, thiết giáp phản kích quyết liệt giữ cầu. Tiểu đoàn 7 và tiểu đoàn 9 tập trung súng chống tăng các loại bắn phá diệt 3 xe tăng, 2 ổ đại liên. Phần lớn xe tăng, thiết giáp địch lợi dụng độ cao của đường sắt làm vật che khuất nhô tháp pháo khống chế xe tăng, bộ binh ta. Trung đoàn 102 buộc phải dừng lại điều chỉnh đội hình tác chiến, nên tốc độ phát triển rất chậm.
Hướng Trung đoàn 88, được sự chi viện đắc lực của xe tăng, quân ta tổ chức thành nhiều mũi xung phong đánh chiếm Trung Chỉ, địch không chống cự nổi tháo chạy về Đại Áng. Trong khi đó, Trung đoàn 36 ở hướng bắc thọc thẳng theo đường 1 tràn vào các đường phố Đông Hà. Địch chống cự yếu ớt rồi tháo chạy thục mạng.
8 giờ 30 phút, thông qua sự phát triển chung của chiến dịch, đặc biệt là của Sư đoàn 308, Bộ tư lệnh chiến dịch nhận định: Quân địch ở Quảng Trị thất bại đã rõ ràng, vấn đề chỉ còn là thời gian. Nhưng để tiêu diệt gọn, bắt tù binh, thu vũ khí, các cánh quân cần bảo vệ vững chắc mục tiêu đã giành được, đánh phản kích tốt, kiên quyết không cho địch ứng cứu lẫn nhau. Sư đoàn 308 phải nhanh chóng cắt đứt cầu Lai Phước. Các hướng cần chú ý sự đột biến tan vỡ của địch.
10 giờ, pháo binh chiến dịch và pháo binh Sư đoàn 308 bắn phá mãnh liệt khu vực cầu Lai Phước. Pháo vừa dứt, bộ binh và cơ giới của Trung đoàn 102 bất chấp sự chống cự của đích, ồ ạt phát triển qua đường sắt chiếm ven sông, khống chế hai đầu cầu, bắn cháy một lúc 3 xe tăng địch. Thấy nguy cơ mất cầu Lai Phước - một cây cầu sinh tử đối với địch ở Đông Hà, bọn bảo vệ cầu dồn sức phản kích quyết liệt khống chế mọi hành động của bộ đội. "Phải tiêu diệt ngay chiếc xe tăng địch cách cầu ba mét", trung đội trưởng Dũng thét lớn. Chiến sĩ Bùi Minh Quyết bật dậy xông thẳng vào gần chiếc xe tăng siết cò súng. Chiếc xe tăng trúng đạn bốc cháy, nhưng sau đó Quyết trúng đạn hy sinh cách xe có hơn mười mét.
Dựa thời cơ thuận lợi, công binh vượt lên đặt khối thuốc nổ vào giữa cây cầu. Chỉ trong chốc lát, 120 kg thuốc nổ đã liên kết xong. Hoàng Xuân Lạng điểm hoả. Nhưng khối bộc phá không nổ do nụ xoè bị gãy núm, dây chuyền lửa bị ẩm mất tác dụng gây nổ. Lạng lại lao lên mặt cầu cặp trái lựu đạn vào khối thuốc nổ, giật nụ xòe rồi quay về đầu cầu. Một tiếng nổ long trời chuyển đất phá tung một lỗ thủng lớn đường kính tới 4mn. phá hủy cầu Lai Phước.
Cầu Lai Phước bị cắt đứt như một tiếng chuông báo hiệu giờ cáo chung của căn cứ Đông Hà, đồng thời như một tiếng sét rung chuyển làm bủn rủn quân ngụy khi chúng nhận được tin này. Sư đoàn 308 phấn chấn hẳn lên, lao vào trận đột phá cuối cùng.
Trung đoàn 36 ở phía bắc cưỡi xe tăng theo đường 1 hò reo tràn xuống phía nam. Trung đoàn 102 ở phía nam đánh ngược trở lại. Trung đoàn 88 ở phía tây ép xuống. Toàn bộ quân địch ở Đông Hà hoang mang cực độ bỏ xe cộ khí giới chạy thoát thân. Chúng xông vào các xóm làng ven đường, ven sông tranh cướp quần áo, lột xác làm dân sự. Chúng lao bừa ra sông Thạch Hãn tranh cướp thuyền ghe để vượt sông chạy vào thị xã Quảng Trị. Trên trời máy bay Mỹ quần đảo gầm thét chứng kiến cảnh thê lương của đội quân tay sai. Dưới đất quân ta cưỡi chiến xa xông tới gọi hàng, bắt giữ hàng trăm tên. Hàng trăm tên khác liều mạng vượt sông, thuyền đắm, ghe tan bỏ mạng giữa sông đục ngầu, sùi bọt.
Đến 15 giờ 30 phút ngày 28 tháng 4, toàn bộ Đông Hà - Lai Phước được giải phóng. Chiến thắng Đông Hà - Lai Phước làm nức lòng đồng bào, chiến sĩ Mặt trận Trị - Thiên.
Chiến thắng Đông Hà - Lại Phước càng thôi thúc cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 304 khẩn trương chuẩn bị lao vào trận đánh ở cụm cứ điểm Ái Tử.
Sáng ngày 30 tháng 4, sau đợt pháo bắn phá hỏa điểm địch, hai trung đoàn 24 và 48 được xe tăng thiết giáp yểm trợ đánh tràn qua sân bay, xông thẳng vào căn cứ Ái Tử chiếm kho xăng và sở chỉ huy sư đoàn 3. Địch ở đây không còn hồn vía nào nghĩ đến chuyện chống đỡ, phá chạy về bến phà Tả Kiên tranh nhau bè chuối vượt sông về thị xã Quảng Trị. Đến 14 giờ ngày 30 tháng 4, ta làm chủ căn cứ Ái Tử.
Trong lúc các sư đoàn 308, 304 và nhiều trung đoàn chủ lực Mặt trận tiến công giải phóng Đông Hà - Ái Tử thì ở hướng đông Trung đoàn 27, tiểu đoàn 47, tiểu đoàn 3 (lữ đoàn 202), tiểu đoàn pháo binh 75 và hàng trăm cán bộ quân dân chính địa phương cũng lao vào trận đánh. Ngày 28 tháng 4, được bà con cô bác huyện Do Linh và một số xã phía bắc huyện Triệu Phong dùng thuyền đưa sang sông, cán bộ chiến sĩ các đơn vị nhanh chóng đánh chiếm Long Quang, Thanh Hội, Vĩnh Hồ. . .
Thừa thắng, quân ta phát triển đánh chiếm các mục tiêu nằm rải rác dọc đồng bằng ven biển hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng. Quân ta đi đến đâu cũng được nhân dân phấn khởi chào đón và phối hợp đấu tranh chính trị, binh vận tới đó. Khi được tin Đông Hà - Ái Tử được giải phóng, Trung đoàn 27 và các lực lượng vũ trang địa phương náo nức chuẩn bị tiến công hệ thống đồn bốt kìm kẹp hơn 10.000 dân ở khu Gia Đẳng. Hàng nghìn bà con cô bác các xã lân cận đốt đuốc, gõ mõ, đánh trống reo hò ủng hộ. Khí thế đấu tranh trào dâng như nước vỡ bờ. Chiều ngày 28 tháng 4 khu tập trung Gia Đẳng được giải phóng thì ngày 29 tháng 4, chi khu quân sự Triệu Phong đầu hàng. Ngày 30 tháng 4, địch ở Linh Chiều, Phương Lang bỏ chạy. Sáng ngày 2 tháng 5 ta diệt nốt chi khu quân sự Hải Lăng.
Đông Hà, Ái Tử, Hải Lăng bị mất, đường số 1 bị cắt đứt nhiều đoạn từ Cầu Nhùng đi Mỹ Chánh. Thấy không còn khả năng chống cự, chỉ huy địch ở Quảng Trị quyết định "rút lui có kế hoạch". Nắm được ý đồ của địch. Bộ tư lệnh Mặt trận đôn đốc Sư đoàn 324 khẩn trương xốc lại đội hình chia cắt chiến dịch, kiên quyết không cho địch bảo toàn lực lượng khi rút chạy.
5 giờ 30 phút ngày 29 tháng 4, Trung đoàn 1 sử dụng tiểu đoàn 3 tiến công đại đội biệt động quân chấn giữ Cầu Nhùng, diệt 25 tên, phá hủy cầu. 10 giờ địch cho 2 đại đội bảo an từ Thượng Xá phản kích chiếm lại Cầu Nhùng. Một lần nữa, tiểu đoàn 3 lại đánh thiệt hại nặng 2 đại đội, buộc chúng quay về vị trí cũ. Để nối thông con đường sinh tử, 13 giờ chiều cùng ngày, địch cho 1 tiểu đoàn biệt động quân có 8 xe tăng, thiết giáp yểm trợ từ Long Hưng vào "chiếm bằng được Cầu Nhùng”. Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 1 vượt qua ác liệt của bom đạn bám trụ kiên cường đánh bại đợt phản kích của địch, thiêu cháy 6 xe tăng và xe bọc thép M113.
Ngày 30 tháng 4, Trung đoàn 2 cho 2 tiểu đoàn 5 và 6 tiến công tiểu đoàn 8 lữ đoàn lính thủy đánh bộ 369 ngụy ở khu vực Tân Điền, mở cửa cho tiểu đoàn 4 đánh địch ở cầu Bến Đá . . .
Ngày 1 tháng 5, thấy Đông Hà, Ái Tử thất thủ, địch ở thị xã Quảng Trị hoang mang cực độ, bắt đầu "rút chạy có kế hoạch". Đó là một ngày cả Sư đoàn 324 chiến đấu dữ dội, ác liệt nhất và gây cho địch nỗi kinh hoàng nhất. Suốt cả ngày địch mở hàng chục đợt tiến công để khai thông đường. Nhưng địch đi đến đâu cũng bị đánh, chạy ngả nào cũng bị chặn. Cả đoạn đường gần 30 km từ thị xã Quảng Trị đến Mỹ Chánh trở thành đoạn đường máu, trở thành "Đại lộ kinh hoàng” đối với quân ngụy.
Đến ngày 2 tháng 5 năm 1972, tỉnh Quảng Trị hoàn toàn được giải phóng.
Như vậy sau hơn một tháng (30-3 đến 3-5-1972) quân và dân Quảng Trị vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, ác liệt, hy sinh, đánh hàng trăm trận lớn nhỏ, diệt và làm bị thương 14.350 tên địch, bắt 3.160 tên; thu, phá hủy 1.870 xe quân sự (có gần 600 xe tăng, thiết giáp) 419 khẩu pháo; bắn rơi, phá hủy 340 máy bay và rất nhiều quân trang quân dụng các loại.
Cùng với chiến thắng ở Tây Nguyên, miền Trung và Đông Nam Bộ, thắng lợi to lớn trên mặt trận Quảng Trị là đòn giáng mạnh vào Mỹ - ngụy, là thắng lợi của ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc của quân và dân cả nước nói chung, của quân và dân Quảng Trị nói riêng. Lần đầu tiên trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại, quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị, phá tan tuyến phòng thủ kiên cố nhất ở miền Nam Việt Nam. Thắng lợi đó chẳng những thể hiện sức mạnh tiềm tàng của cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện, của nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà còn đánh dấu bước trưởng thành mới của ba thứ quân trong tác chiến hiệp đồng binh chủng nhằm đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ.

II. Chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng Quảng Trị.
Sau hơn một tháng tiến công trên toàn miền Nam, quân dân ta đã tiêu diệt hàng vạn tên địch, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị, phần lớn tỉnh Kon Tum, vùng phía bắc tỉnh Bình Định và các địa bàn xung yếu thuộc các tỉnh Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, mở ra những vùng hoạt động quan trọng ở đồng bằng Khu 5 và miền Tây Nam Bộ.
Cơ đồ "Việt Nam hóa chiến tranh" mà Mỹ dày công xây dựng trong hơn 3 năm bị sụp đổ từng mảng lớn. Tình hình nguy ngập đó khiến Ních-xơn phải "Mỹ hóa" trở lại cuộc chiến tranh, huy động với cường độ cao nhất từ trước tới nay không quân và hải quân Mỹ đánh phá trở lại miền Bắc và chi viện cho quân ngụy phản kích ở miền Nam. Dựa vào hỏa lực phi pháo mạnh, quân còn đông, trong tháng 5 và tháng 6 Mỹ - ngụy đã tập trung củng cố lực lượng và vạch kế hoạch phản công chiến lược trên toàn miền Nam, lấy Quảng Trị làm hướng phản công chính.
Ở vùng 1 chiến thuật và quân khu 1, sau khi đưa Ngô Quang Trưởng (nguyên tư lệnh quân khu 4 và quân đoàn 4) vào làm tư lệnh quân khu 1 và quân đoàn 1 thay Hoàng Xuân Lãm (bị cách chức), Mỹ - ngụy quyết định đưa lực lượng dự bị quân khu 1 và tổng dự bị chiến lược tổ chức tuyến phòng thủ mới ở nam sông Mỹ Chánh và tây đường 12. Âm mưu của chúng trước mắt nhằm ngăn chặn ta phát triển tiến công vào Huế, đồng thời tích cực chuẩn bị cho một cuộc phản công quy mô lớn nhàm chiếm lại tỉnh Quảng Trị.
Trong tháng 6 lực lượng địch ở Thừa Thiên từ 2 sư đoàn đã tăng lên tương đương 4 sư đoàn (thêm sư đoàn lính thủy đánh bộ và sư đoàn dù) gồm 13 trung đoàn với 44 tiểu đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo binh và 5 thiết đoàn xe tăng, thiết giáp. Địch bố trí lực lượng trên hai hướng:
- Hướng đường 1: Sử dụng toàn bộ sư đoàn dù, sư đoàn lính thủy đánh bộ, liên đoàn biệt động quân 1, trung đoàn bộ binh 51 cùng 1 bộ phận lớn pháo binh và xe tăng thiết giáp.
- Hướng đường 12: Sử dụng sư đoàn bộ binh 1 ngụy là chủ yếu.
Địch sử dụng thủ đoạn phòng ngự phân tán di động (kể cả xe tăng, pháo binh), tổ chức phản kích quy mô từ 1 đến 2 trung đoàn, tích cực lấn dũi ra các điểm cao xung quanh, tổ chức các cuộc hành quân quy mô vừa ra hậu phương ta vừa để thăm dò, phá chuẩn bị của ta vừa chuẩn bị hỏa lực cho các cuộc phản công quy mô lớn hơn. Địch đánh phá ác liệt hậu phương chiến dịch bằng không quân, pháo mặt đất, pháo hạm, chủ yếu tập trung vào các đường giao thông, trận địa pháo (riêng máy bay B52 tăng từ trung bình 11 lần chiếc ngày trong tháng 5 lên 51 lần chiếc ngày và cao nhất là l05 lần chiếc ngày trong tháng 6). Sự tham gia hỏa lực trực tiếp với mật độ cao chưa từng có của không quân và hải quân Mỹ là một yếu tố quan trọng làm thay đổi hoạt động tác chiến trên chiến trường không có lợi cho ta.
Về phía ta, sau khi giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị, khí thế bộ đội ta rất cao, có tiến bộ về tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, có kinh nghiệm đánh địch co cụm lớn ở địa hình trống trải. Để chuẩn bị cho cuộc tiến công mới (dự kiến từ ngày 20 đến 27 tháng 6), Bộ đã tăng thêm cho Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị Trung đoàn 18 (sư đoàn 325), Trung đoàn 64 (Sư đoàn 320B) và bổ sung quân số cho một số đơn vị. Nhưng do chiến đấu liên tục, bộ đội ta cũng đã mỏi mệt. Phần lớn các đơn vị quân số hao hụt chưa được bổ sung. Các binh chủng kỹ thuật xe, máy, đạn dược, khí tài dự trữ còn rất ít.
Tuy ta đã nỗ lực chuẩn bị nhưng đến trước ngày nổ súng tiến công đợt 3 hệ thống đường sá xuống phía nam còn phải vừa đánh địch vừa làm đường. Việc đảm bảo vượt sông gặp nhiều khó khăn nên việc vận chuyển gạo đạn lên phía trước không đáp ứng được nhu cầu, có đơn vị phải sử dụng một bộ phận chiến đấu sang làm nhiệm vụ tiếp tế, có đơn vị bộ đội bị đói do thiếu lương thực. Trong việc củng cố vùng mới giải phóng, ta mới lo được việc tổ chức chính quyền, đoàn thể, tạm thời ổn định sinh hoạt của nhân dân, còn kế hoạch chuẩn bị cụ thể về bố phòng chưa được tiến hành khẩn trương và đúng mức.
Tình hình địch đã thay đổi, chúng có ý đồ phản công lớn nhưng lúc này ta vẫn cho rằng khả năng phản công của địch chỉ có thể thực hiện được vào mùa mưa vì phải có thêm từ 1 đến 2 sư đoàn nữa. Trước mắt chúng chỉ có thể tổ chức một cuộc hành quân vừa ra Hải Lăng. Từ nhận định đó ta chủ trương mở một đợt tiến công mới nhằm hoàn thành toàn bộ nhiệm vụ đề ra để đưa cuộc tiến công chiến lược ở Trị - Thiên đến toàn thắng.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Bộ tư lệnh Mặt trận chủ trương: Trước mắt tiêu diệt tập đoàn chủ yếu của địch, phá vỡ thế phòng thủ của chúng, làm chủ đến giáp sông Hương, không cho địch co cụm ở tuyến sông Bồ, tạo thế có lợi nhất để phát triển tiến công. Sau đó tùy thuộc vào kết quả tác chiến và công tác chuẩn bị chiến trường của ta, sẽ quyết định kế hoạch hoạt động và phương hướng phát triển.
Mục tiêu cụ thể là:
- Tiêu diệt 3 đến 4 trung đoàn địch. Phá vỡ tuyến phòng thủ của địch từ Mỹ Chánh đến bắc sông Hương và từ Động Tranh đến tây sông Hương, bao vây Bình Điền, tranh thủ chiếm lĩnh những địa bàn có lợi, tạo điều kiện cho nhiệm vụ tiếp theo.
- Tiến công và nổi dậy giải phóng nông thôn, trước mắt là các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Điền, và Hương Trà.
- Củng cố và bảo vệ vùng giải phóng Quảng Trị, nhất là các khu vực trọng điểm.
Theo ý định đó, trong 48 ngày chuẩn bị từ ngày 3 tháng 5 đến 19 tháng 6, ta đã liên tục đánh nhỏ tạo thế tiêu diệt được một số sinh lực địch. Song ta cũng bị tiêu hao lực lượng. Do những khó khăn về vận chuyển, không quân địch tập trung đánh phá ác liệt, đợt tiến công thứ 3 của ta từ ngày 20 đến ngày 27 tháng 6 diễn ra không đồng loạt gặp nhiều khó khăn.
Ở hướng đường 1: Theo nhiệm vụ được giao các đơn vị đã tiến công địch trên một diện rộng từ Xuân Lộc, Đá Bạc, núi Cái Mương, núi Cây Lời, núi Yên Bầu, đánh vào phòng tuyến của sư đoàn dù. Trung đoàn 88 Sư đoàn 308 đánh chiếm được một số điểm cao ở núi Cái Mương do tiểu đoàn 7 dù chiếm giữ. Nhưng địch dùng chiến thuật cơ động để lẩn tránh, bám giữ được một số điểm cao quan trọng. Trung đoàn 9 Sư đoàn 304 đánh bật tiểu đoàn dù 9 ra khỏi các điểm cảo 102, 156 làm chủ núi Cánh Giơi. Trung đoàn 66 được 1 đại đội xe tăng chi viện tiến công tiểu đoàn dù 11 ở núi Đá Bạc, Hồ Lầy chiếm được các điểm cao 52, 55 phát triển chiếm được Cầu Nhi và điểm cao 17 ở phía đông đường 1. Tiểu đoàn 2 độc lập chiếm Xuân Lộc. Ngày 24 tháng 6 địch từ Phò Trạch có xe tăng yểm trợ phản kích chiếm lại điểm cao 35 và làng Xuân Lộc. Trung đoàn 24 do chuẩn bị không kịp đến ngày 26 tháng 6 mới tiến công địch ở Cây Lời, Yên Bầu. Địch phản kích quyết liệt, ta và địch ở thế giằng co.
Trên hướng đông: Ngày 19 tháng 6, sư đoàn lính thủy đánh bộ sử dụng các lữ đoàn 147 và 369 hành quân ra hướng Xuân Viên, Đông Dương, Thẩm Khê và hướng Vân Quỹ, Hội Kỳ Phường, buộc ta phải nổ súng trước thời gian quy định. Trung đoàn 18 đánh địch ở Xuân Viên, Đông Dương tiêu hao được một số sinh lực địch buộc chúng phải lui về Thanh Hương, Đại Lộc nhưng ta bị thương vong nhiều phải lui về củng cố. Ngày 23 thảng 6 Trung đoàn 64 Sư đoàn 320B vào thay thế Trung đoàn 27 chặn đánh địch ở Vân Quỹ Bắc và Hội Kỳ Phường. Địch bị thiệt hại phải lui về Vân Quỹ Nam và Phú Kinh.
Mặc dù bị một số thiệt hại nhưng sư đoàn lính thủy đánh bộ vẫn chiếm giữ được các tuyến làng ở nam bắc sông Mỹ Chánh. Lợi dụng địa hình trống trải địch dùng phi pháo ngăn chặn. Trung đoàn 27 của ta bị thiệt hại, không thực hiện được ý định đánh chiếm bàn đạp để vượt sông và phải tạm dừng để củng cố.
Ở hướng đường 12: Ta gặp khó khăn về chuẩn bị vật chất và địch nống ra đánh phá chuẩn bị của ta nên đến ngày 26 tháng 6 các đơn vị mới bước vào tác chiến, chậm mất 5 ngày so với các hướng khác. Trung đoàn bộ binh 1 tiến công 2 tiểu đoàn của trung đoàn 54 ngụy ở nam Khe Thai, ta diệt được một số tên. Trung đoàn bộ binh 3 tiến công 1 tiểu đoàn của trung đoàn 1 ngụy ở điểm cao 372, ta không dứt điểm được mục tiêu. Trung đoàn 6 độc lập tiến công địch ở đèo Sun Na, ta chỉ chiếm được 1 trong số 3 mục tiêu quy định.
Ngày 26 tháng 6 công binh ta đánh cắt giao thông trên đường 1, đoạn nam Phú Lộc. Bộ đội địa phương diệt đại đội bảo an ở Đá Bạc. Một đơn vị đặc công diệt một trung đội dân vệ ở gần sân bay Phú Bài. . .Nhìn chung trong 6 ngày tiến công, các hướng tuy có diệt được một số địch nhưng đều bị chặn lại không thực hiện được kế hoạch (ta diệt được 2.800 tên, bắt sống 25 tên, đánh thiệt hại 7 tiểu đoàn địch nhưng ta không giải phóng thêm được đất đai; trái lại địch lấn ra chiếm thêm được một số khu vực ở hướng tây và bắc sông Mỹ Chánh; ta tổn thất cao hơn 2 đợt tấn công trước). Tình hình trên đặt cuộc chiến đấu đánh địch bảo vệ vùng giải phóng Quảng Trị trước nhiều khó khăn to lớn về cả lực lượng và thế trận.
Trong khi ta mở tiến công đợt 3 không thành công thì địch đã hoàn tất công tác chuẩn bị phản công lớn ra Quảng Trị.
Sau những cuộc hành quân uhỏ đánh ra Hải Lăng để phá chuẩn bị của ta và cuộc hành quân nghi binh ra khu vực Cửa Việt, ngày 26 tháng 6 năm 1972 đội hình phản công của địch ra Quảng Trị đã hình thành trên hai hướng:
- Hướng tây đường 1 (Từ cầu Mỹ Chánh sang phía tây sư đoàn dù do Bùi Thế Lân chỉ huy gồm 3 lữ đoàn 1, 2, 3) được tăng cường thiết đoàn 20 (xe tăng thiết giáp), thiết đoàn 7 (kỵ binh), một tiểu đoàn pháo 155 ly đã triển khai xong đội hình chiến địa. Đây là cánh quân mà Mỹ-ngụy hy vọng sẽ đến thị xã Quảng Trị sớm nhất trong cuộc hành quân "Lam Sơn 72".
- Hướng đông (từ Hải Lăng đến sát biển) do sư đoàn lính thủy đánh bộ của Lê Quang Lưỡng đảm nhiệm được tăng cường thiết đoàn 18 (kỵ binh), 1 chi đoàn xe bọc thép của thiết đoàn 17, 1 tiểu đoàn pháo 155 ly cũng triển khai xong lực lượng, chiến đoàn 4 (gồm trung đoàn bộ binh 4 và thiết đoàn 17 thiếu) là lực lượng dự bị của hướng này cũng đã cơ động xong quân vào vị trí tập kết. Các lực lượng pháo binh của quân đoàn 1 gồm 2 tiểu đoàn pháo 175 ly, 2 tiểu đoàn 105 ly, 1 tiểu đoàn phòng không), sư đoàn không quân 1, hải quân vùng 1 duyên hải, các lực lượng không quân, hải quân Mỹ cũng được lệnh chi viện tối đa cho cuộc hành quân này. Theo đánh giá của giới quân sự Mỹ thì cuộc hành quân này địch yểm trợ mạnh về hỏa lực còn hơn cả cuộc hành quân "Lam Sơn-719" đánh ra khu vực Đường 9 - Nam Lào.
Vào lúc địch triển khai lực lượng phản công, ở hướng đông lực lượng ta có 3 trung đoàn. Trung đoàn 18 sư đoàn 325 sau khi đánh địch ở Xuân Viên, Đông Dương bị mất sức chiến đấu đang củng cố lực lượng ở bắc sông Cửa Việt. Trung đoàn 27 độc lập đang chặn địch ở Vân Quỹ, Hội Kỳ Phường. Trung đoàn 64 Sư đoàn 320B vào thay Trung đoàn 18 làm dự bị của hướng, đứng chân ở An Trú. Đạo Đầu, có 1 tiểu đoàn chặn ở Cổ Lũy, Phương Lang.
Ở hướng tây, Sư đoàn 304 được tăng cường Trung đoàn 88 và tiểu đoàn 2 Trung đoàn 48 đang đánh địch ở nam sông Mỹ Chánh. Sư đoàn 308 (thiếu 1 trung đoàn) đang trên đường hành quân, lúc này đã tới Phong Điền. Sư đoàn 324 đang đánh địch ở tây đường 12. Các trận địa pháo và phòng không của chiến dịch đang triển khai từ Tường Phước đến Thượng Phước để chi viện cho các đơn vị theo kế hoạch tiến công đợt 3. Như vậy trước cuộc phản công lớn của địch, lực lượng ta từ Tân Điền (bắc sông Mỹ Chánh) đến Quảng Trị chỉ có 3 tiểu đoàn gồm: tiểu đoàn 2 độc lập, tiểu đoàn 8 Quảng Trị và 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 48 phòng giữ. Lực lượng chủ yếu của Mặt trận còn đang ở nam sông Mỹ Chánh. Cả thế và lực của ta lúc này đều bất lợi trước cuộc phản công lớn của địch.
Đêm ngày 26 tháng 6, sau khi nghe báo cáo các mặt hoạt động của địch, phán đoán khả năng địch sẽ phản công lớn, Bộ tư lệnh Mặt trận đã lệnh cho Trung đoàn 102 (sư đoàn 308) quay lại cùng Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304) ngăn chặn địch trên đường 1 đoạn Tường Phước - Hương Điền; ngày 27 tiếp tục lệnh cho Sư đoàn 308 (lúc này đang ở Phong Điền) trở lại bắc sông Mỹ Chánh để đánh địch trên trục đường 1 và tiếp tục điều chỉnh đội hình chiến đấu của các Sư đoàn 304, 302B.
Nhưng ý định điều chỉnh lực lượng của ta không thực hiện kịp, nhất là ở hướng tây vì thời gian quá gấp và lúc này không quân, pháo binh địch đã đánh phá rất ác liệt các trục đường hành quân. Trừ Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304), không một đơn vị nào khác đến kịp vị trí quy định để đánh địch. Đây là một thuận lợi lớn cho địch trong những ngày đầu triển khai cuộc phản công ra Quảng Trị.
Sau hai ngày đánh phá dữ dội vùng bờ bắc sông Mỹ Chánh, sáng ngày 28 tháng 6 địch bắt đầu cuộc hành quân "Lam Sơn 72" - Phản công lớn ra vùng giải phóng Quảng Trị.
Ở hướng đông 2 lữ đoàn 147, 369 (sư đoàn lính thủy đánh bộ) đánh chiếm các làng phía bắc sông Mỹ Chánh, bị các trung đoàn 64, 27 của ta chặn lại. Cuộc chiến đấu ở khu vực Đông Dương, Diên Khanh, Xuân Viên, Kim Giao diễn ra rất ác liệt, bộ đội ta anh dũng đánh trả đẩy lui hàng chục đợt tiến công của xe tăng và bộ binh địch. Do lực lượng mỏng, các lực lượng ta phải lui dần. Ngày 29 tháng 6 một bộ phận lữ đoàn 258 từ phía sau đổ bộ đường không xuống chiếm khu vực Cổ Lũy, Mỹ Thủy. Một lực lượng khác đổ bộ đường biển vào Thuận Đầu phối hợp với lực lượng trên bộ từ Đông Dương, Xuân Viên đánh lên Hải Lăng.
Cùng thời gian này phía đường 1, sư đoàn dù ngụy đánh vào các trận địa của Sư đoàn 304. Ngay ngày đầu tiên các trận địa của Trung đoàn 66 từ Thượng Nguyên đến Cầu Dài đã tiêu diệt 1 đại đội, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội khác của sư đoàn dù, bẻ gãy một mũi tiến công lên hướng tây của địch.
Trong khi Trung đoàn 66 đánh chặn địch ngay trên trục đường quốc lộ 1 đoạn Cầu Dài và chốt giữ điểm cao 28, thì các đơn vị khác của Sư đoàn 304 tổ chức các trận địa ngăn chặn địch ở Yên Bầu, Cây Lợi thuộc khu vực núi Cái Mương. Sư đoàn liên tục tổ chức những trận phản kích hai bên sườn, chủ yếu là hướng tây, bước đầu đánh bại ý đồ "chiếm thị xã nhanh chóng" trong giai đoạn đầu của địch.
9 Trong những ngày Mỹ-ngụy mở cuộc hành quân "Lam Sơn 72", Thành Cổ là một trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay và pháo hạm Mỹ, cũng là mục tiêu quan trọng nhất của cuộc hành quân. Nhưng đã hơn một tháng qua, lính dù, lính thủy đánh bộ vẫn không chiếm được Thành Cổ.
Để tiếp sức cho lính ngụy ở Mặt trận Quảng Trị, Mỹ-ngụy thành lập thêm chiến đoàn 4 (gồm 1 trung đoàn bộ binh và 1 trung đoàn xe tăng, xe bọc thép). Mỹ tăng gấp đôi số máy bay chiến lược B52, triển khai trở lại toàn bộ lực lượng không quân chiến thuật ở miền Nam để chi viện hỏa lực cho quân ngụy; một bộ phận lính thủy đánh bộ Mỹ đã sẵn sàng ở căn cứ Phú Bài, cũng nằm trong lực lượng dự bị của các cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị.
Sau hai đợt tiến công không chiếm được thị xã Quảng Trị, địch sử dụng sư đoàn lính thủy đánh bộ thay sư đoàn dù tiếp tục đánh chiếm thị xã. Chúng mở đợt tập kích hỏa lực "phóng lôi" đánh phá ác liệt các trận địa của ta để chi viện cho lữ đoàn lính thủy đánh bộ 258 lấn dũi vào thị xã, trong khi đó sư đoàn dù sử dụng lữ đoàn 1 đánh vào La Vang, Tích Tường, Như Lệ.
Về phía ta, Bộ tư lệnh Mặt trận quyết định tăng cường trung đoàn 95 sang thị xã cùng chiến đấu với Trung đoàn 48. Như vậy đến lúc này ở thị xã ta có 2 trung đoàn (48, 95), 2 tiểu đoàn của tỉnh Quảng Trị và tiểu đoàn 8 Trung đoàn 64. Với lực lượng đó, ta chủ trương đập tan đợt phản kích lần thứ 3 của địch, tiêu diệt một lực lượng quan trọng của lữ đoàn 258 lính thủy đánh bộ, khôi phục lại khu vực đông nam thị xã.
Theo kế hoạch tác chiến chung của toàn Mặt trận, Sư đoàn 308 sử dụng 3 trung đoàn (36, 102, 165) đánh quân dù ở điểm cao 105B, Tích Tường, Như Lệ. Trung đoàn 88 đánh địch ở khu vực bệnh viện và làng Thạch Hãn. Ở hướng đông Sư đoàn 320B sử dụng các trung toàn 27 và 101 đánh vào Nại Cửu, Chợ Sải, các đơn vị trong Mặt trận đã tổ chức chiến đấu ngăn chặn các mũi tiến công của địch ngày càng hiệu quả hơn. Đặc biệt là vào những ngày Mỹ-ngụy tập trung hỏa lực cùng các lực lượng của sư đoàn dù, lính thủy đánh bộ mở những đợt tiến công ồ ạt nhằm đánh sâu vào vùng giải phóng hòng chiếm thị xã Quảng Trị để mặc cả với ta trên bàn đàm phán.
Ở ngã ba Long Hưng, cửa ngõ phía nam của thị xã Quảng Trị, đại đội 5 tiểu đoàn 2 trung đoàn bộ binh 48 do đại đội trưởng Tạ Đình Dọng và chính trị viên Vũ Trung Thướng chỉ huy, cán bộ chiến sĩ đã phát huy tinh thần đoàn kết hiệp đồng, ngoan cường chiến đấu bẻ gãy hàng chục đợt tiến công của địch, tiêu diệt hàng trăm tên giữ vững trận địa, đánh bại ý đồ nhanh chóng đánh chiếm thị xã từ phía nam của sư đoàn dù trong cuộc hành quân "Lam Sơn 72".
Cùng với những trận đánh của Trung đoàn 48 ở khu vực thị xã, các trận đánh của Trung đoàn 165 Sư đoàn 312 ở Như Lệ, Tân Téo, Trung đoàn 95 Sư đoàn 325 ở Tri Bưu, Thạch Hãn; Trung đoàn 36 Sư đoàn 308 ở Tích Tường - La Vang, ta đã ngăn chặn được các đợt tấn công của địch vào phía nam và tây nam thị xã.
Ở cánh đông, cán bộ chiến sĩ trung đoàn 27, Trung đoàn 64 (sư đoàn 320B), Đoàn 1A hải quân... đã bám trụ kiên cường dưới những trận bom hủy diệt của Mỹ-ngụy, để giữ vững vùng giải phóng bảo vệ hướng đông và đông bắc thị xã Quảng Trị. Các đơn vị ở cánh đôngđã hình thành một tuyến "chốt" liên hoàn từ Long Quang, Thanh Hội đến Chợ Sải, An Lộng, Bích La...
Sát cánh chiến đấu cùng bộ đội chủ lực là các đơn vị bộ đội địa phương, dân quân du kích của hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng tỉnh Quảng Trị. Lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích vừa làm nhiệm vụ dẫn đường vừa phối hợp chiến đấu trong mọi lúc mọi nơi. Bộ đội địa phương tỉnh đã có những trận đánh đạt hiệu suất chiến đấu cao như tiểu đoàn 14 đánh địch ở Hội Yên, Gia Đẳng, tiểu đoàn 10 ở Trà Trì, Trà Lộc...du kích các xã Triệu Sơn, Triệu Trạch, Hải Thượng... đã kết hợp nhiều cách đánh táo bạo kể cả bằng cạnh bẫy chông mìn... để tiêu diệt địch bảo vệ quê hương.
Huyện đội phó huyện Hải Lăng Trần Thị Tâm liên tục bám dân, bám đất, cùng tổ du kích xã Hải Quế đánh với một tiểu đoàn địch, có máy bay trực thăng vũ trang chi viện trong suốt một ngày. Phát hiện hầm ẩn nấp của chị, địch dùng rốc-két bắn thắng vào hầm, Trần Thị Tâm bị thương nặng. Trước khi hy sinh, chị đã giấu súng, đốt hết tài liệu để không rơi vào tay giặc Tấm gương chiến đấu, hy sinh anh dũng của Trần Thị Tâm đã được cán bộ chiến sĩ toàn Mặt trận nêu gương, học tập. Chị đã được Đảng và Nhà nước ta truy tặng danh hiệu cao quý: "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Cũng trên mảnh đất mà bom đạn Mỹ đang "chà đi xát lại” này, du kích và cán bộ cơ sở ngoài nhiệm vụ cùng phối hợp chiến đấu với bộ đội, còn tranh thủ mọi lúc mọi nơi, tìm cách đưa bà con cô bác còn "kẹt” lại ra vùng giải phóng an toàn.
Theo thống kê sơ bộ, trong thời gian địch mở cuộc hành quân "tái chiếm Quảng Trị”, 60 nghìn dân của hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng đã được sơ tán ra Quảng Bình, Vĩnh Linh.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích trên toàn Mặt trân, đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, bẻ gãy các cuộc tiến công ra vùng giải phóng Quảng Trị của Mỹ- ngụy.
Bước sang tháng 8 năm 1972, do yêu cầu công tác, đồng chí Lê Trọng Tấn và đồng chí Lê Quang Đạo về Bộ công tác, đồng chí Trần Quý Hai giữ chức Tư lệnh Mặt trận, đồng chí Song Hào giữ chức Chính ủy Mặt trận.
Cũng trong thời gian này, Bộ Tổng Tham mưu quyết định tiếp tục bổ sung hai trung đoàn 209 và 141 của Sư đoàn 312 cho Mặt trận Quảng Trị.
Mặc dù vừa làm nhiệm vụ ở Mặt trận phía tây về, nhưng khi nhận được lệnh vào chiến đấu ở Quảng Trị, cán bộ chiến sĩ hai trung đoàn đã chấp hành nghiêm mệnh lệnh chiến đấu. Dọc đường hành quân từ Nghệ An, Hà Tĩnh vào chiến trường, các đơn vị của hai trung đoàn đã vượt qua bom đạn của giặc Mỹ đánh phá ác liệt để có mặt đúng thời gian quy định.
Trung đoàn 141 phải nhanh chóng khắc phục hậu quả của bom B52 đánh vào đội hình, để tiếp tục hành quân. Hết gạo, hết thực phẩm các đơn vị vừa hành quân, vừa liên hệ với các địa phương giúp đỡ, để đơn vị không bị đói và vẫn giữ vững tốc độ hành quân. Lúc này, có mặt kịp thời ở Quảng Trị để chia lửa cùng đồng đội bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ thị xã Quảng Trị, là mệnh lệnh thiêng liêng nhất của mọi cán bộ chiến sĩ.
Khi các trung đoàn 209, 141 lần lượt vào chuẩn bị chiến đấu cũng là lúc không quân và hải quân Mỹ thực hiện "kế hoạch phóng lôi" chi viện hỏa lực tối đa để quân ngụy mở đợt tấn công lớn thứ 4 vào thị xã và hướng đông. Sư đoàn dù tiếp tục lấn ra phía tây. Bộ tư lệnh Mặt trận chủ trương tăng cường lực lượng cho các hướng đánh phản kích lần thứ 4 nhằm tiêu diệt từ 2 đến 3 tiểu đoàn địch, phá thế uy hiếp thị xã từ hướng tây và hướng đông.
Sư đoàn 308 được giao nhiệm vụ đẩy địch ra khỏi phía nam thị xã, chiếm lại ngã ba Long Hưng, giữ vững Tích Tường, Như Lệ. Từ ngày 1 đến ngày 16 tháng 8, các đơn vị giữ thị xã tổ chức các trận đánh phản kích ở chùa Bà Năm, khu học xá, trường Bồ Đề, khu Thạch Hãn, nhiều nơi ta đẩy lùi địch được từ 200 đến 300m.
Ở Tích Tường, Như Lệ các Trung đoàn 36, 66 đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn, 2 đại đội địch, diệt gọn hai đại đội trinh sát dù ở Tường Phước. Trung đoàn 24 diệt hai đại đội, đánh thiệt hại nặng 1 đại đội, giữ vững trận địa. Các trận địa pháo của ta đánh tốt chế áp có hiệu quả các trận địa pháo của địch, phá hủy 44 khẩu pháo 105 và 175 ly, diệt nhiều xe cơ giới và sinh lực địch.
Ở hướng đông, Trung đoàn 101 đánh địch ở Chợ Sải không kết quả. Trung đoàn 27 chiếm được Bích La Trung, Nại Cửu Bắc, một phần Nại Cửu Nam, đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ nhưng đơn vị không đủ sức giữ trận địa. Ngày 19 tháng 8 các trung đoàn 88 và 102 đánh ra ngã tư Thạch Hãn, ngã ba Long Hưng nhưng ta chỉ giữ được trận địa một thời gian ngắn.
Mặc dù, các đơn vị ta đã có kinh nghiệm trong xây dựng công sự trận địa nhưng bom đạn Mỹ đánh phá Quảng Trị thời gian này mang tính hủy diệt nhất là khu vực Thành Cổ nên quân số thương vong của các đơn vị đều tăng (trong đó quân số thương vong do bom pháo gấp 2 lần số thương vong của đạn bắn thẳng). Vấn đề đảm bảo sức chiến đấu lâu dài cho các đơn vị phía trước, nhất là các đơn vị trong thị xã Quảng Trị ngày càng khó khăn. Ngoài bom pháo đánh phá liên tục vào các bến vượt của sông Thạch Hãn, sông Cửa Việt, sông Vĩnh Định địch còn thả thủy lôi, bom từ trường trên các cửa sông, các luồng lạch nhằm cắt đứt sự chi viện từ phía sau lên phía trước của ta.
Để tăng cường bộ máy chỉ huy và tổ chức chi viện kịp thời cho cuộc chiến đấu trong thị xã Quảng Trị, từ ngày 9 tháng 8 năm 1972 Bộ tư lệnh Mặt trận đã giao cho Sư đoàn 325 lãnh đạo chỉ huy chung và đảm bảo các mặt cho lực lượng chiến đấu bảo vệ thị xã Quảng Trị, nhưng về tác chiến Bộ tư lệnh Mặt trận vẫn chỉ huy vượt cấp đến Ban chỉ huy khu vực thị xã.
Thực hiện nhiệm vụ của trên giao, Sư đoàn 325 đã tổ chức thêm một Sở chỉ huy nhẹ ở Nham Biều, xây dựng thêm một đường dây cáp điện thoại qua sông liên lạc với Ban chỉ huy thị xã và tổ chức thêm 3 tuyến vận tải đường bộ cùng Sư đoàn 320B chi viện kịp thời cho cuộc chiến đấu đang diễn ra khẩn trương quyết liệt tại thị xã Quảng Trị. Chủ trương đúng đắn của Bộ tư lệnh Mặt trận đã tạo điều kiện đảm bảo phục vụ tiếp tế kịp thời cho các lực lượng ta trong thị xã có đủ sức chiến đấu, hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ trong giai đoạn chiến đấu mới.
Cũng trong thời gian này, Ban chỉ huy khu vực thị xã chủ trương luân phiên bổ sung các đơn vị mới vào để rút dần các đơn vị đã chiến đấu dài ngày trong thị xã ra phía sau củng cố.
Về phía địch, sau một thời gian tổ chức đánh vào khu vực La Vang, Tích Tường, Như Lệ, Thành Cổ Quảng Trị không thành công và bị thiệt hại nặng, chúng chuyển hướng đánh mạnh vào phía đông và đông bắc, cố gắng chiếm khu vực nhà thờ Tri Bưu để làm bàn đạp tiến công vào Thành Cổ. Các lực lượng địch đã hình thành tuyến bao vây ở phía nam-đông nam, đông-đông bắc Thành Cổ Quảng Trị. Hành động chiến đấu của địch lúc này cũng có những thay đổi so với trước. Chúng không tiến công ồ ạt như trước mà tập trung phi pháo cao độ để sát thương ta trước khi sử dụng lực lượng mạnh đột kích vào các trận địa, vừa tấn công chính diện vừa sử dụng lực lượng bảo vệ hai bên sườn để đề phòng ta đánh tạt sườn và chia cắt phía sau.
Để khắc phục chỗ yếu của bộ binh, địch đã phát huy cao độ máy bay ném bom chiến thuật, máy bay chiến lược B52, pháo mặt đất, nhất là pháo từ các hạm tàu. Chúng phối hợp chặt chẽ giữa xung lực và hỏa lực; lấy hỏa lực là chính với thủ đoạn chủ yếu là dùng phi pháo thường xuyên, đánh mạnh vào đội hình và các đường tiếp tế của ta; đưa từng phân đội nhỏ "lấn dũi” dần từng bước, khi gặp ta đánh mạnh thì rút lui và tập trung phi pháo đánh mạnh vào đội hình của ta; sau đó tiếp tục tấn công. Để đối phó với pháo binh của ta, tiến đến đâu, chúng làm công sự vững chắc tới đó và khi chiếm lĩnh thì sơ tán đội hình bằng nhiều điểm chốt nhỏ, kết hợp chặt chẽ giữa bộ binh, xe tăng, thiết giáp, trong tiến công cũng như trong phòng ngự.
Tiếp tế của địch từ cửa Thuận An và căn cứ Phú Bài ra, chủ yếu là dùng ô tô để vận chuyển chạy trên trục đường quốc lộ 1 và trục đường 68.
Trước âm mưu và thủ đoạn của địch, Bộ tư lệnh Mặt trận chủ trương:
- Kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngự và tiến công. Kết hợp đánh chính diện và thọc sâu, chia cắt, bao vây tiêu diệt, đánh tan từng bộ phận địch. Tổ chức đánh phân tán rộng kháp, tiêu hao địch cả ở chính diện và trong vùng địch kiểm soát, đánh tập trung từng tiểu đoàn, có hiệp đồng binh chủng, tiêu diệt từng bộ phận địch.
- Kết hợp giữa xung lực và hỏa lực. Kết hợp tiêu hao, tiêu diệt địch với phá thế của chúng. Tiêu diệt từng bộ phận địch, phải nhằm mục đích tiến tới phá vỡ thế địch. Địch đang tổ chức các lực lượng tiến công vây ép thị xã Quảng Trị, tiến tới đánh chiếm Thành Cổ từ phía nam - đông nam, đông - đồng bắc. Vì vậy phá thế vây ép thị xã Quảng Trị của địch là nhiệm vụ cấp bách của toàn Mặt trận.
Thực hiện chủ trương của Mặt trận, từ ngày 20 đến ngày 30 tháng 8 (khi địch mở đợt tấn công lớn thứ 5 vào thị xã) các đơn vị trong toàn Mặt trận đã đẩy mạnh tác chiến lên một bước; đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn dù 3, chiếm lại được ngã ba Long Hưng và tổ chức các trận đánh đồng loạt trong hai ngày 23 và 24 tháng 8 năm 1972. Có một số đơn vị đã đánh chiếm được mục tiêu, buộc địch phải "giãn ra" không dám “lấn dũi " tiếp. Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 95 tập kích chiếm khu vực nhà thờ Xanh làng Tri Bưu ở hướng đông bắc Thành Cổ, tiểu đoàn 7 Trung đoàn 18 đánh chiếm lại Cầu Sắt ở phía nam, tiểu đoàn 5 Trung đoàn 165 cùng phối hợp với lực lượng của Trung đoàn 88 tập kích địch ở làng Đệ Ngũ, tiểu đoàn 2 Trung đoàn 48 đánh địch ở làng Hành Hoa..
Tiêu biểu là trận tập kích vào khu nhà thờ Xanh làng Tri Bưu của tiểu đoàn 5 Trung đoàn 95 trong các ngày 22, 23, 24 tháng 8 năm 1972. Do nắm chắc địch, địa hình và thủ đoạn đối phó của lính thủy đánh bộ, tiểu đoàn 5 đã thực hiện tốt nhiệm vụ đánh chiếm và giữ vững khu nhà thờ Xanh, đánh thiệt hại tiểu đoàn lính thủy đánh bộ 8, loại khỏi vòng chiến đấu 250 tên địch. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 5 đã liên tục đánh lui nhiều đợt phản kích của địch, giữ vững trận địa, mở rộng và cải thiện được thế trận của ta trên hướng đông bắc của thị xã Quảng Tị. Tiểu đoàn 5 đã được đề nghị tặng thưởng huân chương Quân công hạng ba và được Bộ tư lệnh Mặt trận khen là "tiểu đoàn đánh giỏi".
Để giữ vững vị trí quan trọng trên các hướng chiến đấu của thị xã Quảng Trị. Bộ tư lệnh Mặt trận chủ trương điều chỉnh lực lượng và bổ sung kế hoạch cho các đơn vị như sau:
- Tăng cường lực lượng cho Trung đoàn 48 và Trung đoàn 95 để không những giữ vững vị trí hiện may mà đủ sức chiếm lại khu vực Tri Bưu và phối hợp với Sư đoàn 308 chiếm lại làng Thạch Hãn.
- Sư đoàn 308 có nhiệm vụ: Dùng các Trung đoàn 102, 88 và 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 36 chốt giữ vững chắc khu vực Long Hưng và phối hợp với Trung đoàn 48 tiêu diệt địch ở làng Thạch Hãn. Kết hợp Trung đoàn 209 và Trung đoàn 36 (thiếu) tiêu diệt một bộ phận và từng bước làm tan rã lữ đoàn dù 1.
- Sư đoàn 304 được tăng cường Trung đoàn 141của Sư đoàn 312, khẩn trương tổ chức lực lượng, phối hợp với Sư đoàn 308 đánh chiếm địa bàn và tiêu diệt từng bộ phận lính dù, chiếm lại khu vực Cầu Dài, Cầu Nhùng, thực hiện bao vây chia cắt chiến dịch và phát triển về phía nam. Sử dụng Trung đoàn 9 cùng tiểu đoàn 2 của Mặt trận, đánh vào lữ đoàn dù 3 ở Tường Phước và đánh giao thông ở khu vực Bến Đá.
- Tiểu đoàn 15 và tiểu đoàn đặc công của Mặt trận. tiếp tục đánh giao thông và đánh vào các hậu cứ địch ở khu vực Cầu Nhi, Đồng Lâm.
- Sư đoàn 320B dùng lực lượng của Trung đoàn 101 và Trung đoàn 27, tiếp tục đánh lữ đoàn lính thủy đánh bộ 147 ở Nại Cửu, An Tiêm, Chợ Sải, làm chủ khu vực phía tây sông Vĩnh Định. Trung đoàn 64 đánh thọc sâu, thực hiệu chia cắt ở vùng Ngô Xá Đông. Các lực lượng ở cánh đông phải giúp đỡ hoạt động của bộ đội địa phương và du kích đánh sau lưng địch ở khu vực Hải Lăng.
- Sư đoàn 325 chuẩn bị sẵn sàng lực lượng chi viện cho thị xã Quảng Trị khi có lệnh và làm tốt nhiệm vụ phòng thủ khu vực Ái Tử - Đông Hà.
Trên thực tế ở vào thời điểm này, quân số các đơn vị thiếu hụt nhiều, có đơn vị chỉ đạt từ 30 đến 50% quân số. Trong chiến đấu ác liệt quân số thương vong nhiều, địch đánh phá ngăn chặn trên các trục đường hành quân, các bến vượt của sông Quảng Trị, Thạnh Hãn, càng hạn chế lực lượng quân số bổ sung cho các đơn vị. Có đơn vị sau mỗi trận đánh "quân vào" ít hơn "quân ra", vì vậy tuy đã đánh chiếm được mục tiêu, nhưng không còn lực lượng để chiếm giữ lâu dài, nhất là những vị trí trọng yếu của các khu vực xung quanh thị xã Quảng Trị.
Từ đó, vấn đề chiến đấu tiêu diệt nhiều địch, làm chủ mục tiêu và ta thương vong ít, đặt ra cho các đơn vị. Muốn thực hiện được các yêu cầu đó, đòi hỏi chỉ huy lãnh đạo các cấp phải nắm chắc tình hình, chuẩn bị tốt các mặt mới tổ chức chiến đấu, đảm bảo đánh chắc thắng. Nhờ làm tốt các yêu cầu đặt ra mà một số đơn vị đã tổ chức được những trận đánh tốt, trụ bám lâu ngày, đơn vị có sức chiến đấu cao.
Nhiệm vụ giữ vững vùng giải phóng, giữ vững thị xã Quảng Trị ngày càng được đồng bào và chiến sĩ cả nước quan tâm theo dõi, đặc biệt là Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh. Ngoài việc cử các đoàn cán bộ của cơ quan Bộ Quốc phòng vào trực tiếp theo dõi giúp đỡ Mặt trận, các đồng chí thủ trưởng Bộ luôn luôn tìm cách liên lạc trực tiếp với ban chỉ huy chiến đấu khu vực thị xã Quảng Trị để chỉ đạo và động viên bộ đội giữ vững tinh thần chiến đấu.
Vào một ngày giữa tháng 8 năm 1972, tại sở chỉ huy Trung đoàn 48 đóng ở "dinh tỉnh trưởng” giữa thị xã Quảng Trị, cán bộ chỉ huy Trung đoàn 48 qua điện thoại vượt cấp được nghe lời động viên nhắc nhở ân cần của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhân chuyến vào kiểm tra tình hình nhiệm vụ chiến đấu ở Mặt trận Quảng Trị.
Những lời cổ vũ động viên của Đại tướng trong thời điểm chiến đấu quyết liệt được chuyển đến các trận địa chiến đấu của các đơn vị đang bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị đã khích lệ tinh thần chiến đấu của mỗi cán bộ, chiến sĩ đang cầm súng chiến đấu bảo vệ thị xã Quảng Trị.
Do những yêu cầu cấp bách về chính trị, ngoại giao nên mặc dù đã bị tổn thất nặng trong các cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị địch vẫn tăng cường lực lượng cố gắng giữ vững địa bàn đã đánh chiếm và tiếp tục tổ chức lực lượng đánh chiếm thị xã. Kết hợp giữa hỏa lực đánh phá có tính chất hủy diệt với lính ngụy "lấn dũi" đánh chiếm dần những vị trí có lợi, địch đã tạo được khả năng vây ép ta để tiến sát vào Thành Cổ Quảng Trị. Chúng chuyển hướng tấn công đánh chiếm Thành Cổ từ hướng nam - đông nam sang hướng đông - đông bắc, và tập trung mọi lực lượng, mọi thủ đoạn để "cắm cờ lên Cổ Thành Đinh Công Tráng".
Trước yêu cầu cấp bách của chính trị, ngoại giao, để lừa bịp dư luận, chỉ huy sư đoàn lính thủy đánh bộ cho lính cắm cờ lên nhà thờ Trầm Lý để quay phim chụp ảnh tuyên truyền làm như chúng đã chiếm được Thành Cổ Quảng Trị. Nhưng chúng đã bị dư luận lên án. Những bức ảnh do phóng viên báo Quân đội nhân dân chụp các chiến sĩ Trung đoàn 48 chiến đấu ở Thành Cổ đăng trên các báo, là những bằng chứng hùng hồn chứng minh sự lừa dối và những thất bại của Mỹ - ngụy trong việc đánh chiếm Thành Cổ. Cùng với những bức ảnh chiến đấu, sinh hoạt của bộ đội, ta còn đăng những bức ảnh bom đạn Mỹ đánh phá hủy diệt Thành Cổ kịp thời tố cáo tội ác hủy diệt của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trước dư luận tiến bộ thế giới.
Mọi cố gắng cao nhất của địch để đánh chiếm Thành Cổ đều không đạt kết quả. Ở Quảng Trị lính sư đoàn dù, sư đoàn lính thủy đánh bộ, lính biệt động quân. . . lại liên tiếp tổ chức tiến công đánh chiếm Thành Cổ Quảng Trị. Đây cũng là thời kỳ mà các lực lượng chiến đấu của ta ở Mặt trận Quảng Trị bị hao tổn lớn về lực lượng. Tuy ta tiêu diệt được một phần sinh lực quan trọng của sư đoàn dù và sư đoàn lính thủy đánh bộ ngụy nhưng ta không còn đủ sức giữ một số trọng điểm. Ta đã để địch lấn chiếm được tới thôn Gia Đẳng, Bích La, Tri Bưu, An Thái, La Vang, Long Hưng và hình thành thế bao vây thị xã từ hướng đông và đông nam. Phía tây đường 1 địch chiếm đến Tân Điền, Tường Phước, Thượng Nguyên, các cao điểm 28m, 105N, 138. Tình hình trên cùng với thời tiết mưa lũ lớn đã đặt cuộc chiến đấu của quân dân Quảng Trị trước những thứ thách mới.
Để khắc phục những khó khăn trên, bảo đảm chiến đấu liên tục trong điều kiện thời tiết mưa lũ, Thường vụ Đảng ủy. Bộ tư lệnh Mặt trận chủ trương:
- Vừa tác chiến, vừa xây dựng lực lượng, có lực lượng đánh, có lực lượng củng cố. Sẵn sàng lực lượng để chủ động trong mọi tình huống. Đồng thời đẩy mạnh tác chiến phía trước, đánh địch liên tục, nhưng cũng phải chú ý thích đáng phía sau để bảo vệ vững chắc vùng giải phóng.
- Chú trọng hình thức tác chiến phòng ngự, phản kích, ngăn chặn địch, đẩy mạnh đánh tiêu hao, tiêu diệt nhỏ thường xuyên; tích cực đánh phá giao thông, tiếp tế, đánh trận địa pháo, chỉ huy sở phía sau của địch. Đồng thời tổ chức đánh những trận lớn có chuẩn bị từ trung đoàn trở lên, để tiêu diệt từng bộ phận quan trọng của địch.
- Tổ chức tốt công tác xây dựng trận địa, có công sự chiến đấu, công sự ẩn nấp, phòng tránh bom pháo địch. Hạn chế đến mức thấp nhất quân số thương vong ngoài chiến đấu. Trên khu vực tác chiến của các đơn vị hoạt động phải nắm vững những quy luật đánh phá của bom pháo địch để tổ chức cơ động lực lượng an toàn trong mọi tình huống.
Quán triệt chủ trương của Bộ tư lệnh Mặt trận, các đơn vị trên các hướng chiến đấu đã tổ chức củng cố trận địa phòng ngự phát huy tinh thần chủ động tiến công tiêu diệt địch.
Ở Cánh Đông Quảng Trị, dưới sự chỉ đạo giúp đỡ trực tiếp của Bộ tư lệnh và cơ quan Mặt trận, Bộ tư lệnh Cánh Đông đã hoàn thành kế hoạch tác chiến trong mùa mưa, với các yêu cầu chỉ đạo tác chiiến là:
- Chủ động tiến công, kiên quyết ngăn chặn địch từ xa, giữ vững địa bàn trọng yếu.
- Lấy đánh tiêu diệt nhỏ làm chính (diệt gọn từng trung đội, đại đội, hoặc chi đội thiết giáp, từng toán tàu xuồng địch). Khi tạo được điều kiện thì đánh tiêu diệt vừa một vài trận, đồng thời đánh tiêu hao rộng rãi và liên tục.
- Chủ động đánh địch ngoài công sự, đề cao tính mưu trí sáng tạo, vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật, tìm ra cách đánh hiệu quả, thích hợp với chiến trường đồng bằng mùa mưa lụt.
- Đánh tập trung hiệp đồng binh chủng, phát huy sức mạnh tổng hợp của ba thứ quân. Kết hợp hoạt động quân sự với chính trị, tác chiến với xây dựng.
- Kết hợp chặt chẽ với địa phương, vừa đánh địch vừa xây dựng vùng giải phóng, luân phiên củng cố, xây dựng đơn vị.
Địa bàn và hướng tác chiến chủ yếu của đơn vị ở Cánh Đông là phía đông sông Thạch Hãn và phía tây sông Bích La.
Về sử dụng lực lượng: Trung đoàn 27 (trừ tiểu đoàn 1 ra củng cố ở bắc sông Cửa Việt) được tăng cường thêm 3 tiểu đoàn bộ binh đánh địch từ Nại Cửu, Đại Hào (khu chủ yếu) đến Bích Khê, Tân Định, An Mỗ, Trà Liên. Trung đoàn 101 (trừ tiểu đoàn 1 ra củng cố) tác chiến trên khu vực Tả Kiên, Vĩnh Phước, Trung Chỉ, Lập Thạch. Trung đoàn 64 đánh địch ở Long Quang, Thanh Hội, Cửa Việt.
Sau khi thay đổi thủ đoạn, từ đánh nhanh sang "lấn dũi" tập trung lực lượng mở cuộc hành quân theo trục đường quốc lộ 1 để chiếm thị xã Quảng Trị không thành công, địch chuyển sang đánh chiếm dần thị xã từ phía đông đông nam. Nhiều đơn vị lính dù đã ‘lấn dũi" lên phía bắc Thành Cổ Quảng Trị. Ở phía tây nam, tiểu đoàn 6 lữ đoàn lính thủy đánh bộ 258 cũng đã chiếm được nhà thờ Tin lành, nhằm khống chế đường vận tải của ta từ Nham Biều đến thị xã.
Ban chỉ huy Thành (Chú thích: Cuối tháng 7 năm 1972, Bộ tư lệnh quyết định thành lập Ban chỉ huy khu vực thị xã Quảng Trị gồm các đồng chí: Lê Quang Thúy Trung đoàn trưởng Trung đoàn 48 làm chỉ huy trưởng, Vũ Quang Thọ, phó chính ủy Trung đoàn 95 làm chính ủy, Vũ Thư, Trung đoàn phó Trung đoàn 95 và Trần Minh Vân, Trung đoàn phó Trung đoàn 48 làm chỉ huy phó. Đến cuối tháng 8 năm 1972, đồng chí Nguyễn Việt, cán bộ của Sư đoàn 325 thay đồng chí Lê Quang Thúy làm chỉ huy trưởng.) họp quyết định tập trung lực lượng đánh lấy lại nhà thờ Tin lành và đánh chiếm khu vực nhà bằng của làng Hải Trí ở phía nam Thành Cổ chặn địch trên trục đường từ ngã 3 Long Hưng vào Thành Cổ, không cho bọn địch ở phía đông và nam nối liền nhau. Lực lượng của tiểu đoàn 5 Trung đoàn 95 do tiểu đoàn trưởng Vũ Xuân Cường chỉ huy và tiểu đoàn 2 Trung đoàn 48 do tiểu đoàn phó Thiều Quang Nông chỉ huy cùng phối hợp đánh địch ở khu vực nhà thờ Tin lành và làng Hải Trí. Tiểu đoàn 5 và tiểu đoàn 2 phải phân tán lực lượng thành nhiều bộ phận, để đảm nhiệm chốt giữ Thành Cổ, vừa tổ chức tiến công địch, vừa làm lực lượng dự bị cho các hướng.
Sau khi hiệp đồng và phân công mục tiêu cụ thể, các lực lượng chiến đấu của tiểu đoàn 5 và tiểu đoàn 2 đã nhanh chóng tập kích bất ngờ vào hai mục tiêu trên.
Tuy mỗi đơn vị chỉ có 30 tay súng, nhưng cán bộ chiến sĩ đều có quyết tâm cao, nắm chắc địch và địa hình, vượt qua mưa gió, tổ chức lực lượng hợp lý đánh chiếm được mục tiêu, giữ vững trận địa phòng ngự ở phía tây nam Thành Cổ và bảo vệ được con đường vận chuyển của ta từ Nham Biều, Ái Tử sang thị xã Quảng Trị.
Sau hơn một tuần củng cố điều chỉnh lực lượng, ngày 5 và ngày 6 tháng 9 địch tăng cường cho sư đoàn lính thủy đánh bộ liên đoàn 1 biệt động quân (gồm 3 tiểu đoàn), thiết đoàn 17 kỵ binh (thiếu); sư đoàn dù được tăng cường lữ đoàn biệt động quân 7, một liên đội pháo. Cả hai sư đoàn này đều được trang bị thêm mỗi sư đoàn từ 10 đến 5o xe phun lửa M-125. Sư đoàn dù đảm nhận khống chế phía nam đã điều liên đoàn biệt động quân 1 đến Triệu Phong thay cho lữ đoàn 147 để lữ đoàn 147 và 258 tiến công chiếm thị xã và Thành Cổ Quảng Trị. Lực lượng không quân, hải quân Mỹ cũng được lệnh tập trung bom pháo chi viện tối đa cho cuộc hành quân này.
Về phía ta, trên cơ sở các khu vực phòng ngự đã hình thành, Bộ tư lệnh Mặt trận chủ trương:
- Sư đoàn 308 dùng Trung đoàn 36 và Trung đoàn 209 (của Sư đoàn 312 tăng cường) tiêu diệt tiểu đoàn dù 11, sau đó phối hợp với 2 trung đoàn (102 và 88) tiêu diệt địch đánh chiếm lại Long Hưng.
- Sư đoàn 304 sử dụng Trung đoàn 66 phối hợp với Sư đoàn 308 tiêu diệt tiểu đoàn dù 7 ở Long Hưng và Cầu Nhùng, dùng các trung đoàn 141 và 24 đánh tiểu đoàn dù 3 rồi phát triển sang cầu Bến Đá phối hợp với Trung đoàn 9 đánh lữ đoàn dù 3.
- Sư đoàn 320B vây ép, đánh nhỏ ở khu vực Chợ Sải, Nại Cửu. Sử dụng lực lượng vũ trang địa phương phối hợp hoạt động rộng khắp sau lưng địch.
- Sư đoàn 325 trực tiếp chỉ huy các lực lượng bảo vệ thị xã ngoan cường cố thủ và kiên quyết phản kích giữ vững khu Thành Cổ.
Để tăng cường chỉ huy, bảo đảm tổ chức hiệp đồng chặt chẽ hướng tây nam, Bộ tư lệnh Mặt trận cử đồng chí Phạm Hồng Sơn, Phó tư lệnh và đồng chí Hoàng Minh Thi, Phó Chính ủy trực tiếp chỉ huy 2 Sư đoàn 308 và 304.
Sáng ngày 7 tháng 9 địch mở đầu cuộc tấn công bằng một đợt pháo hỏa chuẩn bị gọi là "kế hoạch phóng lôi’. Suốt 48 giờ liền chúng đánh phá dữ dội vào tất cả các trận địa của ta, đặc biệt là xung quanh Thành Cổ, các đường vận chuyển, các bến vượt sông. Máy bay B52 rải thảm bờ bắc sông Thạch Hãn, tập trung nhất vào khu vực Ái Tử, Nhan Biều, Đông Hà và các trận địa pháo của ta.
Sáng ngày 9 tháng 9 sư đoàn dù cho một cánh quân đánh chiếm trại Gia Long, khu vực La Vang (nam thị xã 2.5 km), một cánh quân đánh vào Tích Tường, Như Lệ nhằm chặn ta từ hướng tây - tây nam phản kích sang.
Ở phía bắc thị xã, liên đoàn biệt động quân sử dụng 2 tiểu đoàn (39, 37) đánh chiếm Bích Khê, Nại Cửu để chặn ta từ phía bắc sông Vĩnh Định tới và tổ chức kiềm chế pháo của ta ở tả ngạn sông Thạch Hãn.
Cùng thời gian này sư đoàn lính thủy đánh bộ tiến công từ bốn hướng vào Thành Cổ. Hướng chủ yếu (nam, đông nam) do 4 tiểu đoàn của lữ 258 thay nhau đột phá. Mũi chủ yếu (tiểu đoàn 6) theo bờ sông Thạch Hãn đánh chiếm cầu ga và khu vực bệnh viện. Cả ba mũi đều bị ta đánh chặn quyết liệt bị thiệt hại nặng, phải dừng lại củng cố.
Trên hướng lữ đoàn 147, mũi chủ yếu (tiểu đoàn 3) từ làng Tri Bưu đánh vào đông bắc thành. Ta phản kích và dùng pháo từ bờ bắc bắn chặn, địch bị thiệt hại phải dừng lại cách Thành Cổ 500m; mũi tiểu đoàn 7 theo bờ sông Vĩnh Định đánh vào tây bắc thành bị ta chặn đánh quyết liệt phải lùi ra xa cách Thành Cổ lkm. Tiểu đoàn 8 (lực lượng dự bị của địch) bị pháo ta đánh trúng đội hình bị thiệt hại nặng phải lui ra củng cố.
Tại phía nam thị xã, Trung đoàn 209 phản công chiếm lại ngã ba Phước Môn, thôn Phú Long. Trung đoàn 102 tập kích địch ở ngã ba Long Hưng. Trung đoàn 24 tiêu diệt 1 đại đội địch ở Cầu Nhùng. Tuy các mũi tiến công của sư đoàn dù của địch bị chặn lại nhưng ta cũng bị thương vong nhiều không đủ sức giữ trận địa đã chiếm được vì phi pháo địch đánh phá rất ác liệt. Trung đoàn 102 phải lui về phía tây Long Hưng, Trung đoàn 24 lui về Tường Phước củng cố, sau đó bị nước lũ ngăn trở không cơ động được.
Cuộc chiến đấu tại khu vực thị xã và Thành Cổ từ ngày 10 tháng 9 trở đi diễn ra hết sức ác liệt. Địch tập trung xe tăng, xe thiết giáp, xe phun lửa và chất độc hoá học đánh liên tục vào thành. Ngày 13 tháng 9 tiểu đoàn 6 lữ đoàn 258 chiếm được một phần góc đôn gnam Thành Cổ. Ngày 15 tháng 9 tiểu đoàn 3 Lữ đoàn 147 chiếm được đông bắc thành. Các lực lượng ta chiến đấu giành giật với địch từng mô đất, mảng tường, góc hầm. Ta tăng cường thêm lực lượng tiểu đoàn 8 vào thị xã nhưng sau mấy trận chiến đấu ác liệt tiểu đoàn không còn đủ sức đánh tiếp. Các đơn vị ở các hướng khác tuy đã cố gắng chi viện cho thị xã nhưng do phi pháo địch ngăn trở không thu được hiệu quả. Ngày 16 tháng 9 Trung đoàn 18 được lệnh vượt sông sang chi viện cho thị xã nhưng nước sông Thạch Hãn lên to, địch đánh phá ngăn chặn dữ dội các bến vượt, phương tiện vượt sông bị hư hỏng hết. Trung đoàn 18 phải rất chật vật mới đưa được một lực lượng nhỏ qua sông. Lúc này lực lượng ta trong thị xã và Thành Cổ đã bị thương vong lớn. Đêm ngày 16 tháng 9 những tổ chiến đấu cuối cùng của ta rời Thành Cổ, vượt sông Thạch Hãn sang phía Nham Biều, Ái Tử.
Tính đến ngày 16 tháng 9 năm 1972, các đơn vị đã trải qua cuộc chiến đấu liên tục 81 ngày đêm giữ vững thị xã và vùng giải phóng Quảng Trị, phá âm mưu "đánh chiếm thị xã Quảng Trị trước mùa mưa", để thực hiện mưu đồ chính trị và ngoại giao của Mỹ - ngụy.
81 ngày đêm, chỉ tính riêng về thời gian, cuộc hành quân "Lam Sơn 72" của địch đã kéo dài ra gấp 8 lần so với dự kiến ban đầu của chúng. Toàn bộ hai sư đoàn cơ động chiến lược ngụy bị thu hút vào Mặt trận Quảng Trị, trong đó Lữ đoàn dù 2, các tiểu đoàn lính thủy đánh bộ 3, 6, 7, 8 đã bị tổn thất nặng nề: 7.756 tên địch thiệt mạng, hàng nghìn tên bị thương; hàng trăm xe quân sự, máy bay bị tiêu diệt. Tổn thất nặng nề nhưng ngay cả những mục tiêu đề ra ban đầu cho cuộc hành quân địch không phải đã hoàn toàn thực hiện được.
Bên bờ nam sông Thạch Hãn tại nhiều địa bàn quan trọng; một loạt các trận địa của ta vẫn hiên ngang đứng vững trong bom đạn , ác liệt và đánh thắng các trận phản kích của địch. Đó là trận địa của các chiến sĩ Sư đoàn 304 ở động Ông Do - Tường Phước; của Trung đoàn 165, Sư đoàn 312 ở Phú Long, Phước Môn; của Sư đoàn 308 ở Tích Tường, Như Lệ, Tân Lệ, Đá Đứng trên cánh tây. Đó cũng là trận địa của các chiến sĩ Trung đoàn 64 Sư đoàn 320B, Trung đoàn 101 Sư đoàn 325, Trung đoàn 27 ở An Tiêm, Nại Cửu, An Lộng, Thanh Hội...trên Mặt trận cánh Đông. Riêng tại thị xã Quảng Trị, phải tới ngày 16 tháng 9, khi Thành Cổ Đinh Công Tráng chỉ còn là những đống gạch vụn thì sư đoàn lính thủy đánh bộ mới vào được thành.
81 ngày đêm đứng vững ở thị xã Quảng Trị, đương đầu với cuộc đánh phá quy mô ác liệt nhất từ trước đến nay của không quân, hải quân Mỹ, với tất cả mưu mô thủ đoạn xảo quyệt và những đơn vị thiện chiến nhất của quân ngụy Sài Gòn, quân dân Quảng Trị, tiêu biểu là lực lượng bảo vệ thị xã đã viết nên bản anh hùng ca tuyệt vời về sức mạnh của quân dân ta trong cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược.
*
* *
Đến cuối tháng 9 năm 1972 trên toàn Mặt trận Trị - Thiên địch bị tổn thất hết sức nặng nề: 26. 000 lính ngụy Sài Gòn bị loại khỏi vòng chiến đấu; 349 xe quân sự trong đó có 200 xe tăng, xe bọc thép bị phá hủy, 205 máy bay bị bắn rơi; 2 sư đoàn sừng sỏ nhất của quân đội Sài Gòn đã bị thiệt hại nặng. Mặc dù tiến được vào thị xã Quảng Trị nhưng chúng chưa chiếm được đồng bằng Triệu Phong, chưa tới được Cửa Việt, Đông Hà như kế hoạch đã định.
Bị tổn thất lớn nhưng địch vẫn rất ngoan cố, chúng quyết tâm tái chiếm bằng được tỉnh Quảng Trị. Trong những ngày cuối tháng 9 năm 1972, lợi dụng mùa mưa gây cho ta nhiều khó khăn trong tiếp tế, xây dựng công sự trận địa, địch tiếp tục tập trung cao độ hỏa lực của không quân, hải quân đánh phá các trận địa, các tuyến vận chuyển của ta, đồng thời tranh thủ củng cố lại lực lượng chuẩn bị cho các cuộc hành quân mới đánh ra vùng giải phóng.
Về phía ta, Bộ tư lệnh Mặt trận chỉ thị cho các đơn vị nhanh chóng củng cố tổ chức, tranh thủ rút kinh nghiệm chiến đấu, nhất là kinh nghiệm chiến đấu phòng ngự trong mùa mưa ở đồng bằng. Đánh giá tình hình, khả năng chiến đấu của các đơn vị, nghị quyết của Thường vụ Đảng ủy Mặt trận chỉ rõ: Trải qua 6 tháng liên tục chiến đấu vô cùng anh dũng, ta đã giành được những thắng lợi lớn. Tiêu diệt bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Giữ vững thị xã Quảng Trị trong một thời gian dài, giữ vững phần lớn vùng giải phóng, giam chân thu hút các lực lượng tinh nhuệ của quân ngụy, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường phát triển tiến công.
Về vấn đề củng cố lực lượng: Xuất phát từ cuộc chiến đấu kéo dài, các đơn vị phải liên tục chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng, trong khi lực lượng bổ sung từ hậu phương không thể đáp ứng kịp; do đó việc nuôi quân, cứu chữa thương bệnh binh nhẹ để đảm bảo quân số chiến đấu cao là mục tiêu phấn đấu của các đơn vị.
Trong điều kiện chiến đấu liên tục, dài ngày, thời tiết vào mùa mưa lũ, đường vận chuyển khó khăn, bom đạn địch đánh phá ác liệt, thì tổ chức tốt việc nuôi dưỡng bộ đội ở gần mặt trận, là một việc làm thiết thực để tăng cường sức chiến đấu cho các đơn vị.
Về tác chiến, Bộ tư lệnh Mặt trận chia Quảng Trị làm bốn khu vực: khu vực phía đông; khu vực phía tây; khu vực thị xã và vùng sau lưng địch; khu vực hậu phương trực tiếp của chiến dịch.
Mặt trận chủ trương tiếp tục đẩy mạnh tiến công địch ở ba khu vực: Phía đông, phía tây, thị xã và sau lưng địch; khẩn trương tổ chức phòng thủ vững chắc khu vực hậu phương trực tiếp của chiến dịch.
Ngày 22 tháng 9 Quân ủy Trung ương gửi điện (số 276/Đ) cho Bộ tư lệnh Mặt trận xác định nhiệm vụ cụ thể của từng khu vực:
“- Cánh tây: Phải giữ kỳ được những địa hình có lợi như Tích Tường, Như Lệ, Đá Đứng, Tường Phước, động Ông Do, động Chiên Giòng để làm bàn đạp tiếp tục tiến công và giữ vững đường vận chuyển, tiếp tục tiến công địch với quy mô và phương thức thích hợp. Thường xuyên uy hiếp cạnh sườn địch không cho chúng rảnh tay tiến công ra Ái Tử, chuẩn bị sẵn sàng để khi có thời cơ thì chuyển mạnh sang tiến công lớn tiêu diệt địch.
- Cánh đông: giữ vững và cố gắng cải thiện tuyến chiếm lĩnh hiện nay, làm chủ đường Triệu Phong - Cửa Việt, kiên quyết không cho địch chiếm Cửa Việt hoặc tạt sườn vào đông khu phòng thủ Ái Tử, tiếp tục luồn sâu vào sau lưng địch hỗ trợ cho lực lượng vũ trang địa phương hoạt động.
- Ở thị xã và sau lưng địch: Tiếp tục bao vây uy hiếp tiêu hao địch, đẩy mạnh đánh giao thông hậu cứ, sở chỉ huy, trận địa pháo, tiêu diệt một bộ phận bảo an dân vệ ngụy quyền từng bước móc nối lại cơ sở.
- Ở khu giữa: tổ chức phòng thủ vững chắc khu Ái Tử, Đông Hà, kiên quyết tiêu diệt địch ngay khi chúng bắt đầu tiến công, kiên quyết phản kích khi chúng đứng chân chưa vững. Thường xuyên chế áp thị xã, chi viện chiến đấu cho cánh đông, cánh tây...Các hướng phải hiệp đồng chặt chẽ với nhau theo một ý định thống nhất, phối hợp hỗ trợ cho nhau... ".
Tiếp đó trong điện (số 277-Đ) ngày 24 tháng 9 Bộ Tổng Tham mưu nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của khu vực Ái Tử “...Trong khu vực Ái Tử cần giữ cho được một số trọng điểm, đặc biệt là khu Nham Biều, sân bay, một số điểm cao 42, 29, 21... khu Bích Khê, Đầu Kênh, An Mỗ là khu vực hiểm yếu liên quan trực tiếp đến sân bay, chú ý khu trung tâm, coi trọng khu ven sông. Tăng cường hỏa lực phòng không cho Ái Tử, chỗ địch có thể đổ bộ trực thăng. . . chú ý hiệp đồng giữa Ái Tử với cánh đông, cánh tây, với lực lượng dự bị các binh chủng. . .".
Dựa vào phương hướng chỉ đạo đó, trên cơ sở thế trận đã hình thành qua kinh nghiệm chiến đấu phòng ngự, Bộ chỉ huy Mặt trận xác định chủ trương tác chiến là: Kiên quyết tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, lấy việc tiêu diệt địch làm chủ yếu để bảo vệ và phát triển vùng giải phóng, đồng thời tranh thủ củng cố lực lượng, chuẩn bị điều kiện để mở những trận phản công đẩy lùi địch, tiến tới đánh bại cuộc hành quân của chúng.
Bộ tư lệnh Mặt trận đả điều chỉnh kế hoạch tác chiến như sau:
- Khu phía tây bao gồm phạm vi từ bắc sông Mỹ Chánh đến nam sông Thạch Hãn, tây đường 1 do các sư đoàn 304 và 308 phụ trách. Sư đoàn 304 sử dụng Trung đoàn 9 đứng chân từ nam động Ông Do đến Động Tiên, tổ chức phòng ngự khu vực các điểm cao 74, 235, 367. Trung đoàn 66 tổ chức phòng ngự khu vực 105B, động Ông Do. Hai tiểu đoàn đặc công 15 và 19 hoạt động ở nam sông Mỹ Chánh. Trung đoàn 24 và Trung đoàn 141 làm lực lượng dự bị đứng chân ở khu vực Chùa Nga. Sư đoàn 308 sử dụng Trung đoàn 36 phòng ngự khu vực Tích Tường, Như Lệ; Trung đoàn 209 giữ Phước Môn, điểm cao 26, Tanh Lê; 2 trung đoàn 102 và 88 củng cố phía sau.
- Khu phía đông gồm hai huyện Triệu Phong và Do Linh do Sư đoàn 320B phụ trách, bố trí các trung đoàn 64 và 101 ở tuyến phòng ngự phía trước. Các đơn vị K5 hải quân, tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh phòng giữ Cửa Việt. Trung đoàn 48 củng cố và làm lực lượng dự bị của cánh đứng chân ở Cam Lộ.
- Khu giữa là khu phòng ngự chủ yếu gồm Phượng Hoàng, Ái Tử, Đông Hà, Cam Lộ do Sư đoàn 325 phụ trách. Sử dụng Trung đoàn 18 phòng ngự Nham Biều, Ái Tử; Trung đoàn 27 và Tiểu đoàn 3 địa phương phòng ngự khu vực Đông Hà, Động Côn, Quai Vạc (sau đó Trung đoàn 271 vào thay để Trung đoàn 27 ra củng cố); 2 trung đoàn (165 và 95) làm dự bị đứng chân ở khu vực Nại Cửu, Phượng Hoàng, Rào Vịnh, điểm cao 36.
Các lực lượng vũ trang địa phương Quảng Trị sử dụng tiểu đoàn 14 hoạt động ở Triệu Phong và trục đường 18, tiểu đoàn 3 bảo vệ Đông Hà, tiểu đoàn 8 hoạt động ở Tây Hải Lăng. trục đường 1 từ La Vang đến Mỹ Chánh. Tiểu đoàn 10 luân phiên từng đại đội hoạt động ở Phương Lan, Mỹ Thủy, Đa Nghi.
Các lực lượng pháo binh, cao xạ, xe tăng được giao nhiệm vụ phối thuộc và chi viện trực tiếp cho từng hướng. Về chỉ huy, Bộ tư lệnh Mặt trận quyết định tăng cường đồng chí Giáp Văn Cương (Phó tư lệnh), đồng chí Lê Tự Đồng, Phó chính ủy Mặt trận và một số cán bộ cơ quan xuống trực tiếp giúp Sư đoàn 325 tổ chức phòng thủ khu giữa, tổ chức hiệp đồng giữa các lực lượng đồng thời tăng cường chỉ huy khi địch tấn công ở từng hướng.
Ngày 22 tháng 9 địch kết thúc cuộc hành quân "Lam Sơn 72". Sau khi củng cố bổ sung quân, những ngày cuối tháng 9 chúng mở tiếp cuộc hành quân "Lam Sơn 72 A”, đánh ra các bàn đạp ở phía đông và phía tây. Do tổ chức phòng ngự chặt chẽ và có cách đánh thích hợp nên ta đã đánh tan các đợt tấn công hòng mở rộng chiếm các bàn đạp ở phía tây và phía đông của địch. . .
Đầu tháng 10 năm 1972, Bộ tư lệnh Mặt trận mở hội nghị cán bộ tiếp tục quán triệt về phương hướng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động, kinh nghiệm chiến đấu phòng ngự nhằm tăng cường sự nhất trí trên dưới, động viên các lực lượng quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ phòng ngự Quảng Trị mà Quân ủy Trung ương giao cho. Tháng 10 là tháng mưa lũ lớn ở Quảng Trị. Mưa, lũ cuốn phăng đi những đường cáp điện thoại qua sông, mưa làm ngập các đường vận chuyển trên bộ. Trên các cánh đồng nước sâu đến ngực, bom pháo địch đánh phá liên tục, các chiến sĩ thông tin, vận tải, phải lăn lộn ngày đêm mới đảm bảo được dây, máy, lương thực, đạn dược cho các trận đánh.
Vận tải tiếp tế. đảm bảo thông tin liên lạc đã rất khó khăn nhưng xây dựng hầm hào, công sự, trận địa chiến đấu trong những ngày này còn khó khăn gấp bội, đặc biệt là các trận địa ở đồng bằng Triệu Phong và các bãi cát ven biển. Mưa lớn, nước tràn đến đâu hào sạt đến đó, nhiều đường hào bị cát sạt lấp chỉ còn ngang bụng chân. Quần áo, lương thực, đạn dược bộ đội ta đều phải cho vào túi ni lông mới tránh được nước. Ở các trận địa chốt, nắng cũng như mưa cán bộ chiến sĩ mặc trần một chiếc quần đùi, một áo cộc. Cuộc chiến đấu vật lộn với mưa lũ với bom đạn đã ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của nhiều cán bộ, chiến sĩ. Bệnh đi lỏng, ghẻ lở, hắc lào phát triển làm quân số chiến đấu của nhiều đơn vị giảm sút. Đại đội chỉ còn 30 đến 40 tay súng, tiểu đoàn nhiều lắm cũng chỉ trên dưới trăm người. Cán bộ chỉ huy các cấp không ít băn khoăn lo lắng cho nhiệm vụ chiến đấu trong những ngày sắp tới của đơn vị mình. Từ Thường vụ Đảng ủy Mặt trận đến các chi bộ, tổ đảng chỉ bàn lãnh đạo xoay quanh một vấn đề: xây dựng công sự trận địa, đảm bảo tiếp tế thế nào để bộ đội trụ vững và đánh thắng trong mùa mưa.
Trong lúc ta đang gặp muôn vàn khó khăn do mưa lũ gây ra thì địch tập trung bom pháo hủy diệt và cho bộ binh liên tục tấn công quyết chiếm bằng được các bàn đạp quan trọng của ta.
Ở phía tây sau các đợt hỏa lực đánh phá ác liệt sư đoàn dù triển khai lực lượng đánh vào Tích Tường, Như Lệ, Phước Môn, Tân Téo. Ta dựa vào trận địa phòng ngự chiến đấu giành giật với địch, đánh thiệt hại nặng 2 Lữ đoàn dù (1 và 2) và tiểu đoàn biệt động quân 85 nhưng địch chiếm được Tích Tường 2. Ở phía động Ông Do, ta đánh lui các đợt tiến công của tiểu đoàn dù 6. Trên khu vực các điểm cao 235, 367 địch tập trung phi pháo rất cao để tiến công. Do trận địa của ta ở đây chưa được chuẩn bị tốt, tổ chức phòng thủ còn sơ hở, địch lần lượt chiếm được các điểm cao 74, 235, 108, 101, 118, 124 uy hiếp nghiêm trọng khu vực điểm cao 367, động Chiên Giòng và động Ông Do.
Trước tình hình đó, ngày 20 tháng 10 Bộ tư lệnh Mặt trận lệnh cho Sư đoàn 304 đưa Trung đoàn 24 là lực lượng dự bị vào cùng với lực lượng phòng ngự tiến hành phản kích. Trung đoàn 66 chiếm lại các điểm cao 124, 128. Địch tiếp tục đánh phá và tổ chức tiến công vào các điểm cao 367, động Ông Do, ta tăng cường thêm tiểu đoàn 2 độc lập cho hướng phòng ngự này. Sau 10 ngày chiến đấu ác liệt, đến ngày 3 tháng 11 địch chiếm được một phần điểm cao 367.
Ở hướng đông từ ngày 7 tháng 10 địch liên tục đánh vào Bích La, An Lộng, Chợ Sải, Nại Cửu, Long Quang. Ta kiên quyết ngăn chặn giữ vững trận địa đồng thời sử dụng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích dùng nhiều thủ đoạn đánh địch rộng khắp buộc địch phải co về đối phó. Đêm ngày 18 tháng 10 trung đội 2 đại đội 7 tiểu đoàn 8 Trung đoàn 64 do trung đội trưởng Vũ Thanh Bình chỉ huy tập kích tiêu diệt gọn 2 trung đội địch, phá tan đài quan sát của chúng ở điểm cao 11. Đêm ngày 19 tháng 10 ta pháo kích vào Linh Chiểu diệt gọn cả pháo đội địch và 7 khẩu 105 ly, 2 xe tăng, 1 kho đạn. Đêm ngày 2 tháng 11, công binh ta đột nhập vào Ngô Xá Đông đặt mìn phá 7 khẩu pháo và nhiều đạn dược. Bộ đội đặc công phá hủy hàng loạt cầu trên đường quốc lộ 1, đường 68A như cầu sắt Quảng Trị, cầu Chợ Cống, cầu Vân Trình. Bộ đội địa phương, dân quân du kích hoạt động mạnh ở vùng sau lưng địch như Ba Bến, Tam Hữu, Diên Khánh, diệt nhiều xe, pháo và sinh lực địch.
Các hoạt động trên của ta ở hướng này làm cho địch bị động đối phó nhiều nơi không lấn ra được. Bộ đội ta vừa chiến đấu vừa tranh thủ mọi thời gian củng cố cống sự trận địa nên thế trận phòng ngự của ta ở hướng này ngày càng vững vàng hơn.
Cũng trong thời gian này, hưởng ứng đợt phát động "tìm kiếm nguyên vật liệu giúp cho các đơn vị tuyến trước xây dựng công sự trận địa", nhân dân vùng giải phóng và các đơn vị tuyến sau đã cử người vào các căn cứ cũ của địch tìm kiếm vật liệu gửi giúp các đơn vị phía trước. Hàng vạn bao cát được lấy từ các công sự địch ở Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quán Ngang tới tấp chuyển đến các trận địa chốt. Hàng nghìn tấm tôn lá của đồng bào Quảng Trị từ các nơi sơ tán gửi đến cho bộ đội. Các loại thùng phuy, thùng sắt từ các đơn vị xe trên tuyến đường Trường Sơn, từ nông trường Quyết Thắng (Vĩnh Linh) được chở bằng mọi phương tiện chuyển tới các trận địa. Khẩu hiệu hành động "Tất cả vì chiến sĩ trên trận địa chốt" thôi thúc mọi người đồng tâm hiệp lực vượt mọi gian khổ ác liệt chiến thắng mưa lũ, bom đạn chi viện kịp thời cho tuyến trước. Các đồng chí trong Bộ tư lệnh Mặt trận thay nhau xuống các đơn vị kiểm tra đôn đốc, mọi yêu cầu đảm bảo cho các trận địa chốt "trụ vững và đánh thắng” được giải quyết với tinh thần khẩn trương nhất, tập trung nhất. Có đêm hàng tiểu đoàn được huy động để chuyển bao cát, tôn, gỗ, thùng phuy lên chốt. Trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng là người trực tiếp chỉ huy xây dựng các công sự trận địa. Bộ đội thức thâu đêm đào hào, dựng hầm, ai cũng hiểu rằng công sự, trận địa lúc này là tất cả. Mỗi bao cát đoạn hào, căn hầm bây giờ là chỉ tiêu phấn đấu của cán bộ, chiến sĩ.
Nhờ sự nỗ lực vượt bậc đó, trong tháng 10 ta đã cơ bản giải quyết được yêu cầu công sự, hầm hố trú ẩn trong mùa mưa, tạo điều kiện để cán bộ, chiến sĩ trên các trận địa chốt có thể thay nhau trực chiến và đối phó được những trận đánh phá ác liệt của kẻ thù.
Cùng với việc đánh ra hướng đông, hướng tây, đêm ngày 1 tháng 11 địch mở cuộc hành quân "Sóng thần 9" cho quân vượt sông Thạch Hãn đánh sang Nham Biều, Ái Tử. Dự đoán đúng các âm mưu của địch, kế hoạch tác chiến của ta ở khu vực giữa đã được chuẩn bị sẵn sàng. Ngay khi tiểu đoàn lính thủy đánh bộ 6 (bộ phận đi đầu của lữ đoàn 369 trong cuộc hành quân) mới sang sông đã bị tiểu đoàn 8 Trung đoàn 18 chặn đánh và tiêu diệt gọn. Pháo binh Mặt trận vừa chi viện cho tiểu đoàn 8 vừa bắn cấp tập vào đội hình phía sau của địch ở phía Thành Cổ. Lữ đoàn lính thủy đánh bộ 369 bị thiệt hại nặng phải bỏ cuộc tiến công. Cuộc hành quân "Sóng thần 9" của địch bị thất bại nhanh chóng.
Tháng 11 mưa nhiều (14 trên 30 ngày), bão lụt liên tiếp ảnh hưởng lớn đến mọi mặt hoạt động của ta, đặc biệt là ở hướng đông. Lợi dụng khó khăn của ta, ngày 11 tháng 11 sư đoàn lính thủy đánh bộ triển khai cuộc hành quân "Sóng thần 36" đánh chiếm các bàn đạp phía đông. Trong hai ngày 15 và 16, mỗi ngày địch sử dụng 50 lần máy bay cường kích, 6 tốp B52 và bắn hàng vạn quả pháo vào khu vực từ Long Quang đến Thanh Hội. Ngày 17 tháng 11 địch sử dụng hai mũi tiến công vào Long Quang, Thanh Hội để mở đường ra Cửa Việt. Bộ đội của ta trên các tuyến chốt dựa vào công sự trận địa kiên cường chiến đấu đẩy lùi các đợt tiến công của địch, các tiểu đoàn lính thủy đánh bộ 1, 2, 8 bị mất sức chiến đấu phải lui về phía sau củng cố. Suốt 18 ngày địch phải thay quân, bổ sung xe tăng, xe thiết giáp nhiều lần để tiến công nhưng không vượt qua được tuyến phòng ngự của ta. Ngày 4 tháng 12, nhận thấy sức tiến công của địch đã yếu, Bộ tư lệnh Mặt trận quyết định điều Trung đoàn 48 (thiếu) và tiểu đoàn 3 địa phương vượt sông cùng lực lượng phòng ngự phản kích trên toàn tuyến đuổi địch về Bình An, Gia Đẳng, Ba Lang. Cuộc hành quân "Sóng thần 86" của địch bị ta đánh bại hoàn toàn. Riêng ở hướng đông, trong 18 ngày đêm chiến đấu (từ 17 tháng 11 đến 5 tháng 12) ta đã diệt 3.290 tên địch, phá hủy 49 xe tăng, xe bọc thép, bắn rơi 16 máy bay địch.
Trước yêu cầu chính trị, ngoại giao thúc bách, ngày 16 tháng 12 năm 1972 địch mở tiếp cuộc hành quân "Sóng thần 45" sử dụng 4 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ vào Bình An, Thanh Hội để mở đường đánh ra Cửa Việt. Dựa vào thế trận phòng ngự, các đơn vị, Sư đoàn 320B đánh thiệt hại nặng cả 2 cánh quân của địch. Nhân lợi thế truy kích địch rút chạy, ta tiến công tiêu diệt quân địch ở Hữu Niêm, Bích La Trung, Linh An. Bộ đội địa phương, dân quân du kích đẩy mạnh hoạt động phía sau, đánh phá kho tàng, cắt giao thông, làm cho địch lúng túng bị động đối phó khắp nơi. Bị nhiều tổn thất, không còn đủ sức tiếp tục tấn công, ngày 25 tháng 12 địch phải lui quân, kết thúc cuộc hành quân "Sóng thần 45". Từ ngày 17 đến ngày 20 tháng 01 năm 1973 địch mở tiếp cuộc hành quân "Sóng thần 18” đánh vào Thanh Hội, tranh thủ chiếm đất trước khi có lệnh ngừng bắn. Ta điều một bộ phận Trung đoàn 101 sang cùng Trung đoàn 64 đánh địch. Chỉ sau 3 ngày cuộc hành quân của địch bị đập tan.
Ở hướng tây, ngày 9 tháng 11, sư đoàn dù sử dụng lữ đoàn 2 tấn công động Ông Do. Cuộc chiến đấu ở đây diễn ra rất ác liệt, ta và địch giành đi giật lại từng mỏm đồi. Ngày 14 tháng 11 địch chiếm được mỏm A1. Trên cơ sở thế phòng ngự ở khu giữa đã ổn định, đầu tháng 12 Bộ tư lệnh Mặt trận điều Bộ tư lệnh Sư đoàn 312 vào thay Bộ tư lệnh Sư đoàn 308 và điều Trung đoàn 165 từ khu giữa sang tăng cường cho Sư đoàn 304. Ngày 17-12 Sư đoàn 304 (có thêm Trung đoàn 165 thiếu) tiến hành phản kích lấy lại mỏm A1 nhưng ta không giữ được trận địa lâu vì phi pháo địch đánh phá rất ác liệt. Ngày 12-12, địch chiếm được toàn bộ động Ông Do và tiếp tục đánh ra Khe Trai, Đá Đứng, Phương Thủy, sau đó chúng tiếp tục đánh chiếm các điểm cao 105B, 132, 264.
Nhận thấy ở hướng tây sức chiến đấu của ta giảm sút trong khi đó ở hướng đông ta đang có thuận lợi, Bộ tư lệnh Mặt trận quyết định mở một đợt phản kích để cải thiện tình hình ở hướng tây. Ngày 23 tháng 1 năm 1973 Trung đoàn 95 ở khu giữa được lệnh vượt sông cùng Trung đoàn 209 đánh địch ở Tích Tường, Như Lệ chiếm lại các điểm cao 52, 29, 15 giữ vững tuyến ven sông Thạch Hãn cho đến ngày có lệnh ngừng bắn.
Ròng rã hơn 4 tháng trời (từ ngày 17 tháng 9 năm 1972 đến ngày 25 tháng 1 năm 1973) liên tục quần nhau với địch trong điều kiện mưa lũ và bom đạn vô cùng ác liệt, quân dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã đánh bại mọi âm mưu tấn công lấn chiếm vùng giải phóng của địch, cao điểm là cuộc hành quân “Sóng thần” 9-36-45-18 giữ vững vùng giải phóng Quảng Trị trong đó có các mực tiêu quan trọng như Nham Biều, Ái Tử, Đông Hà, Cửa Tùng, Cửa Việt kìm giữ giam chân hai sư đoàn cơ động chiến lược của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho các mặt trận khác đánh địch. Trong đợt chiến đấu gay go quyết liệt này, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 27.500 tên địch, diệt gọn 12 đại đội, đánh thiệt hại nặng l5 tiểu đoàn, 2 chi đoàn thiết giáp, bắn rơi 164 máy bay, phá hủy, phá hỏng 345 xe quân sự (có 221 xe tăng, xe bọc thép M113), 363 khẩu pháo, 38 kho đạn, xăng, đánh chìm, đánh hỏng 8 tàu, 13 xuồng, thu nhiều súng đạn, phương tiện chiến tranh của địch.
Qua đợt chiến đấu dài ngày cực kỳ gian khổ và ác liệt này, các đơn vị Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã được rèn luyện thử thách, có bước trưởng thành về mọi mặt, tạo ra khả năng và sức mạnh chiến đấu mới để đánh thắng kẻ thù khi chúng liều lĩnh mở cuộc hành quân quy mô lớn ra Cửa Việt.
10-Vào những ngày cuối tháng 1 năm 1973, lúc Hiệp định Pa-ri sắp có hiệu lực ở Quảng Trị, địch dồn lực lượng lớn liều lĩnh mở cuộc hành quân "Tăng-gô Xi-ty” đánh chiếm cảng Cửa Việt - một đầu mối giao thông đường thủy quan trọng thuộc địa phận 2 xã Triệu Vân và Triệu Trạch thuộc huyện Triệu Phong nằm sâu trong vùng giải phóng của ta. Đánh chiếm cảng Cửa Việt địch muốn thực hiện ý đồ cắt đứt sự chi viện to lớn bằng đường biển từ hậu phương ra tiền tuyến của ta, trực tiếp là chi viện cho chiến trường Trị Thiên; đồng thời bịt cửa khẩu của Chính phủ cộng hòa miền Nam Việt Nam giao lưu với quốc tế bằng đường biển. Với địch, nếu chiếm được cảng Cửa Việt, chúng sẽ thiết lập được một đầu cầu quan trọng để đưa binh lính, súng đạn ra đánh chiếm vùng giải phóng, thực hiện âm mưu phá hoại Hiệp định Pa-ri về sau này.
Khác với các cuộc hành quân "Sóng thần" trước đây cuộc hành quân "Tăng-gô Xi-ty” do cố vấn Mỹ trực tiếp vạch kế hoạch, tướng A.BRam và tướng Héc chủ trì, tư lệnh quân đoàn 1 Ngô Quang Trưởng trực tiếp tổ chức thực hiện. Lực lượng cuộc hành quân gồm: Lữ đoàn đặc nhiệm mới được tổ chức (có 3 tiểu đoàn), lữ đoàn 147 (2 tiểu đoàn), lữ đoàn 258 (2 tiểu đoàn), 2 tiểu đoàn bảo an, 3 thiết đoàn (17, 18, 20), 4 tiểu đoàn pháo (70 khẩu), 4 tàu LCU, không quân; hải quân Mỹ (trong đó có 5 tàu khu trục của hạm đội 7 tham gia) chi viện hỏa lực. Toàn bộ cuộc hành quân do sư đoàn lính thủy đánh bộ chỉ huy, sở chỉ huy nhẹ của địch đặt ở Đa Nghi. Bằng một cuộc hành quân lớn, đánh vào sát thời điểm ngừng bắn theo Hiệp định Pa-ri, Mỹ -ngụy hy vọng tạo được yếu tố bất ngờ để nhanh chóng chiếm cảng Cửa Việt, điều mà trước đó với 3 cuộc hành quân "Sóng thần" chúng chưa làm nổi.
Ngày 25 tháng 1 năm 1973 địch bắt đầu triển khai lực lượng thực hiện cuộc hành quân "Tăng-gô-xi-ty”. Sau khi sử dụng 70 lần chiếc B52 và bắn trên 60.000 quả đạn pháo các cỡ vào khu vực Vĩnh Hòa, Long Quang, Thanh Hội, Cửa Việt. . . địch bắt đầu nổ súng dồn dập đánh vào các bàn đạp trên toàn tuyến phòng ngự của ta ở cánh đông. Đội hình tiến công của địch chia làm 3 hướng:
- Lữ đoàn đặc nhiệm (gồm 3 tiểu đoàn 2, 4, 9) và chi đoàn thiết giáp đột kích hướng chủ yếu ven biển vào Thanh Hội.
- Lữ đoàn 147 (có 2 tiểu đoàn 5, và 2 chi đoàn thiết giáp đánh vào Long Quang.
- Lữ đoàn 258 (có 2 tiểu đoàn 3 và 6) đánh vào Nại Cửu, Chợ Sải.
Đêm ngày 25 tháng 1, lữ đoàn đặc nhiệm dùng 1 tiểu đoàn bí mật đánh vào Thanh Hội. Lữ đoàn 258 sử dụng tiểu đoàn 3 đánh Nại Cửu, Chợ Sải. Sáng ngày 26 tháng 1 lữ đoàn 147 đánh vào Long Quang. Cả 3 hướng quân địch đều bị quân ta đánh trả quyết liệt, bị thiệt hại phải dừng lại củng cố. Trong đêm ngày 26 tháng 1 các trung đoàn 64, 101 đã khẩn trương bổ sung kế hoạch phòng thủ khu vực cảng Cửa Việt, ta hình thành 3 tuyến phòng ngự liên hoàn từ Xam Tuân đến Hà Tây sẵn sàng đánh trả các đợt tiến công mới của địch.
Ngày 27 tháng 1 địch tập trung bom pháo đánh phá ác liệt các tuyến chốt của ta. Lữ đoàn đặc nhiệm được gần 100 xe tăng, xe bọc thép chi viện mở liên tiếp 4 lần tấn công vào Thanh Hội, lực lượng chốt giữ của ta chiến đấu kiên cường chặn địch, đến chiều địch mới chiếm được Thanh Hội và một phần làng Vĩnh Hoà, ta tiếp tục tổ chức lực lượng phản kích để giành lại. Trong khi đó lữ đoàn 147 được khoảng 40 xe tăng chi viện đánh vào Long Quang, An Trạch, địch chiếm được một phần trận địa của ta nhưng ngay đêm đó Trung đoàn 48 phản kích chiếm lại được trận địa.
Mặc dù bị thiệt hại nặng nhưng do yêu cầu phải chiếm Cửa Việt trước giờ ngừng bắn (8 giờ ngày 28 tháng 1) địch vẫn điều thêm quân, tăng thêm xe pháo cho sư đoàn lính thủy đánh bộ tiếp tục tấn công. Chúng thay đổi cách đánh, không đột phá chính diện mà lợi dụng ban đêm luồn qua khe hở giữa các trận địa phòng ngự của ta tiến ra Cửa Việt.
23 giờ 30 ngày 27 tháng 1, lợi dụng lúc gió to, sóng lớn, nước thủy triều xuống, Lữ đoàn đặc nhiệm bí mật tiến theo mép nước ra Cửa Việt. Ta mất cảnh giác nên cuộc tiến công của địch thuận lợi. Đến 1 giờ 30 ngày 28 tháng 1 ta mới phát hiện được quân địch. Bộ binh Trung đoàn 101 và 5 xe tăng, xe bọc thép đánh vào đội hình địch ở đông Hà Tây, Vĩnh Hòa, diệt được 8 xe, cắt đội hình địch làm hai nhưng một bộ phận địch vẫn tiến về cảng đánh vào các chốt của ta ở Hà Tây, Cửa Việt, điểm cao 12. Đến 7 giờ ngày 28 tháng 1 địch hình thành 3 cụm quân:
- Cụm 1 có 1 đại đội và 20 xe tăng, xe M113 ở cách Cảng Mỹ (về phía nam) khoảng 700 m.
- Cụm 2 khoảng 1 đại đội và 10 xe tăng ở đông thôn Hà Tây cách cảng Cửa Việt khoảng 1.500m.
- Cụm 3 có hai trung đội và 8 xe tăng cách điểm cao 4 khoảng 200 m về phía đông bắc.
Sau khi hiệp định ngừng bắn có hiệu lực, địch lấn tiếp ra nam điểm cao 4 (cách khoảng 600 m) một cụm quân nữa, cụm quân này có hai trung đội và 12 xe tăng, xe M113. Lực lượng địch ở phía sau tiếp tục tăng cường lên, thực hiện âm mưu cắm cờ lấn đất. Trước hành động đó của địch, Bộ tư lệnh Mặt trận lệnh cho Bộ tư lệnh Cánh Đông kịp thời uốn nắn những nhận thức lệch lạc của cán bộ chiến sĩ, nhanh chóng đưa bộ đội trở lại tư thế chiến đấu, đồng thời khẩn trương điều động lực lượng dự bị tăng cường cho các trận địa đánh chiếm lại các vị trí đã bị địch lấn chiếm. Các tiểu đoàn 1 (trung đoàn 48), 7 (Trung đoàn 271), 38 (bộ đội địa phương), 8 (Trung đoàn 64), 1 (Trung đoàn 27) từ bắc Cửa Việt và Chợ Sải được lệnh vượt sông vào vị trí chiến đấu. 1 giờ ngày 29 tiểu đoàn 38 đánh cụm 1 và cụm 2 diệt 50 tên và 5 xe. Một đại đội của tiểu đoàn 8 (trung đoàn 64) đánh địch ở điểm cao 4 và chốt lại đó. Địch thu lại còn 3 cụm, sau đó chúng tăng viện và tổ chức thêm 1 cụm mới tại bắc Vĩnh Hòa gồm 1 đại đội và 4 xe tăng.
Để tăng cường lực lượng cho Cánh Đông tiêu diệt địch, Bộ tư lệnh Mặt trận điều Trung đoàn 24 Sư đoàn 304 và đại đội xe tăng T54 từ Miếu Bái Sơn sang tăng cường cho các trận địa chốt ở Thanh Hội, Cửa Việt, lệnh cho Trung đoàn 66 cơ động xuống Vinh Quang làm lực lượng dự bị cho hướng đông đồng thời cử các đồng chí Cao Văn Khánh, Phó tư lệnh Mặt trận, Hoàng Minh Thi, Phó chính ủy và đồng chí Doãn Tuế, Tư lệnh pháo binh của Mặt trận xuống trực tiếp cùng Bộ tư lệnh Cánh Đông tổ chức lực lượng chiến đấu.
Sau khi di chuyển sở chỉ huy từ Hà Thượng (Do Linh) vào Thanh Xuân để trực tiếp chỉ huy bộ đội chiến đấu, ngày 30 tháng 1 Bộ tư lệnh Cánh Đông tổ chức đội hình đánh trận phản đột kích Cửa Việt như sau:
- Bộ phận chặn đầu gồm 2 đại đội của 2 trung đoàn 101 và 48, bộ phận K5 Hải quân, công binh Sư đoàn 320B có nhiệm vụ giữ cảng, Phó Hội, Hà Tây, kiên quyết ngăn chặn địch trước các chốt, không cho địch phát triển lên Cửa Việt.
- Bộ phận khóa đuôi gồm có Trung đoàn 64 (thiếu), tiểu đoàn 6, Trung đoàn 24, tiểu đoàn 2, Trung đoàn 101 chốt tại Vĩnh Hòa đánh địch tăng viện từ Thanh Hội lên và chặn bọn địch rút chạy từ Cửa Việt xuống.
- Bộ phận chủ lực, gồm Trung đoàn 101 (thiếu), Trung đoàn 24 (thiếu), tiểu đoàn 38 (thiếu) và tiểu đoàn 7 Trung đoàn 271 có nhiệm vụ tiêu diệt địch từ Xóm Mộ lên đến cảng.
12 giờ ngày 30 tháng 11 ta nổ súng tấn công địch. Trận đánh này kết quả thấp do ta nổ súng không đồng loạt. Kịp thời rút kinh nghiệm, ngày 31 tháng 01 ta tập trung 5 tiểu đoàn của bộ phận chủ lực có một số xe tăng, xe bọc thép đồng loạt tiến công vào các cụm quân địch ở phía nam cảng. Các trận địa pháo chiến dịch, các trận địa pháo chống tăng ở bờ bắc bao gồm ĐKZ75ly pháo 85 ly, B72 các đội hỏa khí chống tăng đi cùng bắn mãnh liệt vào cụm quân địch diệt nhiều bộ binh và xe tăng. Do nổ súng tiến công đồng loạt vào cả 5 cụm quân địch nên chúng không thể hỗ trợ được cho nhau, đội hình nhanh chóng rối loạn. Đến 8 giờ 30 ngày 31 tháng 1 ta diệt xong cả ba cụm quân địch ở phía nam cảng, các cụm quân địch còn lại chống cự yếu ớt rồi tháo chạy. 10 giờ 30 ngày 31 tháng 1, từ cảng Cửa Việt đến Vĩnh Hòa không còn bóng giặc, tuyến chốt từ Thanh Hội đến Long Quang, Chợ Sải được khôi phục. Cuộc hành quân "Tăng-gô xi-ty" của địch bị đánh bại hoàn toàn.
12 giờ 30 ngày 31 tháng 1 năm 1973 Bộ tư lệnh Mặt trận ra lệnh ngừng tiến công, chuyển vào thế bố trí mới để tiến hành cuộc đấu tranh chống địch lấn chiếm giữ vững vững giải phóng. Trong đợt chiến đấu từ ngày 26 đến ngày 31 tháng 1 năm 1973 ta đã tiêu diệt 2.330 tên địch, bắt gần 200 tên, phá hỏng 113 xe tăng, xe bọc thép, thu 13 chiếc, bắn rơi 5 máy bay, phá hủy 10 khẩu pháo, bắn cháy 1 tàu, thu nhiều súng đạn, quân trang quân dụng của địch.
Với chiến thắng Cửa Việt, quân và dân ta đã đập tan âm mưu tráo trở, lật lọng của Mỹ - ngụy đối với Hiệp định Pa-ri vừa ký kết. Sau đòn trừng trị đích đáng này, Mỹ - ngụy không dám mở những cuộc hành quân lớn ra vùng giải phóng Quảng Trị trong suốt thời gian thi hành hiệp định.
Sau chiến thắng Cửa Việt, Thường vụ Quân ủy Trung ương đã gửi thư biểu dương và chúc mừng năm mới tới toàn thể cán bộ, chiến sĩ đã tham gia chiến đấu. Bức thư có đoạn viết: "Cán bộ, chiến sĩ Cánh Đông đã cảnh giác cao, chiến đấu giỏi, làm tốt công tác binh vận giành thắng lợi lớn, tiêu diệt, bắt sống và gọi hàng được nhiều địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân lấn chiếm trái phép của địch, giữ vững vùng giải phóng. Đây là một thắng lợi lớn rất quan trọng trong những ngày đầu thi hành hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. . .".
Sau chiến dịch Quảng Trị năm 1972, Thường vụ quân ủy Trung ương ra nghị quyết về thống nhất tổ chức chỉ đạo, chỉ huy Mặt trận B5 và B4, Nội dung nghị quyết có những vấn đề chủ yếu như sau:
- Trên cơ sở những thắng lợi to lớn mà chiến trường Trị - Thiên đã giành được trong đợt tiến công vừa qua và nhiệm vụ tác chiến hiện nay, cũng như sắp tới của Mặt trận Trị - Thiên là giữ vững vùng giải phóng, củng cố xây dựng phát triển lực lượng, tiếp tục tiến công địch làm cho chiến trường Trị - Thiên vững mạnh trong mọi tình huống.
- Căn cứ vào đặc điểm vị trí chiến trường Trị -Thiên: địch thành một địa bàn hoạt động thống nhất. Ta thì Quảng Trị và Thừa Thiên quan hệ mật thiết với nhau lại tiếp giáp với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, là chiến trường có điều kiện tiếp tục tổ chức trận địa tiến công binh chủng hợp thành quy mô lớn nên cần có tổ chức thống nhất để tạo sức mạnh. Thường vụ quân ủy Trung ương đã quyết định thống nhất Mặt trận B5 và B4 thành một quân khu.
Chỉ trong một thời gian ngắn, Quân khu Trị Thiên - Huế ra đời, tiếp tục đảm đương sứ mạng lịch sử trong giai đoạn mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.
--------------------------------------------------------------------------------
KẾT LUẬN
Do chiến lược "chiến tranh đặc biệt" thất bại, từ giữa năm 1965 Mỹ đưa ồ ạt quân viễn chinh vào miền Nam thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ", mở cuộc phản công chiến lược "tìm diệt" bộ đội chủ lực và lực lượng vũ trang nhân dân ta trong mùa khô lần thứ nhất (1965 - 1966). Tháng 6 năm 1966, Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương với tầm nhìn chiến lược xa rộng, cùng với việc ra chỉ thị tăng cường củng cố, xây dựng Mặt trận miền Đông Nam Bộ (B2), Mặt trận Tây Nguyên (B3)... đã quyết định thành lập Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị (B5) - một hướng tiến công chiến lược quan trọng, nhằm tạo ra một mặt trận mới phân tán lực lượng địch, đẩy quân Mỹ lún thêm vào thế bị động, tạo điều kiện để chủ lực ta ở miền bắc trực tiếp đánh quân Mỹ.
Trải qua tám năm (6.1966 - 1.1973) xây dựng, chiến đấu trên chiến trường Quảng Trị - một trong những nơi đọ sức quyết liệt nhất giữa ta và địch, quân và dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị không chỉ gánh vác trọng trách sứ mệnh lịch sử, thu hút và tiêu hao, tiêu diệt một lực lượng lớn sinh lực Mỹ ở miền Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường Trung Bộ, Nam Bộ hoạt động, mà còn đánh bại chiến lược ngăn chặn và chia cắt của địch, trực tiếp tăng thêm sức mạnh chiến đấu, chất lượng tiến công cho chiến trường miền Nam. Có thể nói, suốt dải đất từ bắc sông Bến Hải đến nam sông Thạch Hãn, từ Cửa Tùng, Cửa Việt (biển Đông) đến Khe Sanh, Lao Bảo (biên giới Việt - Lào) không nơi nào giặc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai bán nước không thực hiện đánh phá hủy diệt, không chỉ hủy diệt một lần mà tới hai ba lần, có nhiều nơi đã trở thành bình địa. Đồng thời, chúng còn xây dựng ở đây "hàng rào điện tử chống xâm nhập", thực chất là những bãi mìn khổng lồ nhằm ngăn chặn triệt để sự chi viện của miền Bắc vào miền Nam với ảo vọng không một sinh linh nào có thể vượt qua nổi. Nhưng như mọi mặt trận của miền Nam bất khuất kiên trung, quân và dân Mặt trận Đường 9 -Bắc Quảng Trị từ trong khói lửa đạn bom đã tôi luyện bản lĩnh chiến đấu của mình, bám trụ chiến đấu ngoan cường hàng nghìn ngày đêm, tạo nên những trang sử vàng chói lọi.
Trong những năm 1966 - 1967, khi thời điểm "chiến tranh cục bộ" ở chiến trường miền Nam đi vào giai đoạn quyết liệt nhất, Mỹ - ngụy huy động hàng chục nghìn tên cùng hàng trăm nghìn tấn phương tiện chiến tranh hiện đại ra chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị thực hiện âm mưu "tìm diệt" và "bình định" đánh phá triệt để phong trào cách mạng ở nơi đây, nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc vào miền Nam. Chính trong những ngày tháng khó khăn gian khổ ấy, Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị vừa ra đời đã gánh vác trọng trách tạo thế, tạo lực giữ vững chiến trường, chủ động tiến công thu hút, giam chân hàng vạn tên lính viễn chinh Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên, giáng cho chúng những đòn chí mạng. Những thắng lợi đầu tiên của quân và dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị ở khu vực Cam Lộ, Do Linh, phá tan các cuộc hành quân Hát - xtinh (cuối năm 1966), Đếch - hao, Bi - khôn - hin (đầu năm 1967) ra nam lưu vực sông Bến Hải (đông đường 9); và những chiến công Do An, đánh chiếm quận lỵ Hướng Hóa, giải phóng cứ điểm Làng Vây, tiến công vây hãm hàng nghìn lính thủy đánh bộ Mỹ ở Tà Cơn (tây đường 9, tháng 12 năm 1967) góp phần cùng quân dân toàn Miền đánh bại một bước quan trọng chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ.
Đường 9 - Khe Sanh là một Mặt trận nóng bỏng nhất đối với quân Mỹ và sự quan tâm đặc biệt của Tổng thống Mỹ. Tết Mậu Thân năm 1968, trên chiến trường miền Nam nói chung và trên chiến trường Đường 9 -Bắc Quảng Trị nói riêng, Bộ tư lệnh quân viễn chinh Mỹ đều bị bất ngờ, lúng túng bị động đối phó. Cuối tháng 1 năm 1968, trong khi Mỹ - ngụy đang bị "hút” vào chiến dịch tiến công Đường 9 - Khe Sanh, hàng nghìn quân tinh nhuệ đang bị vây hãm ở Tà Cơn, Làng Vây Hướng Hóa, đang căng ra "be bờ" cho đường 9, thì bất ngờ quân và dân toàn Miền thực hành "Tổng tiến công và nổi dậy" ở hàng chục thành phố, thị xã cơ quan đầu não của Mỹ - ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục nghìn tên, gây nên những chấn động dữ dội giữa lòng nước Mỹ, khiến cho đông đảo các tầng lớp xã hội Mỹ càng phản đối chiến tranh. Giới diều hâu Mỹ cũng phải xem xét lại cuộc chiến, kể cả các quan chức cấp cao, các nghị sĩ, các nhà tài thiệt đầy thế lực Mỹ, phải thay đổi quan điểm đối với cuộc chiến tranh, đa số không còn hậu thuẫn cho chính sách chiến tranh của chính quyền Giôn-xơn nữa.
Vào những năm 1969 - 1971, trên chiến trường miền Nam nói chung và chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị nói riêng, mặc dù Mỹ - ngụy bắt đầu thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh”, rút dần quân Mỹ về nước nhưng trên thực tế chiến trường đường 9 lại diễn ra một cuộc đọ sức quyết định cho chiến lược mới - chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh” của Ních-xơn. Trong những năm 1969, 1970, Mỹ - ngụy mở hàng chục cuộc hành quân nhỏ và vừa ra các vùng giáp biên, giáp vĩ tuyến 17 với ý đồ "triệt phá từ gốc các chân hàng của quân Bắc Việt ở vùng cán xoong". Đặc biệt, đầu tháng 2 năm 1971 Mỹ - ngụy đã tập trung hàng vạn quân (Chú thích: 4 sư đoàn (3 sư đoàn nguỵ: sư đoàn dù, sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, sư đoàn 1, sư đoàn không kỵ 101 Mỹ), 2 liên đoàn biệt động, 2 thiết đoàn, 1 tiểu đoàn pháo binh.), hàng trăm xe tăng, thiết giáp, hàng trăm khẩu pháo, 500 máy bay trực thăng, 1.500 máy bay chiến đấu mở cuộc hành quân "Lam Sơn - 719" ra Đường 9 - Nam Lào, nhằm thực hiện chia cắt chiến trường Đông Dương, cắt đứt triệt để hậu cần từ miền Bắc vào miền Nam, làm suy yếu lực lượng kháng chiến của ba dân tộc Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia. Giữa thời điểm vô cùng khó khăn gian khổ ấy, quân và dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã cùng với Binh đoàn chủ lực B70 chấp hành triệt để mệnh lệnh chiến đấu của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng chủ động phản công, tiến đến đánh bại cuộc hành quân "Lam Sơn – 719” của Mỹ-ngụy, giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng trên chiến trường Đường 9 - Nam Lào.
Bước vào mùa Xuân năm 1972, để chấp hành nghị quyết mở cuộc tổng tiến công chiến lược toàn miền đánh bại một bước căn bản chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ, quân và dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị lại cùng với các binh đoàn chủ lực trên hướng tiến công chiến lược chủ yếu mở cuộc tiến công hiệp đồng binh chủng với quy mô lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (tính đến năm 1972).
Trải qua 11 tháng (từ tháng 3 năm 1972 đến tháng 1 năm 1973) chiến đấu vượt qua mọi khó khăn gian khổ, ác liệt hy sinh, lực lượng vũ trang Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã cùng các binh đoàn chủ lực của Bộ tiến công giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị (5 - 1972) và sau đó đánh địch phản kích bảo vệ thắng lợi thành quả cách mạng đã giành được (Thu Đông năm 1972), loại khỏi vòng chiến đấu hơn 4 vạn tên địch, thu và phá hủy hơn 1.000 xe quân sự.
Chiến thắng to lớn ở Quảng Trị trong năm 1972 đã làm thay đổi thế và lực của ta trên chiến trường, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của Mỹ - ngụy, làm cơ sở và phối hợp đắc lực cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta ở Hội nghị Pa-ri. Đồng thời thắng lợi to lớn, toàn diện của ta trong năm 1972 và trận "Điện Biên Phủ trên không” ở Hà Nội đã buộc đế quốc Mỹ phải cam kết rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam nước ta. Quân và dân ta thực hiện tốt di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh "đánh cho Mỹ cút", tạo ra thuận lợi căn bản để "đánh cho ngụy nhào".
Điểm lại những mốc son thắng lợi to lớn, toàn diện trong các giai đoạn lịch sử để chúng ta thấy rằng: mỗi một chiến công mà quân và dân ta trên chiến trường Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị giành được không chỉ biểu hiện tinh thần chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị mệnh lệnh của cấp trên, tinh thần đoàn kết chiến đấu keo sơn, ý chí quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, mà điều quan trọng hàng đầu có tính quyết định là sự lãnh đạo tài tình, nhạy bén sáng tạo của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương trong việc đề ra những quyết sách đúng đắn, táo bạo, kịp thời trên hướng tiến công chiến lược quan trọng này.
Rõ ràng, sau cuộc đọ sức quyết liệt với cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 cùng quân viễn chinh Mỹ, mặc dù bộ đội ta đã chiến đấu dũng cảm, lần lượt làm thất bại các mũi, hướng "tìm diệt" của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục nghìn tên Mỹ, phá hủy hàng vạn tấn phương tiện chiến tranh, nhưng trên thực tế, Mỹ vẫn đang trên đà tăng quân ồ ạt vào miền Nam hòng làm xoay chuyển hẳn cục diện trên chiến trường.
Trong khi đó, ở một số vùng đồng bằng, miền núi nằm ở tâm điểm đánh phá của quân Mỹ: các căn cứ kháng chiến, các cơ sở quần chúng cách mạng của ta bị đánh phá nhiều lần, có nơi lực lượng vũ trang địa phương phải tạm thời rút lui bảo toàn lực lượng. Với tầm nhìn chiến lược xa rộng, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã từng bước phát triển thế tiến công chiến lược của ta trên toàn miền, hình thành các chiến trường trọng điểm, căng kẻ địch ra các Mặt trận miền đông Nam Bộ, Mặt trận Tây Nguyên, Khu 5 ngay khi quân Mỹ mới tiến hành chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam - Việt Nam. Và bước vào Hè -Thu 1966, khi Nhà Trắng và Lầu Năm Góc tiếp tục tăng quân viễn chinh lên 38 vạn tên (tính trung bình mỗi tháng quân Mỹ vào 1 vạn tên), thì việc quyết định mở thêm Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương là một chủ trương rất dúng đắn, sáng suốt về mặt chỉ đạo chiến lược, một đóng góp mới vào việc giữ vững và phát triển quyền chủ động, đẩy mạnh thế tiến công của ta, làm phân tán bớt lực lượng quân Mỹ, làm đảo lộn tính toán chiến lược của địch, có tác dụng ngăn chặn ý đồ đưa quân Mỹ vào đồng bằng sông Cửu Long và phá âm mưu của đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh trên mặt đất ra miền Bắc.
Có thể nói, việc nhận định đánh giá chiến trường miền Đông Nam Bộ là hướng tiến công chiến lược chủ yếu và Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị là hướng tiến công chiến lược quan trọng của Đảng ta đã thể hiện sự điều hành chiến tranh một cách chủ động trong lúc quân Mỹ đang tăng quân ồ ạt.
Ta đã kéo được hầu hết các tiểu đoàn, lữ đoàn thuộc các sư đoàn sừng sỏ (sư đoàn 1, sư đoàn lính thủy đánh bộ 3, sư đoàn A-mê-ri-cơn, sư đoàn kỵ binh bay) ra Đường 9 - Khe Sanh, nơi quân Mỹ gặp khó khăn về địa hình núi non hiểm trở, tiếp tế hậu cần xa (huy động cả đường bộ, đường không, đường thuỷ, nhiều lúc vẫn thiếu). Và hầu hết các đơn vị này bị quân và dân ta kết hợp đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ, tiến công, vây hãm làm cho quân Mỹ bị tiêu diệt, tiêu hao, bị "vô hiệu hoá" như "cá voi mắc cạn". Với tầm nhìn chiến lược toàn cục, cả quân sự và chính trị, cả ở nước ta và ở nước Mỹ, Đảng ta đã dự kiến xu thế phát triển của cuộc chiến tranh, phát hiện được thời cơ chiến lược đang xuất hiện.
Trong điều kiện tương quan lực lượng quân sự lúc bấy giờ vẫn nghiêng về phía địch, song nắm vững chiều hướng vận động của tình hình và để kịp thời chớp lấy thời cơ nhằm xoay chuyển cục diện chiến tranh, Đảng chủ trương đánh vào ý chí xâm lược của đối phương bằng sức mạnh tổng hợp của chiến tranh cách mạng miền Nam, bằng việc kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao, nhằm vào toàn bộ mục tiêu hiểm yếu của địch trên chiến trường.
Chính lúc Lầu Năm Góc đang bị động, lúng túng về chiến lược, Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương đã quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt đánh địch trên hầu khắp các thành phố thị xã toàn miền Nam. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 đã làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của Mỹ, tạo ra bước ngoặt quyết. định của cuộc chiến tranh.
Đây là bài học quý báu để Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương chỉ đạo các chiến trường tăng cường xây dựng lực lượng, chuẩn bị thế trận đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ. Đồng thời đây cũng là những kinh nghiệm thiết thực để Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ đạo Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị khẩn trương chuẩn bị mọi mặt lần lượt đánh bại cuộc hành quân "Lam Sơn-719” ra Đường 9 - Nam Lào (1971) và mở cuộc tiến công chiến lược mùa Xuân năm 1972 giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị.
Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị ra đời, trưởng thành, chiến thắng là sự kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh tinh thần và sức mạnh vật chất, giữa tinh thần đoàn kết gắn bó keo sơn Nam Bắc là một nhà, hậu phương lớn hết lòng vì tiền tuyến lớn, với ý chí quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược và trí thông minh sáng tạo của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Sức mạnh tổng hợp đó của quân và dân trên Mặt trận Đường 9 được biểu hiện bền vững, xuyên suốt cả quá trình vừa chiến đấu vừa xây dựng cho đến ngày kết thúc sứ mệnh lịch sử của mình.
Thực tế trong những năm tháng xây dựng, chiến đấu trên một địa bàn chiến lược trọng yếu này quân dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị luôn luôn nhận được sự đóng góp to lớn, toàn diện, chí tình, chí nghĩa của quân và dân cả nước; đặc biệt là của hậu phương chiến lược miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Giữa cuộc "chiến tranh cục bộ"; giặc Mỹ tập trung hàng chục nghìn quân Mỹ và tay sai mở những cuộc hành quân "tìm diệt" đánh phá hết sức dã man vùng Đường 9 - Quảng Trị, xóa trắng các vùng bắc Đường 9 tới nam sông Bến Hải để ngăn chặn và đẩy lùi sự chi viện của quân và dân miền Bắc với miền đất Trị - Thiên yêu thương. Với tinh thần "Quảng Trị vì cả nước", "cả nước vì Quảng Trị", hầu hết các sư đoàn chủ lực của quân đội nhân dân Việt Nam như 324, 325, 304, 308, 320, 312..., các đơn vị binh chủng pháo mặt đất, pháo cao xạ, tên lửa, xe tăng, công binh, thông tin, đặc công... các tổng đội thanh niên xung phong và hàng vạn dân công của các tỉnh Khu 4 đã có mặt trong những giờ phút gay go quyết liệt nhất để cùng quân và dân Quảng Trị chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, lập nên những "chiến thắng Khe Sanh lừng danh đất nước", "Đường 9 - Nam Lào lừng lẫy chiến công", tới "Mùa Xuân lập công, vượt sông Bến Hải, quét sạch quân thù giải phóng Quảng Trị".
Thắng lợi to lớn, toàn diện của quân dân ta trên Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc thống nhất Tổ quốc của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Những truyền thống, những kinh nghiệm rút ra trong xây dựng và chiến đấu ở Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị mãi mãi là bài học vô giá trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

HẾT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét