THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

THI VÂN YÊN TỬ

SỚM CHIỀU DU NGOẠN CÙNG MÂY NÚI
HOA TRÁI QUA NGÀY TA VỚI TA

Thứ Tư, 9 tháng 12, 2009

Lịch sử Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị (1966- 1973)

Người thành cổ Quảng trị

Lịch sử Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị (1966- 1973)

Tên sách: LỊCH SỬ MẶT TRẬN ĐƯỜNG 9 - BẮC QUẢNG TRỊ (1966 - 1973)
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
Năm xuất bản: 2001



CHỦ BIÊN:

Trung tướng, PGS NGUYỄN ĐÌNH ƯỚC

NGƯỜI VIẾT:

Thượng tá Th.s TRẦN TIẾN HOẠT

Thượng tá ĐƯỜNG KHẮC HỒ

Thượng tá VŨ TRỌNG HOAN

Trung tá NGUYỄN HUY THỤC


LỜI NÓI ĐẦU

Tháng 6 năm 1966, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta đang đi vào giai đoạn quyết liệt nhất, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Mặt trận đường 9-Bắc Quảng Trị (gọi tắt là mặt trận B5) nhằm thu hút, giam chân một bộ phận của quân Mỹ để Bộ đội chủ lục của ta trực tiếp đánh quân viễn chinh Mỹ.

Qua gần tám năm (6.1966 - 1.1973) xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, quân dân ta trên mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương đã vượt qua những thời điểm khó khăn, gian khổ quyết liệt nhất, chiến đấu mưu trí, dũng cảm, lập nên những chiến công to lớn, có những chiến công có ý nghĩa chiến lược quan trọng như chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh trong cuộc tổng tiến công năm 1968, Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào 1971, Chiến dịch tiến công Trị - Thiên, giải phóng hồn toàn tỉnh Quảng Trị năm 1972, cùng toàn quân, toàn dân hồn thành nhiệm vụ của Cuộc tiến công chiến lược năm 1972, và đánh thắng B.52 ở miền Bắc, buộc Mỹ phải ký hiệp định Pa-ri (1.1973) rút hết quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam.

Chiến trường đướng 9 - Bắc Qủang Trị có nhiều biến động với sự phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Có những chiến dịch lớn của ta do Bộ trực tiếp chỉ đạo vượt ra ngồi phạm vi Đường 9 - Bắc Quảng Trị. Song Đường 9 - Bắc Quảng Trị là một chiến trường cực kỳ ác liệt, góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam bảo vệ miền Bắc thống nhất đất nước. Để ghi lại những chiến công hào hùng của quân và dân ta trên mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, kịp thời rút ra những bài học về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh cách mạng tài tình, sáng tạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, góp phần vào công tác giáo dục truyền thống lịch sử, nghiên cứu khoa học, giảng dạy, huấn luyện ở các cơ quan, nhà trường trong và ngồi quân đội, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam đã biên soạn cuốn Lịch sử Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị (1966- 1973).

Trong quá trình nghiên cứu biên soạn, tập thể tác giả đã nhận được sự chỉ đạo chặt chẽ của lãnh đạo Bộ Quốc phòng, sự giúp đỡ nhiệt tình của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ, chiến sĩ đã từng chiến đấu, công tác ở Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị. Nhân dịp xuất bản cuốn sách, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam xin chân thành cảm ơn sự quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện của Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, Thủ trưởng Bộ Tổng Tham- mưu, sự giúp đỡ có hiệu quả của Quân khu 4, Tỉnh đội Quảng Trị, huyện đội Hướng Hóa và sự cộng tác của nhiều vị tướng lĩnh và nhà khoa học trong và ngồi quân đội.
Tuy tập thể tác giả biên soạn đã có nhiều cố gắng, nhưng do tư liệu thất tán nhiều, trình độ nghiên cứu còn hạn chế nên cuốn sách không tránh khỏi khiếm khuyết. Chúng tôi rất mong nhận được góp ý, bổ sung của các đồng chí.

VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM


CHƯƠNG I
MẶT TRẬN ĐƯỜNG 9 - BẮC QUẢNG TRỊ RA ĐỜI, THU HÚT, GIAM CHÂN MỘT LỰC LƯỢNG QUAN TRỌNG CỦA MỸ - NGỤY
(1966 - 1967)

I. Vài nét về mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị

Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, phía bắc giáp khu vực Vĩnh Linh - Quảng Bình (cực nam miền Bắc xã hội chủ nghĩa), đông giáp biển Đông, tây giáp Trung -Hạ Lào và nam giáp huyện Hải Lăng sông Ba Lòng, với số dân khoảng 20 đến 25 vạn (1960- 1965) sống trên một vùng địa lý, khí hậu khắc nghiệt. Sáu tháng gió tây nóng khô (tháng 3 đến tháng Cool làm hoa màu cây trái xác xơ úa cháy. Sáu tháng còn lại, mưa bão triền miên, lũ lụt ngăn cách tàn hại mùa màng, đường sá đi lại trắc trở. Tuy vậy, đất và người Quảng Trị cũng như bao miền quê của Tổ quốc Việt Nam ta có lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đồn kết đấu tranh chống giặc ngoại xâm bất khuất kiên trung. Cách đây hơn một trăm năm (1885) tại thành Tân Sở (Cam Lộ), vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương chống giặc Pháp, lập tức hàng nghìn người dân Quảng Trị đủ mọi lứa tuổi đã lên đường theo vua chống giặc. Đầu thế kỷ XX, để tiến hành khai thác thuộc địa thuận lợi, tại tỉnh Quảng Trị và các tỉnh miền Trung Lào, cùng với việc tu bổ, mở rộng đường số 1 chạy qua địa phận tỉnh, thực dân Pháp tập trung hàng vạn dân hai nước Việt Nam và Lào mở tuyển đường 9 nhằm tạo thành hành lang giao thông nối với Lào, Thái Lan.
Sau hơn hai mươi năm (1905-1926) với công cuộc lao động vất vả của hàng triệu lượt người, tuyến đường chiến lược số 9 đã được hình thành. Nhưng ngay sau khi đường 9 được thực dân Pháp đưa vào sử dụng, quân và dân Bình - Trị - Thiên nói chung, quân dân Quảng Trị nói riêng đã tổ chức phục kích phá các đồn xe chở hàng và lính đi càn ở đoạn đường số 9 Cam Lộ, Lao Bảo (phía tây) và đoạn đường 1 Hải Lăng, Triệu Phong (phía đông).

Đặc biệt từ khi đế quốc Mỹ gạt thực dân Pháp xâm lược miền Nam nước ta (1954), chúng xem tỉnh Quảng Trị không chỉ là phần đất cực bắc của thể chế Việt Nam cộng hòa mà còn được mệnh danh là “biên giới" của thế giới tự do Hoa Kỳ. Đầu năm 1955, khi nhân dân ta bước vào cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ, chúng coi vùng đất Quảng Trị - Đường 9 là "trọng điểm bình định", “tái thiết chế độ mới" chống phá phong trào cách mạng. Về chính trị, chúng ra sức tuyển dụng những phần tử cực kỳ phản động mới di cư ở miền Bắc vào, thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh đòi tự do cơm áo, đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất Tổ quốc. Về quân sự, chúng ra sức xây dựng Quảng Trị thành hệ thống căn cứ quân sự liên hồn, vững chắc để có thể đủ sức tiến công ra miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hoặc phòng thủ ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc vào miền Nam.

Để giữ vững phong trào cách mạng, nhân dân Quảng Trị - Đường 9 dưới sự lãnh đạo của Đảng một lần nữa đứng lên đấu tranh chính trị, từng bước kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang tự vệ trong giai đoạn 1955 - 1959 khó khăn nhất của tình hình cách mạng miền Nam. Năm 1955, dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng các cấp, các tầng lớp nhân dân Quảng Trị bất chấp những cuộc đàn áp gắt gao của địch, đã đứng lên đấu tranh chống "tố cộng diệt cộng", chống trả thù hèn hạ những người yêu nước, đòi cải thiện dân sinh dân chủ, đòi tự do đi lại giữa hai miền Nam - Bắc... Hàng loạt các cuộc đấu tranh của nhân dân Tam Hiệp, Cam Chính (Cam Lộ), Hải Lệ, Hải An (Hải Lăng), Do Hải (Do Linh), Khe Sanh (Hướng Hóa)...chống địch rời làng, chống khủng bố trắng diễn ra liên tiếp. Các hình thức đấu tranh cũng bắt đầu phong phú hơn do nhân dân tự tổ chức như "dân canh chống cướp" chống địch rình mò bắt cóc đảng viên, cán bộ, gia đình có người thân tập kết ở miền Bắc.

Phong trào đấu tranh cách mạng của các tầng lớp nhân dân Quảng Trị càng lên cao, đế quốc Mỹ và tay sai càng ra sức đánh phá quyết liệt. Đi đôi với những giọng điệu tuyên truyền lừa bịp, mị dân, chia rẽ khối đồn kết lương – giáo, khối đồn kết dân tộc thống nhất Bắc – Nam, chúng liên tục mở các đợt đánh phá vào các tổ chức cơ sở Đảng ở địa phương với phương châm "khuấy nước động bùn”, "giết lầm còn hơn bỏ sót".

Từ tháng 2 năm 1957, sau khi ổn định xong bộ máy ngụy quân ngụy quyền thôn xã trở lên, chúng ráo riết đánh phá phong trào cách mạng của nhân dân Quảng Trị. Với chiêu bài "cải cách điền địa, phát triển nông thôn", bề ngồi "vì dân", "vì quốc gia cường thịnh" nhưng thực chất bên trong là những đêm trường của đợt 3 "tố cộng diệt cộng", "dùng cộng diệt cộng", "dùng dân phá dân", địch mong thực hiện âm mưu bắt các gia đình có công với kháng chiến vào trại tập trung ở dinh điền Cùa, Xoa... hòng “tát nước bắt cá" tiêu diệt nhân cốt cách mạng, reo rắc tâm lý hồi nghi giữa đảng viên với quần chúng, giữa nhân dân và cách mạng.

Tức nước vỡ bờ, Mỹ - ngụy càng ra sức khủng bố đàn áp, thì phong trào cách mạng của nhân dân ta càng dâng cao. Tại khu phi quân sự, nhân dân các xã của huyện Do Linh đã kết hợp đấu tranh chính trị với diệt ác, trừ gian. Qua ba năm khủng bố nhân dân, đàn áp lực lượng cách mạng, bọn địch ở xã Do An và các xã lân cận vẫn không lập được tề ngụy. Mặc dù Mỹ - ngụy cự tuyệt mối quan hệ Bắc - Nam nhưng do nhân dân ta biết đấu tranh chính trị, dùng pháp lý đi đôi với thuyết phục, cảm hóa được một số nhân viên cảnh sát ngụy quyền nên việc đi lại giữa hai miền ở giới tuyến vẫn được duy trì đến hết năm 1956. Kết quả đấu tranh cách mạng của quần chúng thời gian đầu buộc địch phải nhượng bộ một số mặt.
Tuy nhiên trong quá trình đấu tranh cách mạng, quân và dân miền Nam nói chung cũng như quân và dân Quảng Trị nói riêng chưa tìm được phương pháp đối phó có hiệu lực với kẻ thù, bảo vệ được cơ sở cách mạng. Do đó, khi địch tập trung phản kích lại, hầu hết các lực lượng lãnh đạo và cơ sở cách mạng bị bắt bớ, giam cầm ngay từ đầu, gây cho ta nhiều tổn thất. Sau chuyển quân tập kết, Quảng Trị còn lại 8.400 đảng viên, nhưng đến cuối năm 1956, ở ba huyện đồng bằng chỉ còn lại 7 chi bộ với 106 đồng chí. Hai huyện Hải Lăng, Cam Lộ bị địch rà quét không còn chi bộ nào. Nhiều thôn xóm không còn đảng viên. Suốt hai năm liền (1957 - 1958) nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân các thôn, xã vùng giới tuyến bị dìm trong bể máu. Đó là thời kỳ khó khăn nhất của Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị.

Cuối năm 1958, nhiều câu hỏi bức bách về tình hình đấu tranh cách mạng của các tầng lớp nhân dân Quảng Trị đã vang lên: Trong tình thế Mỹ - ngụy độc tài phát xít như vậy, liệu đấu tranh bằng phương pháp hòa bình có hợp lý nữa không. Không có lẽ cứ chịu ngồi yên nhìn chúng giết hại bà con, đồng chí mình. Đến bao giờ thì nhân dân Quảng Trị được cầm vũ khí chiến đấu? v.v. . Giữa tháng 1 năm 1959, hội nghị Ban Chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ 15 đã tháo gỡ được những trăn trở và đáp ứng nguyện vọng của Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị: “con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân"; và "vấn đề thống nhất nước nhà không phải là vấn đề pháp lý mà căn bản là vấn đề cách mạng". Như vậy, đối với kẻ thù Mỹ - Diệm, chỉ có một câu trả lời: Phải sử dụng bạo lực cách mạng.
Được Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 soi sáng, Đảng bộ Quảng Trị đã lãnh đạo nhân dân chuyển hướng đấu tranh, từ đấu tranh chính trị là chủ yếu chuyển sang đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang tự vệ; trước mắt phải ra sức tập hợp quần chúng đồn kết đấu tranh chống lại mọi hình thức khủng bố của địch, khôi phục và xây dựng các tổ chức của Đảng. Từ đó, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Quảng Trị từng bước được hồi phục.

Sau khi phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ở các huyện đồng bằng gặp nhiều khó khăn, tổn thất, Tỉnh ủy đã khôi phục và gây dựng các căn cứ cách mạng ở miền núi, làm chỗ dựa để đưa phong trào cách mạng ở đồng bằng phát triển. Miền núi Quảng Trị trong kháng chiến chống thực dân Pháp hầu hết là vùng tự do. Khi ta chuyển quân tập kết xong, Mỹ - Diệm đã nhanh chóng chiếm lĩnh các địa bàn quan trọng, xây dựng bộ máy chính quyền, lập hệ thống đồn bốt liên hồn, vững chắc "quyết khống chế bằng được vùng rừng núi" vốn là địa bàn chiến lược của cách mạng nước ta.

Nhưng với sự tập trung chỉ đạo của Tỉnh ủy Quảng Trị, với truyền thống cách mạng của các dân tộc miền núi vùng Cam Lộ, Hướng Hóa, đến đầu năm 1959 ta đã khôi phục được các căn cứ địa, đưa hầu hết các bộ phận quần chúng vào các tổ chức đồn thể, trên 20 xã có cơ sở Đảng, Đồn hoạt động. Từ đó, phong trào đấu tranh chính trị ở miền núi tỉnh Quảng Trị phát triển mạnh mẽ, phong phú và đa dạng. Từ những hầm chông cạm bẫy được bố trí với lý do hợp pháp để chống thú rừng phá hoại mùa màng nương rẫy, dần dần xuất hiện những bãi chông, bẫy đá ngăn cản quân địch càn quét, phục kích bắn giết cán bộ, đồng bào. Trong phong trào đấu tranh tự vệ, bảo vệ bản làng đã xuất hiện các tổ du kích bán vũ trang hoạt động công khai hoặc bí mật, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị đòi quyền dân sinh, dân chủ của quần chúng.

Căn cứ cách mạng ở miền núi Quảng Trị được khôi phục và phát triển không chỉ làm chỗ dựa để Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng trong tỉnh mà còn góp phần bảo vệ, xây dựng tuyến hành lang chiến lược Bắc - Nam và làm nhiệm vụ quốc tế với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

Phong trào cách mạng càng dâng cao, quân và dân Quảng Trị càng xốc tới, chuyển phương châm chiến lược tiến công địch bằng cả chính trị và quân sự, mở đầu bằng cuộc đồng khởi ở miền núi, phát triển thành cuộc chiến tranh nhân dân, liên tục tấn công, góp phần cùng toàn Miền đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn của đế quốc Mỹ.

Giữa năm 1959, để đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng miền Nam bằng con đường bạo lực như nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương đã chỉ thị. Tỉnh ủy Quảng Trị đã đề ra hai chủ trương lớn: Một là, tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng vùng căn cứ miền núi, đảm bảo đủ mạnh để từ đó hoạt động lan tỏa ra các vùng (đặc biệt là vùng sâu) gây dựng cơ sở cách mạng rộng khắp toàn tỉnh. Hai là, khẩn trương thành lập lực lượng vũ trang, mở rộng mạng lưới hoạt động diệt ác, phá kìm, hỗ trợ cho nhân dân đấu tranh chính trị.

Sau một thời gian khẩn trương thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị đã xây dựng được hai đơn vị vũ trang với phiên hiệu 59A và 59B. Sự ra đời của hai đơn vị vũ trang này báo hiệu sự phát triển về chất của phong trào cách mạng; đó cũng là cơ sở phát triển lực lượng vũ trang Quảng Trị sau này.

Sau khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời (ngày 20 tháng 12 năm 1960), đầu năm 1961 ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh Quảng Trị cũng được thành lập. Sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đồn kết thành một khối, đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai bán nước.

Đứng trước tình hình phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng miền Nam, đế quốc Mỹ vội vã tiến hành chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam nước ta, ra sức xây dựng quân ngụy, hình thành hệ thống lực lượng kìm kẹp dày đặc để thực hiện kế hoạch gom dân lập ấp chiến lược với khẩu hiệu "ấp chiến lược là sự toàn vong, là quốc sách số 1". Để thí điểm “quốc sách xây dựng trại tập trung" chống phá cách mạng, Mỹ - Diệm đã chọn 4 thôn trong tỉnh Quảng Trị để "xây dựng điển hình". Với tư tưởng chỉ đạo "kiên quyết phá ấp chiến lược của địch ngay từ những ngày đầu” của Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị, các cấp bộ Đảng và chính quyền đã tăng cường cán bộ bám sát cơ sở, phát động quần chúng phá "ấp chiến lược” với phương châm "ngày địch xây, đêm ta phá". Đồng thời, chỉ đạo lực lượng vũ trang trong tỉnh tiến công ấp Tuồi Muồi là tiếng súng mở đầu cho phong trào khởi nghĩa của nhân dân miền núi Quảng Trị. Cuối năm 1960, nhân dân các xã phía nam của huyện Hướng Hóa đã đồng loạt nổi dậy khởi nghĩa. Chỉ trong một thời gian ngắn, 10 xã nam đường số 9, năm xã vùng Ba Lòng và xã Hải Phúc (Hải Lăng) đã giải tán chính quyền địch, lập chính quyền cách mạng, một vùng rộng lớn kéo dài từ miền tây Quảng Trị đến miền tây Thừa Thiên được giải phóng.

Trên cơ sở thắng lợi của phong trào đồng khởi ở miền núi, tháng 6 năm 1961, Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ đã quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III và Chỉ thị của Bộ Chính trị về phương hướng và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam.
Chấp hành Nghị quyết của Trung ương, Đảng bộ tỉnh đã đề ra nhiệm vụ cụ thể trước mắt là:

- Khẩn trương xây dựng và củng cố miền tây thật sự vững chắc về mọi mặt.

- Từ đó, quyết tâm phát động quần chúng gấp rút xây dựng cơ sở chính trị ở đồng bằng vững mạnh.

- Đẩy mạnh công tác binh vận.
Sau đại hội, lực lượng vũ trang các huyện lần lượt được thành lập, thực hiện phương châm đấu tranh "hai chân, ba mũi, ba vùng”, góp phần củng cố, xây dựng miền núi thành căn cứ địa cách mạng vững chắc, đưa phong trào đấu tranh quần chúng ở miền xuôi lên một bước mới: đấu tranh hợp pháp, diệt ác trừ gian, đòi cải thiệu quyền dân sinh, dân chủ. Tại thị xã Quảng Trị, nhân ngày lễ Phật Đản (8-5-1963) cuộc đấu tranh của đồng bào Phật giáo đã nổ ra, kéo dài, phát triển thành cuộc mít tinh, biểu tình chống chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm. . .

Đi đôi với phong trào đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự cũng phát triển lên một bước mới nhằm phá ấp chiến lược, làm cho chính quyền xã ấp của địch lo sợ. Đặc biệt, rạng ngày 9 tháng 2 năm 1964, bộ đội địa phương Quảng Trị được sự hỗ trợ đắc lực của một đơn vị Quân giải phóng Quân khu Trị -Thiên đã đột nhập quận lỵ Ba Lòng, một quận lỵ mà quận trưởng Trần Đình Lâm đã từng huênh hoang tuyên bố là “bất khả xâm phạm". Sau 25 phút chiến đấu, bộ đội Quảng Trị đã làm chủ quận lỵ. Tin chiến thắng Ba Lòng làm nức lòng quân dân trong và ngồi tỉnh, làm quân địch hoang mang, tinh thần binh lính ngày càng thêm sa sút.

Để thực hiện chủ trương của Liên khu ủy 5 về việc khẩn trương chuẩn bị nổi dậy giành lại nông thôn đồng bằng, đầu tháng 4 năm 1964 tại Ro Rô (nam Hướng Hóa), Tỉnh ủy Quảng Trị đã triệu tập Hội nghị thảo luận và hạ quyết tâm phát động phong trào đồng khởi toàn diện, rộng khắp ở tất cả các cơ sở cách mạng đang hoạt động. Sau hội nghị, một không khí cách mạng dấy lên khắp nơi trong tỉnh.

Trước khí thế chuẩn bị cho đồng khởi của ta, một số binh lính địch cảm tình với cách mạng đã nổi lên binh biến, trở về với nhân dân. Tiêu biểu là vụ binh biến của trung đội tổng vệ số 18 ở Ba Thành (Ba Lòng). Cũng trong những ngày sôi nổi đó, cán bộ, chiến sĩ đại đội đặc công 10 đã tiêu diệt căn cứ Đầu Mầu (24-6-1964).

Bước vào đồng khởi, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Vũ Soạn, Phó bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Lê San, ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị, đêm ngày 4 rạng ngày 5 tháng 7 năm 1964, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang địa phương, nhân dân hai thôn Mai Lộc và Mai Đàm đã nổi dậy diệt ác, phá kìm giành quyền làm chủ. Phong trào đồng khởi của hai thôn đã nhanh chóng lan ra khắp vùng Cùa. Địch tổ chức phản kích nhưng bị quân ta đánh bật trở lại. Kết quả đồng khởi ở vùng Cùa đã phá bỏ được toàn bộ hệ thống chính quyển địch; thay vào đó, chính quyền cách mạng từ thôn đến xã được thành lập. Phát huy thắng lợi đã giành được, đêm ngày 5 tháng 7 năm 1964, nhân dân các vùng Long Hưng Phường, Hải Thượng (Hải Lăng), Triệu Lễ, Triệu Đông (Triệu Phong). . . được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang và du kích địa phương đã vùng lên giành quyền làm chủ.

Phối hợp với phong trào đồng khởi ở các vùng nông thôn, sáng ngày 25 tháng 8 năm 1964. gần 1 vạn người gồm nhiều giới khác nhau ở thị xã Quảng Trị đã tổ chức biểu tình chống tên độc tài Nguyễn Khánh, tay sai đắc lực của đế quốc Mỹ. Hàng ngàn người đã hô vang khẩu hiệu: “Đế quốc Mỹ cút đi", "Mỹ không được can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam”, v.v. . . Các cuộc biểu tình của các tầng lớp nhân dân thị xã Quảng Trị đã góp phần hỗ trợ cho phong trào đồng khởi trong toàn tỉnh tiến lên mạnh mẽ, rộng khắp, giành nhiều thắng lợi to lớn.

Để đẩy mạnh phong trào đồng khởi đợt 2, đợt 3, ngày 25 tháng 9 năm 1964, tại bờ sông Nhùng (tây huyện Hải Lăng) Thường vụ Tỉnh ủy đã họp, một mặt rút kinh nghiệm, ưu khuyết điểm trong tiến hành đấu tranh cách mạng, đề ra những biện pháp cấp bách trong việc kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, hỗ trợ quần chúng giành quyền làm chủ; mặt khác xúc tiến việc cải cách ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng.

Qua 7 tháng (từ tháng 7 năm 1964 đến tháng 1 năm 1965), toàn tỉnh thực hiện đồng khởi, tuy còn những nhược điểm như: phong trào phát triển không đồng đều, lúc lên lúc xuống, một số xã ở đồng bằng chưa làm được... Nhưng nhìn chung, quân và dân Quảng Trị đã giành được thắng lợi to lớn, đã xoá bỏ được vòng kìm kẹp của địch ở 140 thôn, xóm với số dân gần 8 vạn người, hầu hết cơ sở Đảng ở các xã được khôi phục, phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng đã phát triển.
Thắng lợi của phong trào đồng khởi ở Quảng Trị đã góp phần cùng toàn miền Nam phát triển cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp tiến lên đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.

II. Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị - một hướng tiến công chiến lược quan trọng.

Đầu năm 1965, mặc dù đã đẩy lên đỉnh cao, vượt quá mức lý thuyết và dự định ban đầu, nhưng chiến lược "chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam vẫn có nguy cơ bị quân và dân miền Nam đánh bại hồn toàn. Để cứu vãn tình thế khốn quẫn đó, Mỹ quyết định thay đổi chiến lược chiến tranh để giành thắng lợi quyết định ở miền Nam Việt Nam; chuyển từ chiến lược "chiến tranh đặc biệt" sang chiến lược "chiến tranh cục bộ". Mục tiêu của Mỹ trong cuộc chiến tranh này là triển khai lực lượng lớn từ Mỹ sang, dùng "phản công" tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng miền Nam. Trong quá trình thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ", để tránh làm ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước; tránh lôi kéo các nước lớn (Liên Xô, Trung Quốc) trong phe xã hội chủ nghĩa trực tiếp tham chiến..., chính quyền Giôn-xơn chủ trương đưa quân Mỹ ồ ạt vào để giành thắng lợi quyết định trong một thời gian ngắn. Do vậy, tháng 7 năm 1965, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn đã chính thức thông qua kế hoạch chiến lược "tìm diệt" của tướng Oét-mo-len, Tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam (MACV). Đế quốc Mỹ trù tính hồn tất các mục tiêu chiến lược của cuộc “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam Việt Nam trong khoảng thời gian từ hai năm đến hai năm rưỡi. Kế hoạch này được dự định chia làm ba giai đoạn:

Giai đoạn l, từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1965 đưa nhanh quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ vào miền Nam, hồn thành việc triển khai lực lượng, chuẩn bị cho các hoạt động giai đoạn kế tiếp.

Giai đoạn 2, từ tháng 1 đến tháng 6 năm 1966. mở cuộc phản công chiến lược "tìm diệt” ở những vùng ưu tiên để tiêu diệt chủ lực đối phương, phá chiến tranh du kích, giành lại quyền chủ động chiến trường từ tay đối phương, tổ chức lại các hoạt động bình định nông thôn.

Giai đoạn 3, từ tháng 7 năm 1966 đến tháng 6 năm 1967 (hoặc tháng 12 năm 1967), mở tiếp các cuộc tiến công “tìm diệt" những đơn vị chủ lực quân giải phóng còn lại, phá căn cứ kháng chiến và tiêu diệt cơ quan đầu não của cách mạng miền Nam, hồn tất chương trình "bình định nông thôn", bắt đầu rút quân Mỹ về nước.

Theo Mỹ: "ý nghĩa cơ bản nêu rõ trong chiến lược “tìm diệt” là muốn đưa cuộc chiến tranh đến tận xứ sở của kẻ địch, làm cho kẻ địch không thể tự do đi lại ở bất cứ nơi nào trên đất nước và giáng cho kẻ địch những đòn thết bại nặng nề" (Chú thích: Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, tập 2, Việt Nam thông tấn xã dịch và phát hành, Hà Nội, 1971,tr 137.).

Thực hiện mục tiêu trên cuối năm 1965, hơn 20 vạn quân Mỹ và chư hầu (trong đó có 184.314 lính Mỹ) đã được đưa vào miền Nam và triển khai xong ở các địa bàn chiến lược. Đầu năm 1966, chúng lại đưa thêm một số trung đoàn, lữ đoàn, một sở chỉ huy sư đoàn cùng tập đồn không quân số 7 vào miền Nam. Toàn bộ quân Mỹ, ngụy và chư hầu đã hợp thành một đội quân 72 vạn tên. Với lực lượng đông đảo ấy, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ quyết định mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất (mùa khô năm 1965-1966) nhằm "tìm diệt" chủ lực quân giải phóng, giành lại quyền chủ động trên chiến trường, giải tỏa áp lực quanh đô thị và khai thông những tuyến đường giao thông chiến lược, "bình định" các vùng nông thôn quan trọng, ổn định và tăng cường hiệu lực chính quyền, quân đội Sài Gòn.

Đối với miền Bắc Việt Nam: mặc dù đã sử dụng một khối lượng lớn bom đạn, áp dụng nhiều thủ đoạn đánh phá, và mặc dù đã chịu tổn thất nhiều máy bay và người lái nhưng chiến dịch “Sấm rền" của không quân Mỹ đã không đạt được kết quả như dự tính ban đầu. Trong một báo cáo gửi lên Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Na-ma-ra, cơ quan tình báo Bộ quốc phòng Mỹ nhận định "ý kiến cho rằng phá hủy hoặc dọa phá hủy nền công nghiệp Bắc Việt Nam thì sẽ buộc Hà Nội phải quỳ gối, nhìn lại thì thấy đó là một nhận định sai lầm". Mùa hè năm 1966, hội nghị chuyên đề bí mật bao gồm một tập thể các nhà khoa học có danh tiếng của Mỹ họp dưới sự đỡ đầu của Chính phủ Mỹ để nghiên cứu toàn bộ kết quả cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam đã đi đến kết luận rằng: “Tính đến tháng 7 năm 1966, các hoạt động ném bom của Mỹ ở miền Bắc Việt Nam đã không có ảnh hưởng trực tiếp đáng kể nào đến khả năng của Hà Nội trong việc tiến hành và hỗ trợ các hoạt động quân sự ở Nam Việt Nam". Tình hình đó khiến cho Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Na-ma-ra "phải suy nghĩ lại vai trò của toàn bộ chiến dịch oanh tạc trong cố gắng của Mỹ, ông rất đau khổ biết rõ tình trạng bất lực của lực lượng không quân trong việc ngăn chặn các hoạt động thâm nhập vào Nam và không thấy thể hiện gì chứng tỏ oanh tạc có khả năng bẻ gãy ý chí của Hà Nội".

Trong khi đó, trên chiến trường miền Nam, gọng kìm "tìm diệt" mà quân Mỹ thực thi đã bị bẻ gãy ở miền Đông Nam Bộ và Phú Yên - Khu 5. Mục tiêu "bình định" nông thôn do quân ngụy đảm nhiệm trong đợt phản công lần thứ nhất, xem ra cũng bị bế tắc. Quân và dân miền Nam kết hợp chặt chẽ phương châm đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, đánh địch bằng “ba mũi giáp công” (quân sự, chính trị, binh vận) đã thu được nhiều kết quả. Đã phá vỡ kế hoạch bình định 900 ấp, củng cố 1.900 ấp trong năm 1966 do tổng thống Mỹ Giôn-xơn và Nguyễn Văn Thiệu nhất trí tại Hô-nô-lu-lu vạch ra từ ngày 20 tháng 4 năm 1965. Cuối tháng 4 năm 1966, trải qua gần một năm "tìm diệt" và "bình định" với cuộc phản công chiến lược quy mô lớn lần thứ nhất (mùa khô 1965- 1966) huy động tới hơn 70 vạn quân cả Mỹ và ngụy (14 sư đoàn, 9 lữ đoàn) gần 1.000 khẩu pháo, 1.342 xe tăng thiết giáp, 2.000 máy bay ra năm hướng ở Nam Bộ và Trung Trung Bộ, đội quân viễn chinh nhà nghề Mỹ chẳng những không thực hiện được mục tiêu "đánh gãy xương sống Việt cộng" mà còn bị quân và dân ta giáng đòn chí mạng: loại khỏi vòng chiến đấu 67.000 tên (có 35.000 lính Mỹ), bắn rơi, phá hủy 940 máy bay, bắn cháy và phá hỏng 5.000 xe quân sự, làm phá sản kế hoạch bình định của ngụy quyền Sài Gòn. Thất bại trong cuộc phản công mùa khô lần thứ nhất của đế quốc Mỹ là thất bại có tính chiến lược. Thất bại đó chứng minh: sức mạnh quân sự của Mỹ không thể nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam dù có áp dụng những chiến thuật tân kỳ gì đi nữa.

Nhưng với bản chất cực kỳ ngoan cố và hiếu chiến, đế quốc Mỹ vẫn chưa chịu từ bỏ dã tâm xâm lược, tiếp tục tăng quân và phương tiện chiến tranh vào miền Nam, leo thang đánh phá miền Bắc nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta. Mặt khác dù phương châm "đánh nhanh thắng nhanh” của Mỹ bước đầu bị thất bại, nhưng chúng đã gây cho phong trào đấu tranh cách mạng ở ba vùng chiến lược (đặc biệt là nông thôn đồng bằng) gặp không ít khó khăn tổn thất.

Để tiếp tục giữ vững và đẩy mạnh cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam phát triển lên một bước cao hơn nhằm đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, tháng 4 năm 1966, Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương đã xem xét kết qua hoạt động quân sự, chính trị trên chiến trường từ miền Trung Tây Nguyên đến đồng bằng Nam Bộ. Sau khi đánh giá mặt mạnh, mặt yếu của từng chiến trường trong hoạt động mùa khô lần thứ nhất (1965 -1966), Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương khẳng định: Chiến lược chiến tranh nhân dân chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đã động viên được hết thảy các tầng lớp nhân dân từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền núi, từ vùng tự do đến vùng địch tạm chiếm, phát huy cao độ lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc, kiên quyết đấu tranh một mất một còn chống thế lực xâm lược và bè lũ tay sai bán nước. Với ưu thế tuyệt đối về chính trị, tinh thần, các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã vận dụng linh hoạt sáng tạo hai hình thức đấu tranh chính trị và quân sự, phát huy có hiệu quả phương châm đấu tranh "hai chân, ba mũi, ba vùng", đánh giỏi thắng lớn, bước đầu làm thất bại chiến lược, ‘tìm diệt" của quân xâm lược Mỹ.

Tuy nhiên sự trưởng thành về mọi mặt của các chiến trường, các mặt trận không đồng đều. Ở chiến trường Đông Nam Bộ, nơi Mỹ - ngụy tập trung lực lượng đánh phá. Một mặt chúng mở các đợt hành quân "tìm diệt” sâu vào căn cứ kháng chiến chiến lược của ta, mặt khác, mở các cuộc bình đình nông thôn.

Ở chiến trường Khu 5, địa hình đồng bằng mỏng hẹp, xen kẽ núi non hiểm trở, dân cư nhiều chỗ thưa thớt, Mỹ - ngụy không "tìm diệt" dàn đều như ở miền Đông Nam Bộ mà thường chọn một vài tỉnh như Phú Yên, Bình Định, đánh phá ồ ạt quyết liệt; các nơi khác chúng dùng hỏa lực phi pháo và chất độc hóa học chà xát, hủy diệt. Song các cấp bộ Đảng, chính quyền và lực lượng vũ trang nhân dân ở các chiến trường này, với tinh thần tiến công "tìm Mỹ mà diệt, tìm ngụy mà đánh" đã luôn giành được thế chủ động trong mọi tình huống, phá tan được hầu hết các cuộc hành quân "đánh nhanh thắng nhanh" của địch.

Trong khi đó trên chiến trường Trị - Thiên - Huế, mặc dù Mỹ - ngụy không tập trung "tìm diệt" lớn như các chiến trường khác, nhưng do nhìn nhận đánh giá địch, ta không thống nhất, nhiều lúc hữu khuynh, dẫn tới việc vận dụng sai lệch phương châm, phương pháp tiến hành chiến tranh cách mạng. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo cho rằng quân Mỹ tiến hành "chiến tranh cục bộ" bằng những phương pháp tác chiến hiện đại đã gây nhiều khó khăn cho các hình thức đấu tranh của ta. Nếu ta sử dụng lực lượng (kể cả lực lượng quân sự và lực lượng chính trị) tiến công, dễ bị chúng bao vây tiêu diệt. Một bộ phận khác thì muốn bí mật xây dựng cơ sở cách mạng trong quần chúng, chờ dịp thuận lợi sẽ nổi dậy tiến công địch. Do vậy, trong suốt mùa khô 1965 – 1966, địch ở Trị - Thiên -Huế yếu, quân viễn chinh Mỹ tập trung không nhiều (dao động từ 1 đến 2 trung đoàn), nhưng việc sử dụng ba thứ quân hoạt động tác chiến trên ba vùng chiến lược phối hợp với toàn Miền đã không được phát động đồng đều. Hầu hết bộ đội chủ lực (Trung đoàn 9, Trung đoàn 57, tiểu đoàn 806 v.v...) đứng chân trên các vùng giáp ranh Thừa Thiên - Huế đã không chủ động tiến công địch. Nhiều đội vũ trang công tác nằm vùng xây dựng lực lượng dân quân du kích và các đồn thể cách mạng đã không nhận được chỉ thị phát động quần chúng đấu tranh chống địch, làm cho tình thế cách mạng ở Trị - Thiên - Huế không những không mạnh lên mà còn có chiều hướng suy giảm.

Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ cách mạng toàn Miền và vị trí vai trò của từng khu vực trong thời kỳ mới, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã chỉ thị cho các chiến trường Nam Bộ, Khu 5, Tây Nguyên tiếp tục tăng cường giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng cho quân và dân trong từng khu vực nhận thức rõ bản chất của chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, những điểm mạnh, điểm yếu của quân viễn chinh và các nước đồng minh của chúng, từ đó ra sức chuẩn bị tinh thần, vật chất kỹ thuật, chiến thuật cho chiến đấu, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, đánh bại các hoạt động quân sự mới của Mỹ - ngụy. Đồng thời, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định tách chiến trường Trị - Thiên ra khỏi Khu 5, thành lập Khu ủy Trị - Thiên, bao gồm các Đảng bộ Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế đặt dưới sự chỉ đạo của Trung ương, nhanh chóng khôi phục và phát triển phong trào đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị trên ba vùng chiến lược. Bộ Chính trị ủy nhiệm cho Quân ủy Trung ương trực tiếp chỉ đạo mọi mặt đối với Khu ủy Trị - Thiên.

Căn cứ nhiệm vụ của Bộ Chính trị giao cho, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Quân khu Trị -Thiên đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Khu ủy Trị -Thiên do thiếu tướng Trần Văn Quang, ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Khu ủy kiêm Tư lệnh Quân khu phụ trách. Quân ủy Trung ương xác định nhiệm vụ cho chiến trường Trị - Thiên: "Tiêu diệt và làm tan rã phần lớn quân ngụy, tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ; ra sức chuẩn bị lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang thành phố để phục vụ kế hoạch tổng công kích và tổng khởi nghĩa khi có điều kiện chín muồi... Cắt đứt đường giao thông chiến lược của địch, xây dựng đường hành lang của ta, giành thắng lợi về mọi mặt và tạo nên một tình thế mới trên chiến trường Trị - Thiên, phối hợp tốt với các chiến trường khác trong mọi tình huống (kể cả tình huống đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh trên đất liền ra Trung Lào - Hạ Lào) (Chú thích: Nghị quyết của Thường trực Quân ủy Trung ương về nhiệm vụ chiến trường Trị - Thiên tháng 4, 5, 6 - 1966, TLN, Viện lịch sử quân sự Việt Nam, KH. TW 480.).
Việc tách chiến trường Trị - Thiên khỏi Khu 5 và việc thành lập Khu ủy Trị - Thiên, tiếp đó là Quân khu ủy Trị - Thiên ngay sau mùa khô 1965- 1966 của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chẳng những chứng minh sự phân tích đúng đắn tình hình ta, địch trên chiến trường toàn Miền và từng khu vực, quan điểm phát triển chiến tranh nhân dân toàn diện trong tình hình mới mà còn sớm khắc phục tình hình đấu tranh cách mạng “ở Trị - Thiên tiến triển chậm, trong điều kiệu địch ở đây yếu hơn các chiến trường khác", nhanh chóng "đẩy mạnh tư tưởng tiến công địch về quân sự, đấu tranh chính trị thích hợp với hồn cảnh của Trị - Thiên” (Chú thích: Quân khu 4 - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 -1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr 160.)

Tháng 5 năm 1966, ngay sau khi thành lập, Khu ủy và Quân khu ủy Trị - Thiên đã chủ trương đẩy mạnh hoạt động trong những tháng đầu hè - thu năm 1966 để phối hợp với quân và dân toàn miền phá thế chuẩn bị mùa khô tới của địch. Bộ đội địa phương tỉnh, huyện Thừa Thiên - Huế đứng chân ở các vùng giáp ranh bí mật luồn sâu xuống các huyện Quảng Điền, Hương Trà, Hương Thủy... cùng dân quân du kích đẩy mạnh tác chiến nhỏ lẻ, hỗ trợ nhân dân nổi dậy diệt ác phá kìm giành quyền làm chủ. Một số khu vực có quân Mỹ chiếm đóng lớn như Phú Bài, Đồng Lâm, cấp uỷ Đảng, chính quyền, các tổ vũ trang công tác và du kích địa phương vận động nhân dân xây dựng "vành đai diệt Mỹ”, quấy rối, bắn tỉa, đấu tranh chống địch bắn phá bừa bãi, gây tâm lý hoang mang trong hàng ngũ của chúng.

Đầu tháng 6 năm 1966, bộ đội tiểu đoàn 6 Trung đoàn 6 chủ lực quân khu được lực lượng vũ trang địa phương hỗ trợ đánh bại một tiểu đoàn Mỹ càn quét xã Phong Chương bắn rơi 4 máy bay. Bộ đội đặc công tỉnh tập kích kho hậu cần dã chiến ở An Cựu, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên. Ba huyện miền núi xây dựng và phát triển 45 tổ phục kích đánh máy bay, cùng hàng trăm dân quân cơ động phối hợp với bộ đội địa phương bao vây đồn bốt, bắn tỉa, gài chông bẫy tiêu hao nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy.

Đặc biệt cuối tháng 6 năm 1966, Trung đoàn 6 đã sử dụng tiểu đoàn 2 và các đại đội công binh, trinh sát, hỏa lực của trung đoàn do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Quốc Khánh chỉ huy, tổ chức trận phục kích giao thông đoạn Cẩu Nhi quốc lộ số 1.

Sáng ngày 29 tháng 6, đúng lúc bộ đội ta vừa chiếm lĩnh xong trận địa thì 26 xe GMC chở đầy lính (có 2 xe M113 dẫn đường) từ Huế ra ứng cứu cho Đường 9 - Quảng Trị đi tới. Bộ đội ta được lệnh tổ chức đánh ngay. Đợi cho đồn xe địch đi vào trung tâm khu vực Cẩu Nhi, các tổ hỏa lực và công binh chặn đầu, khóa đuôi mới giật mìn, nổ súng. Bọn địch ở hai đầu chưa kịp hồn hồn, hai đại đội bộ binh ta ở chính diện được lệnh xung phong diệt hết xe này đến xe khác. Sau gần 15 phút chiến đấu cả 28 xe đều bị bắn cháy, phá hủy, tiểu đoàn 2 lính thủy đánh bộ gần như bị tiêu diệt gọn. Hãng AFP ngày 4 tháng 7 nhận xét "Đây là trận đánh giao thông lớn nhất kể từ khi lính viễn chinh Mỹ hành quân ra các tỉnh cực bắc vùng 1 chiến thuật”.

Kết quả hoạt động quân sự và hoạt động chính trị trong hai tháng 5 và 6 năm 1966 trên chiến trường Trị -Thiên (chủ yếu là Thừa Thiên - Huế) không chỉ chứng tỏ sự chỉ đạo nhạy bén, kịp thời của Khu ủy, Quân khu ủy Trị - Thiên ngay sau khi được thành lập, mà còn là cơ sở thuận lợi để quân dân ở đây xây dựng, phát triển chiến tranh nhân dân toàn diện, rộng khắp trong tình hình mới.

Tiếp sau hai tháng Khu ủy, Quân khu ủy Trị -Thiên thành lập, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ủy nhiệm cho Quân ủy Trung ương họp bàn thành lập Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị - gọi tắt là Mặt trận B5 gồm từ vĩ tuyến 17 đến bắc sông Thạch Hãn, từ Cửa Việt đến Khe Sanh - Hướng Hóa, nhằm "Tạo nên một hướng tiến công mới của ta vào nơi yếu của địch trên chiến trường miền Nam, buộc địch phải phân tán lực lượng lên rừng núi, thực hiện tiêu diệt chiến lược đối với quân cơ động chiến lược của địch bằng lực lượng chủ lực mạnh của ta ở miền Bắc, tạo điều kiện cho các chiến trường khác - trực tiếp nhất là vùng đồng bằng Trị - Thiên, làm cho địch bị động càng bị động hơn, ngăn chặn âm mưu của chúng mở rộng chiến tranh trên bộ ra miền Bắc, đặc biệt là vùng Quân khu 4 của ta”. (Chú thích: Nghị quyết của Thường trực Quân ủy Trung ương về nhiệm vụ chiến trường Trị - Thiên tháng 4, 5, 6, năm 1966. TLN tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam KH-TƯ).

Để đi tới một quyết định đúng đắn cho việc mở một hướng tiến công chiến lược mới liên quan đến tình thế chung toàn Miền và một số tỉnh cực nam hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa, Quân ủy Trung ương đã thảo luận kỹ diễn trình tác chiến giữa các lực lượng vũ trang nhân dân ta với quân viễn chinh Mỹ, kể từ khi chúng tiến hành chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam. Trong đó đặc biệt chú trọng giai đoạn Bộ chỉ huy viễn chinh Mỹ huy động 12 vạn quân (trong tổng số 18 vạn quân Mỹ) mở cuộc phản công chiến lược "tìm diệt" vào hai hướng miền Đông Nam Bộ và một số tỉnh đồng bằng Khu 5 mùa khô 1965 - 1966.

Do sớm nhận định đúng: miền Đông Nam Bộ và đồng bằng Trung Trung Bộ là những địa bàn chiến lược nơi có vùng giải phóng rộng lớn và là nơi bộ đội chủ lực ta hoạt động mạnh, trực tiếp uy hiếp hậu phương chiến lược Mỹ - ngụy nên quân và dân ta trên các hướng chiến lược đã chủ động đánh địch làm cho quân Mỹ không những không "tìm diệt” được bộ đội chủ lực ta, mà còn bị thiệt hại nặng nề.

Ta đã tiêu diệt, tiêu hao được một số lượng lớn sinh lực và phương tiện chiến tranh của quân viễn chinh Mỹ. Nhưng trên thực tế ta chưa diệt gọn được từng đại đội và tiểu đoàn quân Mỹ. Trong khi đó, ở một số vùng đồng bằng, miền núi nằm ở tâm điểm đánh phá của quân Mỹ, các căn cứ kháng chiến, các cơ sở quần chúng cách mạng của ta bị đánh phá nhiều lần, có nơi lực lượng vũ trang địa phương phải tạm thời rút lui bảo toàn lực lượng.

Qua diễn biến phức tạp của chiến trường, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã từng bước triển khai các biện pháp chiến lược, cùng với việc bố trí lực lượng chiến lược. Tăng cường củng cố xây dựng, mở rộng Mặt trận miền Đông Nam Bộ (Mặt trận B2), mặt trận Tây Nguyên (Mặt trận B3)...
Qua tác chiến mùa khô 1965 – 1966, các chiến trường này đã thu được những thắng lợi to lớn về quân sự và chính trị, giữ vững thế tiến công chiến lược, tạo điều kiện quan trọng cho chiến tranh nhân dân địa phương phát triển. Trong Hè - Thu 1966 này, khi Nhà Trắng và Lầu Năm Góc tiếp tục tăng quân viễn chinh lên 28 vạn tên (tính trung bình mỗi tháng quân Mỹ vào một vạn tên), thì việc quyết định mở thêm Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương là một chủ trương mạnh bạo, một đóng góp mới vào việc đẩy mạnh thế tiến công của ta, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của địch, có tác dụng làm cho quân Mỹ không đủ quân để triển khai ở đồng bằng Nam Bộ, đồng thời ngăn chặn âm mưu của đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh trên mặt đất ra miền Bắc. Có thể nói, việc nhận định đánh giá chiến trường miền Đông Nam Bộ là hướng chiến lược chủ yếu và Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị là hướng tiến công chiến lược quan trọng của Đảng ta đã thể hiện sự điều hành chiến tranh một cách chủ động trong lúc quân Mỹ đang tăng quân ồ ạt.

Trên trục đường số 1 từ cầu Quảng Trị (sông Thạch Hãn) đến nam cầu Hiền Lương (sông Bến Hải), Mỹ - ngụy đã xây dựng các căn cứ quân sự: Ái Tử, Đông Hà, và các chốt điểm Ngã Tư Sòng, Quán Ngang, Dốc Miếu, đồi 31... trên mật độ khá dày (cách nhau từ 5 đến 7 km). Trên trục đường 9 chiến lược nối biển Đông (Việt Nam) với Xa Van Na Khệt (Lào) chia Đông Dương thành hai miền Nam - Bắc, Mỹ - ngụy (kể cả ngụy Lào) sớm nhận ra “sức mạnh của bức tường thép khổng lồ ngăn chặn sự xâm nhập của cộng sản từ phương Bắc” đã đốc thúc hàng chục nghìn binh lính củng cố và mở rộng căn cứ quân sự liên hồn Cửa Việt, Đông Hà, Cam Lộ, Khe Sanh (Việt Nam), Bản Đông, Mường Phìn, Pha Lan, Đồng Hến, Sê Nô (Lào). Ngồi các căn cứ quân sự mạnh kể trên, ở phía bắc đường 9, Mỹ - ngụy còn cho quân lính nống ra vùng giáp biên, giáp vĩ tuyến 17, xây dựng các chốt điểm Bái Sơn, Cồn Tiên, điểm cao 182 (khu đông); Đồng Trị, các điểm cao 660, 850 (khu tây) để ngăn chặn đối phương từ xa.

Cùng với việc ra sức củng cố xây dựng hệ thống căn cứ quân sự ở Đường 9 - Bắc Quảng Trị, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Nam Việt Nam cũng bắt đầu cho các đơn vị viễn chinh Mỹ ở Chu Lai, Đà Nẵng ra Quảng Trị thực thi “phòng thủ” và "tiến công hạn chế" giành quyền chủ động. Cuối tháng 4 năm 1966 chúng bố trí ở đây 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, 1 lữ đoàn thiện chiến thuộc lực lượng dự bị chiến lược ngụy và lực lượng địa phương quân. Nhưng đến cuối tháng 6 đầu tháng 7 năm 1966, sau khi “hông phía bắc (Quảng Trị) của lực lượng đồng minh Nam Việt Nam bị đe dọa", Bộ chỉ huy cụm các lực lượng lính thủy đánh bộ số 3 ở Đà Nẵng lập tức điều động trung đoàn 3 thuộc sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ đang làm nhiệm vụ ‘tìm diệt” Quân giải phóng tại Quảng Ngãi, Tam Kỳ, 4 tiểu đoàn tổng dự bị chiến lược ngụy, với sự hậu thuẫn đắc lực của sư đoàn 1 bộ binh thuộc vùng 1 chiến thuật, cùng hàng trăm khẩu pháo và xe thiết giáp tăng cường đến "biên giới" phía bắc ngăn ngừa sự tiến công của ta.

Mỹ - ngụy tăng cường ồ ạt binh lực và phương tiện chiến tranh ra chiến trường Quảng Trị trong một thời gian ngắn (tháng 6 và tháng 7 năm 1966) đã chứng minh sự đoán định tài tình của Quân ủy Trung ương và Đảng ủy Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị về đặc điểm tính chất của chiến trường quan trọng này. Nhận định nêu rõ: Cuộc chiến tranh cách mạng chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân cả nước ta không chỉ là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc thống nhất Tổ quốc, mà còn là cuộc đọ sức quyết liệt giữa hai chế độ: chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ tư bản chủ nghĩa.

Tính chất phức tạp đó lại được nhân lên gấp bội khi lực lượng vũ trang ta và địch đều có hậu phương chiến lược cận kề đối diện nhau, trong thời gian nhất định có thể huy động được một lực lượng lớn theo yêu cầu về binh lực và phương tiện chiến tranh vào cuộc chiến. Quán triệt tầm quan trọng đặc biệt của hướng tiến công chiến lược này. Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã ra nghị quyết: “lãnh đạo chỉ huy lực lượng trong biên chế tăng cường mở cuộc tiến công liên tục vào địch nhằm tiêu hao, tiêu diệt và cầm chân một lực lượng địch càng lớn càng tốt tại đường 9, thực hiện phương châm căng địch ra mà đánh, phối hợp đắc lực với các chiến trường, hỗ trợ có hiệu quả với phong trào du kích chiến tranh ở đồng bằng Trị Thiên”. (Chú thích: Nghị quyết Đảng ủy Mặt trận B5 tháng 6 năm 1966. TLN tại kho K4 - Bộ Quốc phòng - HS8.).

Trước mắt Mặt trận quyết định tập trung lực lượng mở cuộc tiến công vào những nơi hiểm yếu trên tuyến phòng ngự đường 9 - Bắc Quảng Trị để mở thông đường vận chuyển chiến lược Trường Sơn, chi viện kịp thời sức người, sức của cho chiến trường miền Nam. Rõ ràng khi đế quốc Mỹ thực hiện “chiến tranh cục bộ”, huy động hàng vạn quân mở hàng loạt các cuộc hành quân “tìm diệt” lực lượng vũ trang cách mạng, thì nhân dân miền Nam trước đã cần, nay lại càng cần hơn sự chi viện to lớn, toàn diện về vật chất và tinh thần của hậu phương miền Bắc. Đế quốc Mỹ và tay sai biết rõ nguồn sống chiến lược đó của cách mạng miền Nam nên chúng khẳng định: “ngày nào Mỹ còn ở Việt Nam thì ngày đó Mỹ còn duy trì củng cố tuyếnl phòng thủ Đường 9 - Bắc Quảng Trị" Và “chúng sẽ nỗ lực tới mức cao nhất để chặt đứt tuyến đường vận chuyển chiến lược Trường sơn của ta” (Chú thích: Nghị quyết Đảng ủy Mặt trận B5 tháng 6 năm 1966, TLN tại kho K-4 Bộ Quốc phòng - HS8.).

Do đó, “cuộc chiến đấu ở đây chẳng những có tính chất ác liệt mà còn có tính chất lâu dài". Với tính chất đặc trưng của chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị, Quân ủy Trung ương đã xác định cho Bộ tư lệnh Mặt trận: Trên cơ sở quán triệt phương châm đánh lâu dài, cần phải tạo thời cơ đánh nhanh, đánh mạnh với mức độ quy mô ngày càng lớn, về chiến lược nhằm thúc đẩy cuộc chiến tranh cách mạng phát triện lên một bước cao hơn. Thực hiện tốt phương thức tác chiến chiến lược đó, Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị không chỉ tạo điều kiện cho các vùng nông thôn đồng bằng Trị -Thiên khôi phục phát triển phong trào cách mạng của quần chúng, mà còn phối hợp với toàn miền phá thế củng cố lực lượng trong mùa mưa của Mỹ - ngụy.

Chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị lúc đầu được Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh giao cho Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 4 trực tiếp chỉ huy và điều hành lực lượng chiến đấu. Xuất phát từ vị trí vai trò đặc biệt quan trọng (có tính đặc thù) của chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 4 được sự ủy quyền của Quân ủy Trung ương đã quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân khu tiền phương (còn gọi là đảng ủy, Bộ Tư lệnh Mặt trận X) bao gồm các đồng chí: đại tá Nam Long, Phó tư lệnh Quân khu 4 làm Tư lệnh, đại tá Quách Sĩ Kha, Chủ nhiệm chính trị Quân khu làm chính ủy, thượng tá Chu Phương Đới, Sư đoàn trưởng Sư lồn 234 làm phó tư lệnh, thượng tá Nguyễn Tiến Lợi, Chính ủy sư đoàn 324 làm phó chính ủy. Hai đồng chí Trương Chí Công, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị và Hồ Sĩ Thản, bí thư Khu ủy Vĩnh Linh được chỉ định vào Đảng ủy Mạt trận.

Cán bộ cấp Cục hầu hết được điều động từ Bộ tư lệnh Quân khu 4 và các sư đoàn lên. Các đồng chí: Nguyễn Công Tranh được cử giữ chức Chủ nhiệm chính trị Mặt trận. Duy Sơn, Tham mưu trưởng, Chí Cường, chủ nhiệm hậu cần. Đối với sở chỉ huy, dựa vào thế bố chí chiến lược ở vùng Nam Quân khu 4 và chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị, Bộ tư lệnh Mặt trận đã chọn khu vực chợ Cổn (tây thị xã Quảng Bình 8km) làm sở chỉ huy cơ bản; khu vực Mỹ Lộc, xã Vĩnh Chấp (Vĩnh Linh) chọn làm sở chỉ huy tiền phương. “Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị mở ra sự phát triển mới của chiến trường Trị - Thiên, đặt vùng đất Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Vĩnh Linh trở thành hậu phương trực tiếp, trong đó Quảng Bình và Vĩnh Linh trở thành hậu phương chiến dịch" (Chú thích: Quân khu 4 - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1994. Tr 162, 163.). III. Đẩy mạnh hoạt động quân sự, chính trị thu hút, giam chân địch.

Căn cứ phương châm chiến lược của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, giữa tháng 6 năm 1966, Đảng ủy Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã họp phiên đầu tiên dưới sự chủ trì của đại tá Quách Sĩ Kha, Chính ủy Mặt trận, bàn về phương thức, biện pháp hoạt động của các lực lượng vũ trang trên chiến trường này. Sau khi phân tích tình hình địch, ta trên chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị, hội nghị xác định: Chủ trương đưa bộ đội chủ lực (có sự phối hợp và hỗ trợ chặt chẽ của bộ đội địa phương và dân quân du kích tỉnh Quảng Trị) là hồn toàn đúng đắn sáng tạo. Chủ trương đó, nếu được thực hiện tốt chẳng những thu hút, giam chân được một bộ phận quan trọng quân chủ lực địch (chủ yếu là quân Mỹ) ra chiến trường vùng cực bắc, tạo điều kiện cho các lực lượng vũ trang ở Nam Trung Bộ hoạt động đánh bại các cuộc hành quân "tìm diệt” của Mỹ - ngụy, mà còn tạo thời cơ để củng cố, xây dựng lực lượng cách mạng (đặc biệt là lực lượng dân quân du kích nằm vùng) ở tỉnh Quảng Trị. Đồng thời, hội nghị cũng đưa ra những dự kiến khi ta hoạt động mạnh, Mỹ - ngụy sẽ phản ứng như thế nào, mức độ ác liệt tới đâu để tìm cách khắc phục hạn chế tới thức thấp nhất những thiệt hại có thể xảy ra.

Để triển khai nghị quyết đảng ủy Mặt trận, ngày 20 tháng 6 năm 1966, Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 -Bắc Quảng Trị đã tổ chức hội nghị quân chính mở rộng tới cấp tiểu đoàn, bí thư huyện Cam Lộ, Do Linh, các huyện đội trưởng và các phái viên Bộ Tổng Tham mưu. Đại tá Nam Long, Tư lệnh Mặt trận đã nêu bật những khó khăn, thuận lợi của các lực lượng vũ trang nhân dân trên địa bàn Quảng Trị, chủ yếu đi sâu vào các đơn vị bộ đội chủ lực chuẩn bị bước vào tác chiến.

- Sư đoàn 324 (bộ đội chủ lực Quân khu 4) tăng cường cho Mặt trận, có nhiệm vụ "Phối hợp với các lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Trị tiêu diệt một bộ phận quân ngụy, kéo chủ lực Mỹ ra Đường 9, giam chân tiêu diệt chúng, buộc chúng phải bị động đối phó và tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường và làm chỗ dựa cho phong trào đấu tranh chính trị ở đồng bằng Trị - Thiên, củng cố xây dựng căn cứ ở miền núi, mở rộng hành lang vận chuyển của ta" (Chú thích: Lịch sử Sư đoàn 324, Nxb Quân đội nhân dân. Hà Nội 1992 tr.39, 40.)

Trung đoàn 31 cũng là lực lượng của Quân khu 4 tăng cường, phân tán nhỏ lẻ thành các trung đội, đại đội luồn sâu vào trong lòng địch móc nối, xây dựng dân quân du kích, hỗ trợ lực lượng vũ trang địa phương (các đội vũ trang công tác huyện, tỉnh) với phương châm “tích cực, chủ động, đánh nhỏ lẻ, liên tục bằng mọi hình thức (kể cả công tác binh vận), xây dựng cơ sở cách mạng. Phát động chiến tranh du kích, nhằm tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận nhỏ quân địch" (Chú thích: Nghị quyết Đảng ủy Mặt trận B5, Sơ kết quý 3 năm 1966. (10-1966). Lưu tại kho K4 Bôk Quốc phòng. HS8.).

- Các tiểu đoàn 27 Vĩnh Linh, đặc công, công binh, thông tin, vận tải của Bộ tăng cường cho Mặt trận sẵn sàng làm nhiệm vụ phối thuộc hoặc độc lập tác chiến nhỏ lẻ trên từng hướng (chủ yếu là vùng sau lưng địch).

Căn cứ nhiệm vụ trên giao, Bộ tư lệnh Mặt trận quyết định đưa toàn bộ Sư đoàn 324 vào hoạt động tác chiến trên các khu vực giáp ranh đồng bằng và miền núi tỉnh Quảng Trị.

- Khu vực 1: từ Đầu Mầu, Cam Lộ ra Cù Đinh, Ba De. Trên khu vực hoạt động này, Sư đoàn 324 chọn căn cứ Đầu Mầu và điểm cao 402 (nằm ngay cạnh Đường 9) do 2 đại đội biệt động quân chốt giữ làm mục tiêu chủ yếu châm ngòi kéo địch vào vòng chiến theo ý đồ chiến lược: giam chân, thu hút một bộ phận quan trọng Mỹ - ngụy. Nhiệm vụ quan trọng này được giao cho Trung đoàn 90 (còn gọi là Trung đoàn 1), có đại đội đặc công của sư đoàn tăng cường.

- Khu vực 2: gồm Cùa và Tân Lâm, do Trung đoàn 812 (còn gọi là Trung đoàn 2) đảm nhiệm, có nhiệm vụ tiêu diệt đồn Cùa và đánh sập một vài cây cầu trên đường 9. Mặc dù đây là “hướng phụ” nhưng nếu cán bộ, chiến sĩ chủ quan, không có kế hoạch chặn địch tốt, sơ hở để chúng tạt sườn thì Trung đoàn 90 sẽ không rảnh rang đột phá dứt điểm Đầu Mầu, điểm cao 402, ảnh hưởng rất lớn đến ý đồ hoạt động toàn mặt trận.

Trung đoàn 803 (còn gọi là Trung đoàn 3) và một số tiểu đoàn trực thuộc sư đoàn (trừ một vài phân đội đi phối thuộc) làm lực lượng dự bị và công tác bảo đảm cho các đơn vị ở phía trước.

Toàn bộ khu vực hoạt động tác chiến của sư đoàn có 5 tiểu đoàn biệt động quân, 6 đại đội địa phương quân đóng chốt, ngăn chặn lực lượng vũ trang địa phương ta (đặc biệt là du kích) hoạt động, đồng thời kìm kẹp nhân dân ta trong các khu tập trung ở Cam Lộ và Cùa.

Để tạo điều kiện cho hướng chính hoạt động, Bộ tư lệnh Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị đã cho 2 tiểu đoàn (thiếu) của Trung đoàn 31 vào Cồn Tiên, Dốc Miếu yểm trợ cho 2 đại đội hỏa lực cối ĐKZ82 bắn chế áp các trận địa pháo, nghi binh phân tán sự đối phó của địch.

Sau một tuần chuẩn bị chiến trường, khai mở các cung chặng vận chuyển, lót ổ gạo đạn, các trung đoàn 1 và 2 (Sư đoàn 324) được lệnh hành quân chiếm lĩnh trận địa. Mặc dù gặp một số sự cố như lạc đường, vấp mìn, pháo địch bắn vào đội hình, nhưng sau gần 10 giờ hành quân liên tục, xử lý các tình huống tốt, hai trung đoàn đã vào vị trí quy định, triển khai đội hình chiến đấu.

5 giờ sáng ngày 26 tháng 6 năm 1966, tiếng súng tiến công địch trên mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị bắt đầu. Mở màn, tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 1) cùng với đại đội đặc công của sư đoàn do tiểu đoàn trưởng Lê Văn Toàn và chính trị viên Lê Quốc Huy chỉ huy bất ngờ đột kích căn cứ Đầu Mầu, tiêu diệt gọn đại đội biệt động quân, thu 30 súng các loại, làm chủ trận địa.
Mất chốt điểm quan trọng trên trục đường số 9, cuối tháng 6 và đầu tháng 7, bọn địch ở Đông Hà và thị xã Quảng Trị vội vàng đưa quân đi giải tỏa. Ngày 9 tháng 7 địch dùng hàng trăm trực thăng đổ quân xuống đường 9 thuộc địa phận Cam Lộ. Riêng khu vực lèn 300 đất và lèn 300 đá (bắc đường 9) chúng đổ xuống 1 tiểu đoàn. Địch vừa chạm đất thì đã bị tiểu đoàn 7 bố trí sẵn nổ súng tiêu diệt nhiều tên.

Cùng thời gian trên, phối hợp với Trung đoàn 1 ở Đầu Mầu, Trung đoàn 2 được bộ đội địa phương và du kích huyện Cam Lộ hỗ trợ đánh vào một loạt vị trí ở Cùa, Miếu Hòa , O Giang, Bản Hiệu, Phượng Nghĩa... diệt và làm bị thương gần 200 tên. Các đại đội hỏa lực của mặt trận và Trung đoàn 31 bắn hàng trăm quả cối 82, ĐKZ75 vào căn cứ Cồn Tiên, Dốc Sỏi, Dốc Miếu, gây cho địch nhiều thiệt hại.

Đợt tiến công châm ngòi của quân và dân ta trên Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị làm cho Bộ chỉ huy quân sự Mỹ buộc phải rút bớt lực lượng ở miền Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ ra Quảng Trị ứng cứu quân ngụy. Chỉ trong một tháng, chúng đã đưa 3 trung đoàn (của 2 sư đoàn 1, 3) lính thủy đánh bộ Mỹ và sư đoàn dù (thiếu) lực lượng tổng dự bị của quân ngụy cấp tốc ra Trị - Thiên (chủ yếu là Quảng Trị) nâng tổng số quân địch trên chiến trường Trị - Thiên lên 41.000 tên, trong đó có 16.700 lính Mỹ (Chú thích: Quân khu 4 lịch sử kháng chiến chống Mỹ, sách đã dẫn tr. 172.).

Từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 6 năm 1966, Mỹ -ngụy mở hàng trăm cuộc hành quân nhỏ và vừa ra các vùng miền Đông Nam Bộ, Trung Trung Bộ, Tây Nguyên và Trị - Thiên. Với “kế hoạch phá tan" cuộc chiến tranh nhân dân (chủ yếu là chiến tranh du kích) đang phát triển mạnh mẽ, đều khắp ngay từ đầu mùa mưa 1966, Mỹ - ngụy những tưởng có thể giải vây cho các căn cứ lớn, các trục đường giao thông, giữ vững được thế phòng ngự hiện trạng, chuẩn bị cho cuộc phản công mùa khô hai (1966 - 1967). Nhưng mọi cuộc hành quân càn quét đều mang tính bị động và đã bị lực lượng vũ trang giải phóng đánh bại.

Ở miền Bắc, trong ba tháng 6, 7, 8 năm 1966 số lượng máy bay và số trận máy bay leo thang đánh phá tăng gấp hai đến ba lần so với thời gian Hè - Thu 1965, trung bình ngày chúng sử dụng 200 đến 250 lần chiếc máy bay cất cánh, ngày cao nhất có tới 400 lần chiếc, đánh phá hầu hết các thành phố, thị xã và tuyến đường giao thông quan trọng từ Vĩnh Linh đến Lạng Sơn. . .

Tình hình chiến sự sôi động ở hai miền Nam -Bắc Việt Nam đã tác động mạnh mẽ đến nội tình nước Mỹ, làm cho phong trào chống chiến tranh của các tầng lớp nhân dân Mỹ lên cao, nội bộ chính quyền Giôn-xơn phân tán sâu sắc. Phái “diều hâu” hiếu chiến tiếp tục hò hét đẩy mạnh chiến tranh, đòi ném bom mạnh hơn nữa vào Hà Nội, Hải Phòng, yêu cầu đưa quân viễn chinh vào Lào, Cam-pu-chia, thậm chí ra cả Bắc Việt Nam, đòi tăng quân Mỹ lên 49 vạn rồi 57 vạn... phái Mắc Na-ma-ra tỏ ra thực tế và dè dặt hơn sau thất bại đầu tiên của cuộc "chiến tranh cục bộ”, Mác Na-ma-ra chủ trương chiến tranh có giới hạn và đưa ra đề nghị 5 điểm: ổn định mức quân số Mỹ là 47 vạn; thiết lập hàng rào điện tử chống xâm nhập một tỷ đô-la ở vĩ tuyến 17; ổn định "chương trình sấm rền" đành phá miền Bắc ở mức độ 12.000 chuyến bay trong một tháng và xét việc ngừng ném bom miền Bắc kết hợp với việc vận động thương lượng; tiến hành một chương trình bình định mạnh mẽ; gây sức ép đòi thương lượng. Mác Na-ma-ra chán nản cho rằng "khó mà trông mong cuộc chiến tranh có thể đi đến chỗ kết thúc một cách thỏa đáng trong vòng hai năm nữa". Tổng thống Giôn-xơn và một số quan chức theo "đường lối dung hòa” bác bỏ đề nghị tăng quân lên 57 vạn của Oét-mo-len, tán thành hạn chế quân số ở mức 47 vạn nhưng không đồng ý giảm bớt mức độ ném bom miền Bắc.

Trước giới lãnh đạo Mỹ đã có ý kiến khác nhau, công chúng Mỹ bắt đầu tỏ ra bi quan về tình hình và triển vọng của cuộc chiến tranh. Mặc dù vậy, đế quốc Mỹ vẫn bất chấp dư luận trong nước và thế giới. Tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh, giữ vững thế phòng ngự mùa mưa, ráo riết chuẩn bị mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai. Mùa hè năm 1966, đồng thời với việc điều động gấp sang chiến trường Việt Nam thêm 10 vạn quân, đế quốc Mỹ còn leo thang bắn phá miền Bắc. Ngày 29 tháng 6 năm 1966, đế quốc Mỹ cho máy bay ném bom bắn phá 52 điểm trên miền Bắc, trong đó có hai mục tiêu quan trọng là kho xăng Đức Giang ở thủ đô Hà Nội và kho xăng Thượng Lý (Hải Phòng).

Trước tình hình đế quốc Mỹ ồ ạt tăng cường lực lượng vào miền Nam và leo thang đánh phá miền bắc cực kỳ nghiêm trọng, đầu tháng 7 năm 1966, Hội đồng Quốc phòng tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hòa họp tại thủ đô Hà Nội dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh: bàn biện pháp huy động toàn quân, toàn dân đánh bại những âm mưu, thủ đoạn mới của địch. Sau khi nghe báo cáo về tình hình chiến đấu, sản xuất của quân và dân hai miền Nam Bắc, Hội đồng đã quyết định những chủ trương lớn nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Ngày 17 tháng 7 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi quân và dân cả nước đồn kết một lòng quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược. Người chỉ rõ: "Giôn-xơn và bè lũ phải biết rằng chúng có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam, chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không lay chuyển được ý chí sắt đá quyết tâm chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng..." (Chú thích: Hồ Chí Minh tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội 1980, tr 2.430.). Người khẳng định: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hồng hơn, to đẹp hơn".

Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ý chí sắt đá của nhân dân cả nước ta tập trung toàn lực quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc tiến tới thống nhất nước nhà.

Đáp lời kêu gọi thiêng liêng "Không có gì quý hơn độc lập tự do" của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lệnh tổng động viên cục bộ của Nhà nước, quân và dân cả nước nói chung, quân và dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị nói riêng, bước vào cuộc chiến đấu một mất một còn với giặc Mỹ xâm lược.
Thượng tuần tháng 7 năm 1966, sau khi nắm được Bộ chỉ huy Mỹ ở miền Nam đưa hơn 4 vạn tên địch (có gần một nửa là lính Mỹ) ra Trị - Thiên (chủ yếu là Quảng Trị), Bộ chỉ huy Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị nhận định: Quân Mỹ đưa những đơn vị thiện chiến nhất ra Quảng Trị nhằm mục đích “ngăn chặn", "tìm diệt” quân chủ lực, đánh phá phong trào cách mạng của nhân dân địa phương, chúng còn có ý đồ gì? Trong khả năng nhất định, chúng có dám liều lĩnh đưa bộ binh ra đánh phá miền Bắc không? Nếu có thì chúng sẽ dùng lực lượng như thế nào, không gian hoạt động tới đâu? Với bản chất hiếu chiến, phiêu lưu như giặc Mỹ, những dự đoán của các thành viên trong Bộ tư lệnh Mặt trận không chỉ lượng định mọi khả năng của kẻ thù, mà còn là căn cứ để soạn thảo những kế hoạch thiết thực nhằm đánh thắng kẻ thù trong mọi tình huống.

Quả đúng như dự đoán của Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, sau khi hùng hổ đổ quân ra vùng đất Trị - Thiên, hai sư đoàn (1, 3) lính thủy đánh bộ Mỹ đã hò hét "đánh tới" bất kể đối phương mạnh yếu thế nào. Chúng cũng dự định chỉ trong vòng một tháng sẽ "quét sạch" quân chủ lực ta ra khỏi vĩ tuyến 17. Ngày 12 tháng 7 năm 1966, lính thủy đánh bộ Mỹ ở Trị - Thiên mở cuộc hành quân Hát-xtinh với lực lượng một vạn tên đánh vào vùng Cam Lộ.

Để đánh bại cuộc hành quân của địch ngay từ những ngày đầu, sau khi bàn tính kỹ, Bộ tư lệnh Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị quyết định dùng sư đoàn 324 - đơn vị có kinh nghiệm mở đợt tác chiến đầu tiên tiêu diệt quân ngụy ở Đầu Mầu, Tân Lâm, thực hiện mục tiêu kéo địch ra Quảng Trị, tiến hành đánh bại cuộc hành quân Hát- xtinh của lính thủy đánh bộ Mỹ.

Ngày 15 tháng 7 năm 1966, giữa lúc Sư đoàn 324 đang kửân trương hồn tất mọi công việc cho đợt chiến đấu mới thì sư đoàn 1 lính thủy đánh bộ Mỹ cho hàng trăm chiếc máy bay lên thẳng đổ quân xuống hàng loạt vị trí O Giang, Bản Hiệu. lèn 300 đất, lèn 300 đá, Cù Đinh, Ba De, điểm cao 402 , miếu Bái Sơn v.v. . . Đổ quân tới đâu lính thủy đánh bộ Mỹ gọi phi pháo đánh phá các vùng xung quanh tới đó. Chỉ tính riêng trong hai bốn giờ ngày 16 tháng 7, chúng đã dùng 18 lần chiếc máy bay B52 ném bom xuống tây bắc Cù Đinh, nam Tân Lâm và đông bắc điểm cao 402. Ngoài ra chúng còn dùng hàng chục lần chiếc máy bay phản lực, hàng chục khẩu pháo các loại đánh phá liên tục xuống nam- bắc sông Bến Hải hòng làm nhụt chí tiến công của quân và dân ta.

Do công tác chuẩn bị chiến trường chu đáo nên mặc dù bị phi pháo địch đánh phá ác liệt, nhưng hầu hết các đơn vị ở phía trước của Sư đoàn 324 vẫn chủ động phản kích ngay từ những giờ phút đầu.

Sáng ngày 16 tháng 7, tại điểm cao 402, sau khi máy bay B52 đánh phá gần như xoá sạch những mầm xanh còn sống sót, sư đoàn 1 lính thủy đánh bộ mới cho trực thăng chở một tiểu đoàn của trung đoàn 1 đổ bộ xuống chiếm vị trí chiến thuật lợi hại này. Đại đội 6 tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 2) chốt giữ điểm cao đã đánh bại các đợt tiến công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên Mỹ. Trong trận đánh, tổ hỏa lực Nguyễn Phi Hùng đã lập công xuất sắc, đánh lui 12 đợt tiến công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 32 tên, góp phần đắc lực cùng đại đội giữ vững điểm cao 402 và hầu hết khu vực lèn 300 đất.

Được chiến công của đại đội 6 (tiểu đoàn 6) cổ vũ, đại đội 2 tiểu đoàn 5 được mệnh danh là "Đại đội gió lốc”, đã vượt qua các đợt đánh phá ác liệt của phi pháo địch, bám trụ kiên cường, đánh bại các đợt tiến công ồ ạt của một tiểu đoàn Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn100 tên, trở thành "chốt thép thắng Mỹ" đầu tiên trên chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị.

Ngày 17 tháng 7, sư đoàn 1 lính thủy đánh bộ Mỹ cho hai tiểu đoàn đổ bộ xuống Cù Dinh, Ba De “tìm diệt” tiểu đoàn bộ binh của ta chốt giữ khu vực này. Với ý chí quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, mặc dù bị bom pháo đánh phá trên địa bàn rất ác liệt, nhưng tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 1) và tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 3) mới được điều đến tiến công kịp thời vào đội hình địch đang đổ quân làm chúng hoảng sợ phá chạy toán loạn.

Phối hợp chặt chẽ với hai trung đoàn 2 và 3 đánh địch giữ vững các điểm cao dọc đường 9, Trung đoàn 1 (thiếu tiểu đoàn 1) đã bí mật luồn sâu xuống Do Hải (Do Linh), Cam Thanh (Cam Lộ), Triệu Thượng (Triệu Phong) cùng với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, kết hợp hoạt động vũ trang, giải phóng một số xã vùng đông tỉnh Quảng Trị, tạo bàn đạp đưa lực lượng xuống đồng bằng ven biển Triệu Hải. Ở phía nam tỉnh Quảng Trị, ngày l6 tháng 7, trung đoàn 6 Thừa Thiên thọc xuống quốc lộ 1, đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn ngụy, phá hủy 15 xe quân sự...

Trước thất bại của quân sĩ, trung tướng Uôn-tơ, Tư lệnh lính thủy đánh bộ Mỹ ở Nam Việt Nam, mặc dù không còn huênh hoang thách thức “lính thủy đánh bộ đang mong muốn có một trận đánh lớn” như lúc đầu nhưng vẫn vơ vét quân còn lại của hai sư đoàn (1, 3) ở Tam Kỳ, Đà Nẵng ra Quảng Trị để tiêu diệt quân ta. Sáng ngày 22 tháng 7, chúng đổ 2 tiểu đoàn (thuộc trung đoàn 5 lính thủy đánh bộ) xuống Khe Chùa lập tuyến phòng ngự từ Ba De, Cù Đinh tới Đá May. Chúng còn cho chiến đồn dù ngụy đang chốt giữ vùng Cùa đổ quân xuống Khe Vạn, Làng Đôn (phía tây Tân Lâm 10 km) kết hợp với quân Mỹ ở bắc đường 9 tạo thành hai gọng kìm tiêu diệt quân ta.

Ngày 25 tháng 7, hai cánh quân Mỹ - ngụy bắt đầu tiến hành "tập hậu” quân ta. Tại Cù Đinh, tiểu đoàn 3 linh thủy đánh bộ được sự yểm trợ của máy bay và pháo binh, chia làm hai mũi đánh lên điểm cao 314, nơi có 1 tiểu đoàn ta chốt giữ. Nhưng mới ngày đầu tiến công ồ ạt, cả hai đại đội lính thủy đánh bộ đã không còn đủ sức "vượt dốc" trước đòn đánh trả mãnh liệt của quân ta, phải khiêng cáng nhau lui về vị trí ban đầu.

Thảm cảnh đó được Giốc Giơ-ét-te (phóng viên hãng tin Mỹ AFP) mô tả như sau: "Hôm nay 25 tháng 7, các máy bay lên thẳng của lính thủy đánh bộ Mỹ từ từ hạ xuống một cách khổ não trên ngọn đồi rậm để chở ra khỏi nơi này những cái lồng thép dành cho thương binh của đại đội 1. Có 71 người bị thương, chiếm gần một nửa đại đội. Số chết sẽ được máy bay lên thẳng chở đi sau...". Đại úy Gơ lây-dơ, đại đội trưởng rưng rưng nước mắt nói: "Chúng tôi bị chết và bị thương vô số ở đây".

Còn chiến đoàn dù ngụy hoạt động ở Khe Vạn, Làng Đôn khi biết tin tiểu đoàn Mỹ bị đánh ở hướng bắc chúng không dám nống lấn thêm chỉ quanh quẩn một chỗ gần như “án binh bất động". Chiều ngày 25 tháng 7, mới bị mấy chục quả pháo cối 82 của ta bắn vào đội hình, chúng đã tháo lui về Cùa bỏ mặc cho quân Mỹ tác chiến. Trưa ngày 26 tháng 7, thấy không còn trông cậy vào sự chi viện của quân ngụy, hai tiểu đoàn Mỹ hoạt động ở Cù Đinh, Ba De phải rút chạy về Cam Lộ bỏ cuộc hành quân Hát- xtinh.

Bị thất bại liên tiếp ở Đường 9 - Bắc Quảng Trị, bộ chỉ huy Mỹ - ngụy chẳng những không chịu dừng lại, mà còn tiếp tục lao vào "canh bạc khát" hòng cứu vãn tình thế thất bại. Trung tuần tháng 8 năm 1966, sư đoàn 1 lính thủy đánh bộ cho 3 tiểu đoàn đóng chốt ở Đông Hà, Tân Lâm tiến hành càn quét vùng giải phóng. Nhưng bọn lính thủy đánh bộ lấn chiếm tới đâu cũng bị lực lượng vũ trang ba thứ quân tỉnh Quảng Trị chặn đánh tới đó.

Ngày 17 tháng 8, một đại đội hỏa lực cối 82, ĐKZ75, 12,7 ly của Trung đoàn 2 bắn cấp tập một đại đội lính thủy đánh bộ đang hành quân từ Cam Lộ lên Đầu Mầu, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục tên. Ngày 18 tháng 8, một đại đội của tiểu đoàn 5 lính thủy đánh bộ đóng ở Đông Hà, được máy bay trực thăng chuyên chở đổ bộ xuống Bản Hiệu (tây bắc Đầu Mầu 5 km) bị đại đội 5 (Trung đoàn 3) diệt và làm bị thương 40 tên. Đêm ngày 25 tháng 8, hai đại đội đặc công của Mặt trận tập kích trận địa hỗn hợp pháo binh, xe tăng chốt giữ phía tây bắc cầu Thiện Xuân diệt 36 tên, phá hủy 2 pháo 105, 3 xe thiết giáp...

Đầu tháng 9 năm 1966, sau khi điều thêm 5 tiểu đoàn Mỹ (3 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 1 và sư đoàn 3 lính thủv đánh bộ ở Quảng Nam - Đà Nẵng ra và 2 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 5 từ hạm đội 7 vào), bộ chỉ huy Mỹ ở vùng 1 đã mở cuộc hành quân mang tên “Đồng cỏ" đánh vào vùng tây Do Linh và tây bắc Cam Lộ, nhằm ngăn chặn bộ đội chủ lực ta đang hoạt động ngày một gia tăng ở vùng này.

Cuộc hành quân "Đồng cỏ” được chia làm hai cánh. Cánh một (chủ yếu) do 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ, tiểu đoàn ngụy có 3 chi đồn xe tăng thiết giáp yểm trợ tiến đánh các khu vực từ phía tây đường số 1 lên xã Do An, chú trọng các vị trí chiến thuật xung quanh căn cứ Cồn Tiên. Cánh hai do 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ và 1 tiểu đoàn bộ binh ngụy đánh vào khu vực điểm cao 400, 363, 300 đất, 300 đá (tây bắc huyện lỵ Cam Lộ từ 10 đến 12 km). Để giữ bí mật cho cuộc hành quân, ngày 19 tháng 9, Mỹ - ngụy cho chiến đồn 1 ngụy càn quét các xã Do Mỹ, Trung Hải (bắc cảng Cửa Việt) nhằm thu hút sự chú ý của Bộ chỉ huy Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị.

Ngày 19 tháng 9, khi trận càn quét của chiến đồn 1 ugụy đi vào giai đoạn cực điểm thì bọn chỉ huy Mỹ ở Đông Hà (tưởng đã giành được thế bất ngờ) ra lệnh cho hai cánh quân "tìm diệt" bộ đội chủ lực ta. Mở màn cuộc hành quân, bọn Mỹ cho hàng trăm lần chiếc máy bay (kể cả máy bay B52), 8 trận địa pháo (kể cả pháo hạm) ném bom bắn phá hàng giờ liền xuống các mục tiêu mà Mỹ - ngụy dự định sẽ đổ bộ.

Nhưng mọi ý đồ hoạt động của địch đã không đánh lừa được quân và dân Đường 9 - Bắc Quảng Trị. Tại khu vực Gia Bình, An Định (Do An) Ban chỉ huy Trung đoàn 2 (Sư đoàn 324), có sự giúp đỡ dẫn đường của một tiểu đội du kích Do Linh, đã cho 2 tiểu đoàn (6 và 7) chiếm lĩnh các vị trí chiến thuật, thiết kế trận địa chờ quân địch đến. Khi tiểu đoàn 7 lính thủy đánh bộ (cánh l) ồ ạt tiến công vào làng An định, tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 2) được sự chi viện của các trận địa pháo cối 120, 82 ở bờ nam sông Bến Hải bắn cấp tập vào đội hình đại đội B lính thủy đánh bộ đi đầu, rồi bất ngờ “bật thổ" quần chiến với quân Mỹ. Không chịu nổi đòn đánh giáp lá cà rất ác liệt của quân giải phóng, bọn lính Mỹ sống sót của đại đội B phá chạy tán loạn.

Sau ba ngày tiến công vào làng An Bình thất bại, sáng ngày 21 tháng 9, tiểu đoàn 8 lính thủy đánh bộ (vừa thay tiểu đoàn 7 bị tiêu hao nặng) mở đợt tiến công mới với "ý chí quyết san bằng thôn An Bình". Mở đầu cuộc tiến công, lính thủy đánh bộ được hỏa lực bắn theo yêu cầu. Bởi vậy, sau gần 2 giờ, làng An Bình rộng hơn nửa ki-lô-mét vuông bị bom đạn đào xới gần như quang lắc, quân Mỹ được xe thiết giáp yểm trợ mới xông vào. Nhưng một lần nữa “bức tường lửa” của tiểu đoàn 5 (trung đoàn 2) ở khu “tử địa” lại bất ngờ dựng lên làm chúng kinh hồng, đến nỗi tên đại úy Oai-nơ chỉ huy đại đội 1 phải than vãn: "Những chiếc xe tăng có súng phun lửa dẫn đầu lính thủy đánh bộ tiến vào khu pháo đài liên hợp (làng An Định) đại bác đã rót mấy ngàn viên đạn cỡ lớn nhưng suốt ba ngày chẳng làm nên trò trống gì" (Chú thích: Báo Quân đội nhân dân ngày 4 tháng 10 năm 1996). Và chúng tôi bị thương vong quá nhiều. Họ (quân giải phóng) đã làm chúng tôi thiệt hại nhiều ở đây..”.

Trong khi cánh 1 còn đang bị sa lầy ở tây bắc Do Linh thì cánh 2 do tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 4 lính thủy đánh bộ Mỹ) đảm nhiệm cũng bị pháo cối của trung đoàn 3 (Sư đoàn 324) tập kích loại khỏi vòng chiến đấu gần 20 tên. Giữa lúc chúng đang tập trung giải quyết hậu quả, 2 đại đội của Trung đoàn 3 đã bí mật vận động tập kích 1 trung đội lính thủy đánh bộ chốt giữ bình độ 285 (đông nam điểm cao 400) làm cho tiểu đoàn 3 Mỹ chốt giữ khu vực bắt đầu lúng túng.

Để cải thiện tình hình chờ quân tăng viện, sáng ngày 26 tháng 9 tiểu đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ cho 2 đại đội (được hỏa lực chi viện đắc lực) đánh chiếm điểm cao 400. Nắm bắt được ý đồ của địch, Trung đoàn 3 đã cho tiểu đoàn 9 (đã bí mật phục kích ở khu vực 400 từ đêm ngày 25 tháng 9) đánh trả quyết liệt khiến 2 đại đội địch không trụ nổi phải thu nhặt xác đồng bọn tháo lui. Tình cảnh ấy còn dành cho trung đoàn 4 lính thủy đánh bộ Mỹ thêm hai ngày nữa. Ngày 29 tháng 9, thấy binh lực bị hao tổn ngày một nhiều trên cả hai cánh, trung tướng Uôn-tơ, Tư lệnh lính thủy đánh bộ Mỹ ở Nam Việt Nam phải hủy bỏ cuộc hành quân mang tên “Đồng cỏ”.

Những trận thua đau liên tiếp của lính thủy đánh bộ Mỹ ở Cam Lộ, Do Linh, Đông Hà, đường số 9 suốt hơn 3 tháng qua đã chứng minh sự lúng túng bị động về quân sự của bộ chỉ huy viễn chinh Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Rõ ràng việc điều các đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ chiếm đóng vùng rừng núi Quảng Trị là một sai lầm về chiến thuật. Bọn lính “Cọp biển" Mỹ vốn chỉ quen tác chiến ở đồng bằng ven biển được sự chi viện tối đa của phi pháo và xe thiết giáp với phương châm "tốc chiến, tốc thắng” nay phải đưa lên vùng đồi núi heo hút, địa hình hiểm trở, không phát huy được xung lực, hỏa lực, đội hình xé nhỏ chốt giữ từng mỏm đồi, khe suối, sa vào thế đánh nhỏ lẻ táo bạo của quân giải phóng dẫn tới tổn thất binh lực nghiêm trọng.

Chính bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn phải than phiền về sự đánh mạnh và cách đánh "thiên biến vạn hóa" của lực lượng vũ trang giải phóng ở Quảng Trị thời gian gần đây "đã tạo ra một tình hình mới làm cho người ta thấy rằng các đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ phụ trách vùng chiến thuật một không còn đủ sức nữa". Mặc dù bị thiếu quân ở khắp nơi, nhưng "Bộ chỉ huy Mỹ vẫn không dám dàn mỏng lực lượng ra những phần đất khác của Nam Việt Nam để tập trung đương đầu với mối đe dọa tại Quảng Trị". Do đó, mâu thuẫn cố hữu giữa tập trung quân đóng chốt và phân tán lực lượng đi càn quét, giữa tấn công và phòng ngự của giặc Mỹ ngày càng sâu sắc chưa có cách nào tháo gỡ nổi.

Để tìm cách khắc phục khó khăn ác liệt, bám trụ chiến trường, đánh liên tục, tiêu diệt tiêu hao, thu hút sinh lực địch, đặc biệt là việc đẩy mạnh hoạt động quân sự phối hợp với quân và dân miền Nam đánh bại cuộc phản công mùa khô lần thứ hai (1966-1967), trung tuần tháng 11 năm 1966 Đảng ủy Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã họp bàn về nhiệm vụ hoạt động trong thời gian tới. Tham dự hội nghị gồm các đồng chí Trần Thế Môn - Chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy (người thay thế đồng chí Quách Sĩ Kha đi nhận công tác khác); Đàm Quang Trung, Tư lệnh Mặt trận, Chu Phương Đới, Nguyễn Tiến Lợi, Phó tư lệnh Mặt trận; Nguyễn Công Trang, chủ nhiệm, Trần Nhật Độ, phó chủ nhiệm chính trị Mặt trận; Hồ Sỹ Thản, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị; Trần Đồng, Bí thư Đảng ủy khu vực Vĩnh Linh và một số đồng chí phái viên của Bộ tư lệnh Quân khu 4.

Sau khi phân tích, đánh giá kỹ tình hình hoạt động trong thời gian qua (chủ yếu là kết quả hoạt động quân sự), hội nghị tập trung thảo luận phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới. Hội nghị nhấn mạnh: Để cứu vãn tình thế thất bại nặng nề trên hai miền Nam- Bắc, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai (kể cả chư hầu) đang ra sức tăng thêm lực lượng vào miền Nam (từ 30 đến 45 vạn) nhằm mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai với quy mô lớn nhất từ trước đến nay hòng giành lại thế trận về quân sự.

Mở đầu mùa khô (giữa tháng 10 năm 1966), Bộ chỉ huy Mỹ đã mở cuộc hành quân Át-tơn-bo-rơ với lực lượng hơn 30.000 tên (bao gồm cả lữ đoàn dù 173, lữ đoàn 2 (sư đoàn 25) lữ đoàn 3 (sư đoàn 4 bộ binh), trung đoàn thiết giáp 11 (sư đoàn 1 Anh cả đỏ) được sự yểm trợ của 300 xe tăng, thiết giáp, 130 khẩu pháo các loại, tiến công đồng loạt vào chiến khu Tây Ninh và Dương Minh Châu (miền Đông Nam Bộ) nhằm tiêu diệt các căn cứ của Trung ương Cục miền Nam. Đồng thời với các cuộc tiến công quân sự, Mỹ - ngụy còn đẩy mạnh kế hoạch bình định, mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn - Gia Định, kiềm chế các chiến trường Tây Nguyên và miền Trung - Trung Bộ. So sánh toàn cục trên chiến trường, Mỹ -ngụy đã thay đổi chiến lược "tìm và diệt" mùa khô năm 1965 - 1966 sang chiến lược "tìm diệt và bình định” trong mùa khô 1966 - 1967...

Đối với chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị, mặc dù đế quốc Mỹ không tập trung lực lượng và phương tiện lớn mở cuộc hành quân đánh phá ồ ạt như miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, nhưng chúng vẫn coi đây là chiến trường rất quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp, toàn diện tới cục diện chiến tranh ở Nam Việt Nam. Do vậy, ngồi việc tiếp tục duy trì 2 sư đoàn lính thủy đánh bộ (1 và 3), 1 sư đoàn và 3 chiến đồn, liên đồn biệt động quân ra vùng này, đưa số quân giao động từ 45.000 - 65.000 tên (có 30.000 - 40.000 quân Mỹ) chưa kể lực lượng bảo an dân vệ địa phương.

Với số quân được tăng cường lớn, Mỹ - ngụy ra sức củng cố tuyến phòng ngự Đường 9 - Bắc Quảng Trị, ngồi các căn cứ lớn: Ái Tử, Đông Hà, Cửa Việt, Khe Sanh và các cứ điểm Dốc Miếu, Cồn Tiên, Cam Lộ, Tân Lâm, Lao Bảo tiếp tục được xây dựng mở rộng; chúng còn cho xây dựng một loạt vị trí chiến thuật mới: miếu Bái Sơn, Đầu Mầu, điểm cao 544, Rào Quán, Tà Cơn, Làng Vây, Động Tri... nhằm xây dựng tuyến Đường 9 - Bắc Quảng Trị thành “lá chắn thép” chống phá hữu hiệu "sự xâm nhập của quân cộng sản" từ miền Bắc vào miền Nam. Cùng với việc bố trí lại hệ thống cụm cứ điểm xen kẽ giữa Mỹ và ngụy, chúng bắt đầu đẩy mạnh bình định, gom dân lập ấp chiến lược, quyết biến vùng nam sông Bến Hải thành vùng trắng để phi pháo tự do đánh phá, che chở cho chúng. "Từ tháng 6 năm 1966 đến hết năm 1967, địch đánh Vĩnh Linh 255.889 quả bom, 298.611 quả đại bác" (Chú thích: Quân khu 4 - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ... (Sách đã dẫn), tr 183)

Từ nhận định âm mưu, thủ đoạn hoạt động của địch, hội nghị đi sâu thảo luận nhiệm vụ của Quân ủy Trung ương giao cho Mặt trận trong thời gian tới. Hội nghị nêu rõ: "Liên tục tiến công tiêu hao, tiêu diệt từng đơn vị nhỏ tiến tới tiêu diệt lớn từng đơn vị Mỹ - ngụy (trung đội đến đại đội Mỹ, đại đội đến tiểu đoàn ngụy), tiếp tục thu hút giam chân chúng, tạo điều kiện cho đồng bằng duyên hải Trị - Thiên đẩy mạnh chiến tranh du kích chống phá bình định là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài. . .

Trong mùa khô này, nhiệm vụ kìm chân Mỹ, chốt chặn quân Mỹ, tiêu diệt ngụy là không chỉ đánh vào âm mưu chiến lược dùng quân ngụy thực thi "bình định" của Mỹ, mà còn đánh vào chỗ dựa chính trị của quân Mỹ, khoét sâu vào mâu thuẫn "không tin cậy lẫn nhau giữa nội bộ địch". Đồng thời “đẩy mạnh tác chiến ở Trị -Thiên còn tạo điều kiện bảo vệ, mở rộng hành lang vận chuyển chiến lược vào Nam chi viện chiến trường. Thông qua chiến đấu rút ra được những kinh nghiệm tiên tiến về cách đánh Mỹ, để góp phần giúp Bộ xác định cách thức tổ chức tác chiến thích hợp hơn" (Chú thích: Nghị quyết Đảng uỷ Mặt trận B5, Sơ kết quý III năm 1966 (tháng 10- 1966). TLLT tại kho K-4, Bộ Quốc phòng. HS8.)

Căn cứ tình hình địch, ta và nhiệm vụ cụ thể của Bộ giao, Đảng ủy Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã giao nhiệm vụ cho các đơn vị như sau:

- Khu tây (từ Lao Bảo về Khe Sanh) địch phòng ngự tương đối sơ hở, binh hỏa lực mỏng yếu, ta có khả năng đánh nhỏ thường xuyên, tiêu diệt đơn vị cấp chiến thuật của địch. Hướng này được Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị giao cho Sư đoàn 325 và bộ đội địa phương huyện Hướng Hóa đảm nhiệm. Trong quá trình tác chiến, nếu Sư đoàn 325 và lực lượng vũ trang địa phương được bảo đảm hậu cần tốt, có cách đánh phù hợp, có thể thu hút, kìm chân, tiêu hao số lượng lớn binh lực địch.

- Khu giữa gồm Tân Lâm và vùng giáp ranh đồng bằng Do - Cam, tiếp tục giao cho các trung đoàn 1, 2, 3 (thuộc Sư đoàn 324 cũ), 2 đại đội đia phương tỉnh Quảng Trị, 2 trung đội du kích của liên huyện Do - Cam, có nhiệm vụ bao vây các căn cứ trung và đông trong hệ thống phòng ngự Đường 9 - Bắc Quảng Trị (chủ yếu là Cồn Tiên, Dốc Miếu, điểm cao 544), "khơi ngòi" dụ địch ra các vùng tây Cam Lộ, bắc Do An (nam sông Bến Hải) dùng chiến thuật vận động tiến công, kết hợp chốt để tiêu diệt địch. Trong quá trình thực hành dụ địch thoát khỏi căn cứ, chỉ huy các cấp cần chú trọng đề phòng địch dùng hỏa lực đánh phá ồ ạt hoặc dùng trực thăng “nhảy cóc” tập hậu các phân đội hoạt động ở phía trước.

- Khu đông gồm các xã phía đông đường số 1 của huyện Do Linh và cảng Đông Hà, Cửa Việt được giao cho lực lượng đặc công hải quân (đồn 126) và 1 đến 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 27 Quảng Trị. Đây là khu ven biển, địa hình trống trải, sông rạch nhiều, địch lại thường xuyên bắn phá tự do để lập "vành đai trắng". Để bám trụ được lâu dài ở chiến trường này đánh địch, trước hết bộ đội ta phải dựa vào dân. Nhưng muốn dựa vào dân điều đầu tiên là phải bảo vệ được dân, giành được dân từ các khu dồn "ấp chiến lược"của địch. Đồng thời muốn tiêu diệt được kho tàng, hậu cứ, cầu cảng, tàu thuyền của địch, bộ đội ta chỉ có thể thực hành vào ban đêm với số quân hạn chế. Vì vậy các đơn vị tác chiến ở khu vực này ngoài yêu cầu kỹ thuật, chiến thuật tinh thông, còn phải có kế hoạch tác chiến tổng thể hết sức chu đáo, tỉ mỉ, đặc biệt là xây dựng tuyến hành lang tiếp cận Đông Hà, Cửa Việt, củng cố các cơ sở cách mạng ở địa phương, tạo thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc tiến công địch.

Các địa phận Ba Hồ, Ba Lòng, Cùa... địch bố phòng tương đối sơ hở. Nhưng do địa hình ngăn cách, bảo đảm hậu cần khó khăn nên ta chỉ có thể đưa lực lượng nhỏ vào hoạt động trong thời gian ngắn. Với địa thế như vậy, Bộ tư lệnh Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị giao cho Trung đoàn 31 tùy theo nhiệm vụ cụ thể trong từng thời kỳ cho 1 đến 2 tiểu đoàn có các phân đội đặc công của Bộ phối hợp luồn sâu, đánh hiểm nhằm phân tán sự đối phó của địch trên toàn bộ phòng tuyến Đường 9 - Bắc Quảng Trị.

Về thời gian hoạt động, hội nghị dự kiến từ tháng 2 đến tháng 9 năm 1967, kế hoạch tác chiến các đợt phân chia theo mục đích, yêu cầu của toàn chiến trường hoặc trong từng khu vực. Cuối cùng hội nghị kết luận: "Vận dụng những kinh nghiệm hoạt động tác chiến năm 1966, phát huy sức mạnh ba thứ quân và hỏa lực pháo binh tầm xa đặt bên bờ bắc sông Bến Hải, liên tục tập kích và vây ép, tiêu hao, tiêu diệt các lực lượng Mỹ trong các căn cứ, buộc chúng phải thường xuyên chịu đựng căng thẳng. Trong từng thời điểm nhất định, tập trung chủ lực hiệp đồng binh chủng, tiêu diệt từng bộ phận quân Mỹ - ngụy, bẻ gãy các cuộc hành quân giải tỏa của chúng. Kết hợp chặt chẽ giữa quân sự và chính trị, giữa tiến công và nổi dậy, giữa hoạt động tập trung và phân tán rộng khắp, quân dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị quyết giành thắng lợi trong năm 1967, tạo điều kiện tiến lên thực hiện đánh tiêu diệt lớn trong năm 1968..." (Chú thích: Nghị quyết Đảng ủy Mặt trận B5 tháng 2 năm 1967, TLLT tại kho K4- Bộ Quốc phòng, HS59).

Để chuẩn bị cho các đợt hoạt động tác chiến đạt kết quả tốt hơn, cuối tháng 12 năm 1966 và đầu tháng 1 năm 1967, Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị một mặt chỉ đạo các đơn vị điều động quân (cấp trung đội và đại đội là chủ yếu) phối hợp với bộ đội địa phương, dân quân du kích hoạt động nhỏ lẻ phục kích quấy phá kìm chế không cho chúng hành quân giải toả; mặt khác cho bộ đội học tập chính trị, xác định quyết tâm xây dựng tư tưởng "tiến công tiêu diệt địch với ý chí quyết chiến quyết thắng, quyết biến đường 9 thành mồ chôn giặc Mỹ" (Chú thích: Báo cáo tổng kết hoạt động mùa khô của Bộ tư lệnh Mặt trận B5.TLLT tại kho K4- Bộ Quốc phòng, HS8.); trong tiến công, "quyết bám thắt lưng địch mà đánh”; trong chốt giữ trận địa đánh địch, phản kích, quyết thực hiện "còn người còn trận địa”, thực hiện tốt các chính sách thương binh, liệt sĩ, chính sách dân vận, địch vận.

Giữa lúc các đơn vị trên toàn Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đang hạ quyết tâm thực hiện nhiệm vụ, ngày 15 tháng 2 năm 1967 Bộ Tổng Tư lệnh chỉ thị cho Mặt trận bước vào chiến đấu lớn phối hợp với chiến trường toàn Miền quyết đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của Mỹ - ngụy. Mở màn cho đợt hoạt động, căn cứ vào mục tiêu Bộ giao, Bộ Tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị cho Sư đoàn 325 được sự hỗ trợ của bộ đội địa phương và dân quân du kích huyện Hướng Hóa, dùng một trung đoàn vào hoạt động ở Khe Sanh- Hướng Hóa (hướng thứ yếu) nghi binh, thu hút địch về hướng này, tạo điều kiện cho hướng chính (tây Do Linh, bắc Cam Lộ) tiến công tiêu diệt sinh lực địch.

Tại hướng tiến công mới, theo chủ trương "vừa đánh vừa rèn luyện bộ đội", tạo thế cho các đợt hoạt động lớn hơn, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Sư đoàn 325 quyết định sử dụng Trung đoàn 95C được tăng cường tiểu đoàn 8 (Trung đoàn 18C) vào nhiệm vụ mở đầu. Các Trung đoàn 101D, 18C (thiếu) và Trung đoàn pháo binh 78 đứng chân ở bắc sông Bến Hải, tiếp tục tranh thủ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu khi có lệnh.

Cuối tháng 2 năm 1967, Trung đoàn 95C và các lực lượng vũ trang địa phương dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Hồ Ngọc Trai và Chính ủy trung đoàn Trần Văn Ân (Phó chính ủy sư đoàn xuống trực tiếp phụ trách) từ tây bắc thung lũng Khe Sanh bước vào chiến đấu.

Thung lũng Khe Sanh nằm giữa vùng rừng núi miền tây Quảng Trị - Đường 9 - cửa ngõ quan trọng nhất nối liền biển Đông Việt Nam với Trung Lào và Hạ Lào. Hồi thực dân Pháp cai trị nước ta, đã xây dựng Khe Sanh thành một cứ điểm khá mạnh. Nay đế quốc Mỹ cũng rất chú ý đến thung lũng này. Đặc biệt là từ khi ta mở thông tuyến đường vận tải quân sự Bắc - Nam bên sườn tây dãy Trường Sơn, giới quân sự Mỹ càng cho rằng Khe Sanh là một vị trí "không thể xem nhẹ".

Theo Oét-mo-len, Mỹ có thể dùng căn cứ này làm một "lá chắn" để ngăn chặn đối phương từ Lào sang và làm một căn cứ quan trọng cho các cuộc hành quân tìm diệt lực lượng, đánh phá kho tàng đối phương trên miền rừng núi Việt - Lào. Khe Sanh còn là một sân bay cho các máy bay trinh thám kiểm tra “đường mòn Hồ Chí Minh", đồng thời là một “cái mỏ neo” ở phía tây của toàn bộ hệ thống phòng thủ đường 9.

Đầu năm 1967, khi quyết định đưa toàn bộ 2 sư đoàn (1 và 3) lính thủy đánh bộ Mỹ ra chiến trường đường 9, Bộ chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam lập tức phái ngay 2 tiểu đoàn lên miền tây Quảng Trị cùng với quân ngụy tăng cường phòng thủ Khe Sanh. Các lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ chủ yếu tập trung ở cụm cứ điểm Tà Cơn nằm ở trung tâm thung lũng. Trong cụm cứ điểm này có một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, một tiểu đoàn pháo binh hỗn hợp và một sân bay khá lớn. Chúng được bảo vệ bằng các hệ thống bãi mìn, vật cản và hàng rào kẽm gai kiên cố nhiều tầng.

Đổ quân Mỹ vào thung lũng này, các tướng lĩnh Mỹ đã nghĩ tới “bài học cay đắng" của quân viễn chinh Pháp ở lòng chảo Điện Biên Phủ năm xưa. Bởi vậy, cùng với việc tổ chức cụm cứ điểm Tà Cơn, chúng cho quân chiếm giữ quận lỵ Hướng Hóa, cứ điểm Làng Vây và một số điểm cao quan trọng trên các dãy núi bao bọc xung quanh Khe Sanh như 689, 682, 845, 832, 1009 (Động Trị).

Với vật chất dư thừa và phương tiện thi công hiện đại, chỉ trong vòng một tháng (kể từ khi Mỹ đổ quân) chúng đã thiết lập xong cụm cứ điểm Khe Sanh. Tướng tá Mỹ hy vọng cụm cứ điểm này sẽ là một “cái bẫy" lý tưởng để “nghiền nát" chủ lực đối phương và là một "thành trì bất khả xâm phạm".

Nhưng sự thật đã diễn ra hoàn toàn trái với ước muốn của quân Mỹ. Xuất phát từ vị trí quan trọng của cụm cứ điểm Khe Sanh, sau khi nghiên cứul kỹ chiến trường, Phòng tham mưu Sư đoàn 325 đã thiết lập phương án tác chiến linh hoạt: đưa 3 tiểu đoàn của Trung đoàn 95C vào bố trí ở hướng tây bắc Tà Cơn theo thế chân kiềng, khơi ngòi nhử địch ra khỏi công sự, đưa chúng vào khu vực bố trí sẵn để tiêu diệt. Phương án tác chiến của trung đoàn 95C được Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị thông qua và nhắc nhở khẩn trương chuẩn bị mọi mặt (chủ yếu là hậu cần) đưa bộ đội vào chiến đấu.

Trong khi hướng tây đường 9, bộ đội Sư đoàn 325 đang chạy đua với thời gian để bước vào diệt địch, ở hướng đông, các đơn vị được lệnh của Bộ tư lệnh Mặt trận đã bước vào chiến đấu. Đêm ngày 25 tháng 2 năm 1967, Trung đoàn 31 cho đại đội cối 82, bắn 100 quả vào căn cứ Cồn Tiên, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên ngụy, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh.

Ngày 26 tháng 2, nắm bắt được một đại đội Mỹ mới đến chốt giữ điểm cao 85, tiểu đoàn 4 Trung đoàn 2 (Sư đoàn 324 cũ) chiếm lĩnh tây nam núi Đá Bạc, đã đồng loạt tập kích mãnh liệt, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục tên. Thấy tình thế không trụ bám nổi, ngày 27 tháng 2 bọn này phải xin trên chi viện, mở đường máu tháo chạy khỏi điểm cao 85. Không cam chịu thất bại, ngày 28 tháng 2 địch đổ 2 đại đội Mỹ xuống điểm cao 182 (tây Tân Kim 1 km) hòng khống chế tây bắc Cam Lộ đang bị uy hiếp mạnh. Nhưng bọn này mới đặt chân xuống điểm cao 182 chưa được một ngày đã bị tiểu đoàn 6 Trung đoàn 2 tiến công, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên, bắn rơi 2 máy bay lên thẳng. Trong trận này "tiểu đội thép" Mai Văn Vinh đảm nhiệm hướng chủ yếu đã dũng cảm chặn đánh 1 đại đội Mỹ trong suốt 7 giờ, loại khỏi vòng chiến đấu 20 tên, thu 10 súng cá nhân.

Ở dọc đường số 1, bộ đội địa phương, dân quân du kích tiến công tiêu diệt các tụ điểm ác ôn ở Cam Giang, Cam Thanh, Cam Thủy, Do Hải, Quán Ngang... tạo bàn đạp đưa bộ đội đặc công, biệt động đánh vào hậu cứ địch. Để đẩy địch vào thế bị động, đối phó, ta chú trọng đẩy mạnh hoạt động du kích đánh mìn tiêu hao thường xuyên xe cơ giới địch, củng cố vừng chắc địa bàn ở bốn xã đã được giải phóng ở nam sông Bến Hải, kiên quyết đánh bại các cuộc hành quân càn quét của địch.

Để trả thù cho đồng bào các xã Vĩnh Thủy, Vĩnh Hiền, Vĩnh Quang bị pháo 105 và 175 ly của giặc Mỹ giết hại, từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 3, các trận địa pháo (gồm cả pháo cơ giới) ở bắc và nam sông Bến Hải bắn phá mãnh liệt các trận địa pháo địch ở Dốc Miếu, Cồn Tiên, Tân Lâm và các vị trí địch ở 182, 137, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh.

Được chiến thắng ở hướng đông đường 9 cổ vũ, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 325 ở hướng tây từ cuối tháng 2 đến giữa tháng 3 năm 1967 đã ra sức chuẩn bị hậu cần gồm hệ thống hầm hào trêu các trận địa chốt và các vị trị trú quân. Mọi công việc được tiến hành nhanh chóng, bí mật.

Sau một thời gian chuẩn bị khá đầy đủ vật chất, trang bị theo quy định, sáng ngày 19 tháng 3 năm 1967, Trung đoàn 95C được lệnh bước vào chiến đấu. Châm ngòi cho đợt hoạt động, các chiến sĩ súng cối, ĐKZ tiểu đoàn 8 với phần tử đã tính toán sẵn, sau vài phút bắn hiệu chỉnh đã dồn dập nã đạn vào cứ điểm Tà Cơn. Đòn tập kích hỏa lực bất ngờ này đã tiêu diệt và làm bị thương 72 tên lính thủy đánh bộ Mỹ, trong đó có tên trung tá tiểu đoàn trưởng và bắn cháy 2 máy bay địch đang đỗ trên đường băng sân bay Tà Cơn.

Được thắng lợi mở đầu khích lệ, cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 8 hỏa lực táo bạo đề nghị Bộ tư lệnh sư đoàn cho di chuyển trận địa vào sát hàng rào để tiêu diệt địch. Lính thủy đánh bộ Mỹ suốt một tuần lễ dùng phi pháo đủ loại đánh phá dữ dội vào các vùng chúng nghi có bộ đội ta đứng chân. Khắp dải đồi phía tây - tây bắc Tà Cơn mới hôm qua, hôm kia những mảnh rừng xanh còn sót lại sau các đợt rải chất độc hóa học của Mỹ, nay lại bị bom pháo đào phạt quang lắc. Đánh phá đến vậy, nhưng quân lính trong Tà Cơn vẫn “án binh bất động”. Trên các trận địa chốt, các chiến sĩ Sư đoàn 325 nóng lòng chờ đợi thời cơ tiêu diệt địch.
Trong những ngày cuối tháng 3 năm 1967, quân Mỹ liên tục tung lực lượng ra phản kích, đánh vào các trận địa chốt của quân ta ở các khu vực điểm cao 832, 845. Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 8 kiên cường bám giữ trận địa, mỗi ngày đánh lui 4 - 5 đợt phản kích của địch. Vừa đánh địch ở phía trước, các đơn vị vừa tổ chức các mũi nhỏ vu hồi đánh vào bên sườn, phía sau, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm lính Mỹ.

Chủ trương kéo quân Mỹ ra bên ngoài căn cứ để tiêu diệt của Trung đoàn 95C (Sư đoàn 325) đã được thực hiện. Với tinh thần chiến đấu mưu trí, dũng cảm, các chiến sĩ tiểu đoàn 8 đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đánh châm ngòi của đợt hoạt động, buộc Bộ chỉ huy lính thủy đánh bộ Mỹ phải đổ thêm quân xuống thung lũng Khe Sanh. Nhưng do việc tổ chức phối hợp giữa các lực lượng chốt và lực lượng cơ động thiếu chặt chẽ nên ta chưa thực hiện được đòn đánh diệt gọn từng bộ phận địch trong vận động.

Tiếng súng tiến công dồn dập của quân ta trên hai hướng trong những ngày cuối tháng 3 năm 1967 làm cho quân Mỹ trên chiến trường đường 9 vốn đã lúng túng lại càng lúng túng hơn. Để phá thế bí, ngày 16 tháng 3, Bộ chỉ huy lính thủy đánh bộ Mỹ ở vùng I chiến thuật mở cuộc hành quân Đếch-hao nhằm đánh phá triệt để lực lượng chủ lực Mặt trận "đang tập trung xung quanh hai căn cứ Dốc Miếu, Cồn Tiên”. Chúng cho rằng hướng tiến công này "luôn luôn bị cộng quân gây áp lực rất mạnh". T

rong khi đó, đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam trên dãy Trường Sơn vẫn phát triển mạnh. Vật chất trang bị cho chiến trường miền Nam ngày một nhiều, đáp ứng được những cuộc tiến công lớn. Do vậy Mỹ - ngụy đã phải tính đến chuyện "lập phòng tuyến ngăn chặn sự xâm nhập từ miền Bắc vào miền Nam" của quân và dân ta.

Tuy nhiên, chủ trương thiết lập “phòng tuyến điện tử chống xâm nhập" của Mỹ không phải đến bây giờ mới khởi xướng. Ngay sau thất bại mùa khô (1965 -1966) Mắc Na-ma-ra, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã nảy ra ý định thiết lập một phòng tuyến chống xâm nhập hiện đại nhất ở bờ nam sông Bến Hải để ngăn chặn đối phương. Ý tưởng của Mắc Na-ma-ra đã được 47 nhà khoa học tài ba nhất nước Mỹ như giáo sư Phi-sơ, tiến sĩ Gioóc-kít-chi-a-cốp-xki, tiến sĩ Kê-xin, tiến sĩ Oét snơ, tiến sĩ Gia-sa-ri-ôt... tổ chức nghiên cứu thực thi. Sau ba tháng nghiên cứu, hội đồng khoa học dưới sự điều khiển của Mắc Na-ma-ra đã vạch ra một kế hoạch với tham vọng lớn:

- Phòng tuyến ước tính có chiều rộng khoảng 20km, từ nam vĩ tuyến 17 đến đường 9, chiều dài trên 100km chạy song song với sông Bến Hải từ biển Đông đến Sê Pôn (Lào) trong đó hành lang mặt bằng xây dựng có bề ngang 500m sẽ được san bằng như một sân bóng.

- Xây dựng một hệ thống đồn bốt dày đặc, cứ khoảng 2 km có 1 tháp canh khoảng 4 km có 1 căn cứ cỡ đại đội hoặc tiểu đoàn.

- Bố trí một hệ thống công sự gồm đủ hầm hào, lô cốt kiên cố, hàng chục lớp hàng rào kẽm gai chằng chịt, xen kẽ với nhiều lớp bom mìn đủ kiểu: mìn định hướng, mìn đĩa, mìn lá, mìn clây-mo, mìn chiếu sáng, lựu đạn nổ tức thì (Mỹ dự kiến sử dụng 20 triệu quả mìn và 25 triệu quả bom cỡ nhỏ). Đặc biệt phòng tuyến được trang bị phương tiện điện tử tối tân như "cây nhiệt đởi", “máy thông minh", “máy phát hiện hơi người". Đây là các loại máy thu phát tiếng động tinh vi đủ cỡ 15 ngày, 3 tháng, hoặc 6 tháng thay pin một lần.

- Tổ chức phòng ngự chặt chẽ, có lực lượng đông và hỏa lực mạnh. Bên cạnh lực lượng chiếm đóng còn có lực lượng cơ động bảo vệ vòng ngoài cả mặt đất và trên trời. Bọn lính thám báo đi phục kích, xe bọc thép đi tuần tiễu dọc hành lang, còn máy bay thì thường xuyên trinh sát trên không. Ngoài hỏa lực tại chỗ còn có sự chi viện kịp thời của pháo binh, không quân của các căn cứ Mỹ ở miền Nam và Đông Nam Á.

- Cuối cùng là một hệ thống chỉ huy với đài quan sát và phương tiện thông tin cực kỳ hiện đại, nhạy bén, chỉ một tiếng động nhỏ cũng được báo ngay về trung tâm chỉ huy, về các căn cứ không quân ở Việt Nam, Thái Lan, Phi-líp-pin, hạm đội 7 Thái Bình Dương và lập tức có sự phản ứng rất kịp thời bằng những trận ném bom, bắn pháo liên hồi vào nơi phát ra tiếng động.

Và để thực hiện kế hoạch trên, suốt những tháng cuối năm 1966, đầu năm 1967, Bộ chỉ huy Mỹ - ngụy ở vùng 1 đã tiến hành những biện pháp hết sức quyết liệt tàn bạo. Chúng cho hàng trăm máy bay (kể cả máy bay chiến lược B52) ném bom rải thảm tiêu diệt lực lượng vũ trang ta, mở hàng chục trận càn quét lớn nhỏ, triệt để đốt phá làng mạc nhằm xúc ép toàn bộ nhân dân ta ở khu vực nam sông Bến Hải vào các trại tập trung sát thị trấn, thị xã để lập phòng tuyến Mác Na-ma-ra. Cuộc hành quân Đếch-hao giữa tháng 3 của 3 tiểu đoàn Mỹ vào khu vực Do - Cam là một trong những nhiệm vụ nằm trong kế hoạch đó.

Cùng với việc mở các cuộc hành quân vào vùng nam giới tuyến 17, Bộ chỉ huy Mỹ ở Nam Việt Nam còn tăng cường lực lượng pháo binh ra chiến trường Quảng Trị. Các căn cứ Dốc Miếu, Cồn Tiên trước kia chỉ có 2 đại đội với 8 khẩu 105 ly, nay tăng lên 2 tiểu đoàn 24 khẩu từ 105 ly đến 155 ly, đặc biệt cuối tháng 12 năm 1967, chúng đã đưa 1 tiểu đoàn pháo 175 ly ra Đông Hà nhằm bắn phá hậu phương Vĩnh Linh của ta. Đây là một trong hai tiểu đoàn pháo 175 ly đầu tiên Mỹ đưa sang chiến trường miền Nam Việt Nam.

Hiệu quả pháo binh Mỹ rất thấp. Nhưng chúng có nhiều pháo đạn, lại bắn suốt ngày đêm. Trong tuần lễ hạ tuần tháng 2 năm 1967 (sau khi quân Mỹ đưa pháo 175 ly ra Quảng Trị), chúng đã bắn sang Vĩnh Linh hàng trăm quả, gây thương vong cho hàng chục dân thường.

Để trừng trị tội ác của giặc Mỹ ở bờ nam sông Bến Hải, Bộ Tổng Tư lệnh đã chỉ thị cho Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị nghiên cứu một số trận đánh bằng pháo cơ giới tiêu diệt các căn cứ pháo binh địch ở bờ nam sông Bến Hải.

Trong tuần lễ đầu tháng 3 năm 1967, cùng với việc cho 3 đại đội cối 82 ly của Trung đoàn 270 Vĩnh Linh đêm đêm tập kích vào các khu vực Dốc Miếu, Cồn Tiên, đồi 31... Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị cho trung đoàn pháo binh cơ giới 164 (còn gọi là Trung đoàn pháo binh Bến Hải) chuẩn bị trận địa đánh phá các trận địa pháo và các khu vực đổ bộ hành quân của quân Mỹ.

Ngày 20 tháng 3 năm 1967, sau khi đã chuẩn bị kỹ khu vực hành quân, Bộ chỉ huy sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ đã cho đổ bộ 2 tiểu đoàn Mỹ (khoảng 1.500 tên) xuống khu vực Dốc Miếu và 1 tiểu đoàn xuống khu vực Cồn Tiên. Nắm chắc âm mưu và kế hoạch của địch, Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã cho 2 tiểu đoàn pháo 100 ly và 105 ly của Trung đoàn pháo binh 164 bắn phá mãnh liệt 2 tiểu đoàn Mỹ đổ quân xuống căn cứ Dốc Miếu.

Với lối đánh thông minh, táo bạo (chọn đúng lúc Mỹ đổ quân xuống khu vực, thoát khỏi công sự; vừa bắn phá dồn dập vừa bắn cầm canh), sau 2 tiếng (từ 18 giờ 30 đến 20 giờ 30 phút) pháo các cỡ của ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, phá hủy 17 khẩu pháo, 51xe vận tải, 2 kho đạn, 1 kho xăng. Cuộc hành quân Đếch-hao mới triển khai ngày đầu đã bị hủy bỏ.

Cay cú trước thất bại, ngày 21 tháng 3, Bộ chỉ huy sư đoàn 3 Mỹ cho mở tiếp cuộc hành quân Bi-khôn-hin vào tây Dốc Miếu - tây bắc Đông Hà, nhằm "tiêu diệt lính chính quy Bắc Việt đang chốt giữ vùng tứ giác Cồn Tiên - Dốc Miếu - Ngã Tư Sòng - miếu Bái Sơn". Bốn tiểu đoàn Mỹ (tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 4 - trung đoàn 4, tiểu đoàn 3 - trung đoàn 3, tiểu đoàn 1 - trung đoàn 9) và một số chiến đoàn dù ngụy phối hợp "đã từng có kinh nghiệm chiến đấu với cộng quân cuối năm 1966" được đưa vào cuộc hành quân này.

Phát huy thành tích chiến đấu đã đạt được, Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị tiếp tục cho bộ đội đẩy mạnh hoạt động tác chiến trên cả hai hướng trọng điểm nhằm thu hút, kìm chân, tiêu hao sinh lực địch và kiên quyết làm thất bại kế hoạch xây dựng “hàng rào điện tử Mắc Na-ma-ra" của địch. Trên hướng Khe Sanh (Hướng Hóa), sau khi cho tiểu đoàn 8 rút lui về phía sau củng cố, Bộ tư lệnh Sư đoàn 325 đã đưa 2 tiểu đoàn 4 và 5 (Trung đoàn 95C) lên hoạt động ở các khu vực điểm cao 832, 845. Rút kinh nghiệm tiểu đoàn 8 (Trung đoàn 18C), các chiến sĩ Trung đoàn 95C vừa liên tục tập kích hỏa lực vào các vị trí địch, vừa táo bạo đưa từng phân đội nhỏ vào "độn thổ” dưới chân hàng rào căn cứ Tà Cơn, chờ thời cơ diệt địch.

Trong đợt chiến đấu đầy gian khổ, ác liệt đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu. Chiến sĩ Nguyễn Văn Thảo, đại đội 2 (tiểu đoàn 4) kiên trì bám trụ, giữ chốt kiên cường, một mình một hướng, đã đẩy lùi nhiều đợt phản kích của 2 đại đội Mỹ. Trung đội Nguyễn Văn Oanh, đại đội 6 (tiểu đoàn 5) dùng đại liên bắn rơi 1 máy bay C130 khi nó mới rời khỏi đường băng sân bay Tà Cơn. Ngày 28 tháng 4, trung đội trưởng Nguyễn Văn Huynh chỉ huy một tiểu đội bí mật luồn vào sát cổng căn cứ địch trên điểm cao 682, một bộ phận quân Mỹ vừa mò ra tới cổng căn cứ, các chiến sĩ lập tức bật nắp hầm nổ súng, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 50 tên.

Ngày 30 tháng 4 năm 1967, để tiếp tục gây cho địch những thiệt hại nặng nề, sau khi đã nghiên cứu, chuẩn bị kỹ lưỡng. Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị quyết định cho cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 18C (Sư đoàn 325) tổ chức đánh cứ điểm Làng Vây. Đêm ngày 1 tháng 5, dưới sự chỉ huy của Trung đoàn phó Trần Sĩ Kịch, các chiến sĩ tiểu đoàn và đại đội đặc công 40 của sư đoàn đã bất ngờ tập kích mãnh liệt căn cứ này, diệt gọn tiểu đoàn biệt kích ngụy.

Các trận đánh liên tiếp của Trung đoàn 95C trên hướng tây - tây bắc và trận đánh xuất sắc diệt địch trong công sự vững chắc ở Làng Vây, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch đã làm cho bọn địch ở Tà Cơn (Hướng Hóa) hoang mang, buộc sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ phải đổ thêm lực lượng xuống Tà Cơn tăng cường phòng giữ cái "mỏ neo" ở miền tây Quảng Trị.

Sau khi có thêm lực lượng từ Đông Hà lên tăng viện, quân Mỹ ở Tà Cơn bắt đầu phản ứng dữ dội. Ngày 4 tháng 5, Chúng đổ 2 đại đội xuống khu vực đồi không tên (nằm giữa điểm cao 832 và 845), đại đội 1 tiểu đoàn 4 làm nhiệm vụ mai phục chờ địch ở đấy đã đánh lui nhiều đợt tiến công của quân Mỹ, giữ vững trận địa. Không chịu nổi những đòn phản kích quyết liệt của quân ta, chiều hôm đó, quân Mỹ lại phải rút vào căn cứ để bảo toàn lực lượng.

Rút kinh nghiệm trận đánh của đại đội 1 tiểu đoàn 4, Bộ Tham mưu Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị chỉ rõ: Trận đánh tuy diệt được địch, giữ được trận địa nhưng hiệu suất chưa cao, chưa thực hiện được yêu cầu đánh tiêu diệt gọn. Trung đoàn 95C sư đoàn 325) và các lực lượng vũ trang địa phương phối hợp cần bổ sung phương án tác chiến, gạt bỏ kịp thời những khuyết điểm, đặc biệt là việc chớp thời cơ chuyển từ phản kích sang tiến công; khi tiến công thì phải táo bạo, liên tục, với tư tưởng "bám thắt lưng Mỹ mà diệt", không cho chúng kịp trở tay chống trả. Cần đánh một trận có hiệu quả cao để phổ biến kinh nghiệm cho toàn mặt trận.

Căn cứ vào chỉ thị của cơ quan tham mưu Bộ tư lệnh Mặt trận, Ban chỉ huy Trung đoàn 95C đã cho cán bộ các cấp rút kinh nghiệm các trận đánh phục kích, phản kích vừa qua, đồng thời đề ra những phương án tác chiến mới, trong đó đặc biệt chú trọng bố trí đội hình, để khi cần có thể huy động lực lượng nhằm đạt hiệu quả chiến đấu cao.
----------------------------
Trưa ngày 3 tháng 5, một đại đội Mỹ được máy bay lên thẳng đổ tiếp xuống khu vực đồi Không Tên. Nắm chắc thời cơ, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 4 ra lệnh cho đại đội 3 - lực lượng dự bị của tiểu đoàn vận động tới phối hợp với đại đội 1 tiêu diệt đại đội Mỹ này, loại khỏi vòng chiến đấu 150 tên. Trận đánh được cấp trên tặng thưởng huân chương Chiến công hạng nhất.

Ngày 9 tháng 5, đại đội Mỹ nhảy ra đông - bắc điểm cao 843, phát huy thắng lợi đơn vị vừa giành được, đại đội trưởng Nguyễn Hữu Thọ đưa bộ đội đi trinh sát địa hình gặp địch, lập tức nổ súng chiến đấu. Bị đánh bất ngờ, địch chạy lên đỉnh đồi dùng khói màu phân tuyến cho máy bay đánh phá, đồng thời chống trả quyết liệt. Quyết không để địch có thời gian củng cố đối phó và gọi lực lượng cứu viện, cán bộ, chiến sĩ ta đã dũng cảm vượt qua bom đạn, áp tới chia cắt chúng ra từng tốp nhỏ để tiêu diệt. Các bộ phận phục vụ ở phía sau (kể cả anh nuôi, y tá) nghe thấy tiếng súng nổ ở phía trước cũng tổ chức thành một mũi đánh vào phía sau lưng địch.

Sau hai giờ nổ súng, đại đội Mỹ với quân số gần 200 tên đã bị loại khỏi vòng chiến đấu. Quân ta thu được ống nhòm, cờ hiệu chỉ huy và nhiều vũ khí của địch. Trận đánh xuất sắc của đơn vị được cấp trên tặng thưởng huân chương Quân công hạng ba và được Bộ tư lệnh mặt trận phát động các đơn vị học tập.

Những thất bại nặng nề của quân Mỹ ở thung lũng Khe Sanh trong hai tháng qua đã được hãng tin Roi-tơ ngày 7-5-1967 đưa tin: trong những ngày cuối tháng 4 và đầu tháng 5 năm 1967, lính thủy đánh bộ Mỹ đã bị thương vong gần 50%". Cùng thời gian đó, Oét-mo-len và Uôn-tơ, Tư lệnh lính thủy đánh bộ Mỹ ra Khe Sanh thị sát tình hình cũng phải thừa nhận: "ở đây chúng ta đã gặp một địch thủ cứng rắn".

Để tiếp tục đẩy mạnh hoạt động quân sự theo kế hoạch Bộ giao, đầu tháng 6 năm 1967, Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã điều động toàn bộ Sư đoàn 325 vào tác chiến trên chiến trường Đường 9 - Bắc Quảng Trị. Tuy nhiên, trước khi bước vào đợt chiến đấu mới, Bộ tư lệnh Mặt trận đã chỉ đạo các đơn vị họp rút kinh nghiệm để tìm ra cách đánh Mỹ đạt hiệu quả cao, thực hiện tốt các chính sách chiến trường.

Thông qua thảo luận, cán bộ, chiến sĩ các trung đoàn 1, 2, 3, 31 (trên hướng đông), Trung đoàn 95C, tiểu đoàn 8 (trên hướng tây) đã thống nhất đánh giá: muốn tiêu diệt được quân Mỹ, làm chủ được trận địa, ngoài yếu tố chính trị, tinh thần vững vàng, dũng cảm, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, cán bộ, chiến sĩ còn phải nắm chắc và vận dụng thành thạo các hình thức chiến thuật, kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn của mình. Tư tưởng dám đánh và quyết thắng giúp cho người lính vượt qua mọi gian lao thử thách ác liệt, hy sinh, để đi đến cùng vì lý tưởng cao đẹp. Chiến thuật, kỹ thuật tinh thông sắc bén, sáng tạo đảm bảo cho người lính tự tin vào cách đánh của mình, tạo ra hiệu suất chiến đấu cao, giành thắng lợi lớn. Thực tế các trận chiến đấu ở Dốc Miếu, Cồn Tiên, điểm cao 402, Đầu Mầu, Tân Lâm (Do - Cam) và tây bắc Tà Cơn đã cho ta những bài học đó.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho đợt chiến đấu lớn trên hướng trọng điểm, đầu tháng 6 năm 1967 trên hướng tây đường 9, Bộ tư lệnh Mặt trận đã chỉ đạo Sư đoàn 325 cho Trung đoàn 95C: sau gần một tháng nghỉ ngơi củng cố, bước vào vây ép Tà Cơn và một vài vị trí quan trọng khác nhằm nghi binh thu hút và tiêu hao sinh lực địch. Trong đợt hoạt động, đại đội 9 tiểu đoàn 6 nhận nhiệm vụ đánh Động Trị - một chốt điểm ở độ cao 1009m nằm ở phía tây bắc Tà Cơn do 1 đại đội biệt kích Mỹ chiếm giữ.
Ngày 6 tháng 6 năm 1967, sau một đêm hành quân chiếm lĩnh Động Trị dưới trời mưa tầm tã vô cùng gian khổ, các chiến sĩ đại đội 9 đã thực hiện một trận tập kích xuất sắc: loại khỏi vòng chiến đấu 160 lính biệt kích Mỹ chiếm giữ điểm cao, thu toàn bộ vũ khí. Với chiến tháng Động Trị, đại đội được tặng thưởng huân chương Quân công hạng ba.

Cùng với hoạt động nghi binh, tiêu diệt sinh lực địch ở hướng tây, ở ven biển phía đông, các chiến sĩ đặc công hải quân đoàn 126A cũng được lệnh bước vào chiến đấu. Ngày 24 tháng 6 năm 1967, các chiến sĩ phân đội 3 (phân đội người nhái) được 2 tiểu đội du kích xã Do Hà và Do Hải chốt bảo vệ đường, luồn sâu trinh sát mục tiêu ở cảng Cửa Việt và đoạn sông Cồn Tòng - Mai Xá. Việc trinh sát và "lót ổ” của các chiến sĩ đặc công hải quân diễn ra khá thuận lợi.

23 giờ ngày 29 tháng 6 năm 1967, tổ đánh tàu phân đội 3 do tổ trưởng Nguyễn Hồng Lễ chỉ huy bắt đầu tiếp bước tiến vào mục tiêu theo la bàn. Hơn một giờ sau, tổ đã tiếp cận được chiếc tàu LST trọng tải 5.000 tấn và đặt được hai quả mìn vào chỗ hiểm của con tàu. Hai giờ sáng ngày 30 tháng 6, khi các chiến sĩ đã về vị trí an toàn, hai quả mìn phát nổ, nhấn chìm chiếc tàu LST trong đó chứa hàng chục xe thiết giáp và nhiều súng ống các loại. Đây là chiếc tàu vận tải cỡ lớn đầu tiên bị các chiến sĩ Đoàn 126A đánh chìm bằng khí tài kỹ thuật.

Chiến công giòn giã trên hai hướng tây – đông càng thúc giục cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 3 và các đơn vị phối thuộc trên hướng trọng điểm Do An khẩn trương chuẩn bị tốt mọi mặt để bước vào chiến đấu. 19 giờ ngày 27 tháng 6, sau khi các đơn vị đã triển khai xong công sự trận địa ở điểm xuất phát 1 và điểm xuất phát 2 (còn gọi là kiềng chính và kiềng phụ), vũ khí khí tài, lương thực cho 10 ngày chiến đấu.

Ban chỉ huy Trung đoàn 3 và cán bộ cấp tiểu đoàn của các đơn vị phối thuộc mở hội nghị quân chính để thống nhất hiệp đồng trước khi bước vào tác chiến. Đại tá Đàm Quang Trung Tư lệnh Mặt trận và một số phái viên tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu tham dự cuộc họp này. Sau khi Ban chỉ huy Trung đoàn đánh giá điểm mạch, điểm yếu trong công tác chuẩn bị trận địa hiệp đồng tác chiến, bảo đảm hậu cần và quyết tâm chiến đấu của trung đoàn và các đơn vị phối thuộc, Tư lệnh Mặt trận Đàm Quang Trung đã biểu dương cán bộ, chiến sĩ quán triệt tốt nhiệm vụ chiến đấu, chiếm lĩnh trận địa bí mật, an toàn, bảo đảm thời gian kế hoạch. Tuy nhiên, Tư lệnh cũng nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ các đơn vị còn bộc lộ những thiếu sót như giữ gìn bí mật chưa thật tốt, bố trí trận địa binh hỏa lực phân đội nhỏ (cối, ĐKZ, 12.7 ly) chưa hợp lý, nặng về ẩn nấp, quán triệt tư tưởng chiến thuật và nhiệm vụ của các chốt còn giản đơn, nhất là nhiệm vụ đánh châm ngòi kéo địch vào tròng để tiêu diệt...

Để nhanh chóng khắc phục những khuyết điểm trên, Tư lệnh nhấn mạnh: Cán bộ các cấp không được chủ quan, trước mắt phải tập trung khả năng chỉ đạo việc giữ bí mật, quán triệt lại nhiệm vụ phương pháp tác chiến của các chốt cho thật tốt. Trong lúc địch chưa đến tiếp tục củng cố công sự và luyện tập; địch đến, đánh châm ngòi phải khôn khéo, chắc thắng, khi cần phải tập trung cả tiểu đoàn tiêu diệt cấp trung đội cũng kiên quyết thực hiện...

22 giờ 30 phút cuộc họp quân chính trung đoàn đang được Tư lệnh Mặt trận dự họp kết luận, thì Phòng Hai tiền phương Bộ tư lệnh Mặt trận thông báo: "Đại đội 6 tiểu đoàn 2 trung đoàn 9 (sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ) đã đổ bộ xuống điểm cao 39", các cán bộ dự họp bỗng phấn chấn hẳn lên. Sau 30 phút bổ sung thêm nhiệm vụ, tất cả mọi người nhanh chóng trỏ về đơn vị chuẩn bị chiến đấu.

5 giờ sáng ngày 28 tháng 6 năm 1967, toàn trung đoàn đã chiếm lĩnh xong trận địa, sẵn sàng chờ địch đến. 8 giờ, một trung đội địch có hai xe tăng hộ tống theo đường 75 tiến vào Long Sơn nhưng cách chốt của ta 300m thì dừng lại. 16 giờ, bọn này được lệnh rút. Ở hướng tiểu đoàn 8, một tổ cán bộ đi điều nghiên trận địa, gặp địch nổ súng diệt 3 tên. Sau đó số cán bộ này dùng mọi cách dụ địch vào trận địa, nhưng chúng đã "cao chạy xa bay".

Ngày 29 tháng 6, buổi sáng địch cho một đại đội bám theo đường 75 tiến vào An Nha. Đại đội 2 chốt giữ Bãi Dâu, nhà ông Cao, Bãi Cháy hiệp đồng không chặt, nổ súng lẻ tẻ diệt 3 tên, làm bị thương 10 tên. Bọn địch dừng lại giải quyết hậu quả, đến 16 giờ 30 phút, tiểu đoàn 8 đề nghị cho 1 đại đội xuất kích tiêu diệt địch. Ban chỉ huy Trung đoàn nhắc nhở chỉ huy tiểu đoàn nắm lại địch cho thật chắc chắn mới cho bộ đội xuất kích. Quả nhiên khi trinh sát tiểu đoàn lên tới nơi, bọn địch ở đây đã rút hết.

Ngày 1 tháng 7 năm 1967, sau khi rút kinh nghiệm về tình hình địch, ta qua ba ngày sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu nhỏ lẻ chưa đạt kết quả, Ban chỉ huy Trung đoàn 3 quyết định: Tổ chức lại hệ thống trinh sát bám nắm địch trên các vị trí trọng yếu từ trung đoàn đến tiểu đoàn. Khi địch xuất hiện, các tổ, đài quan sát phải thông tin kịp thời, chính xác để đơn vị chớp thời cơ tiến công ngay. Nếu địch không chịu vào sâu, các tiểu đoàn phải táo bạo cho các phân đội ra phía trước phục kích địch, nổ súng buộc chúng phải phản ứng.

Trước mắt, tiểu đoàn 9 cho 1 đại đội cối 82 ly tăng cường bắn phá quấy rối Cồn Tiên, dụ địch ra Hảo Sơn đánh châm ngòi cho trung đoàn. Tiểu đoàn 8 củng cố chốt An Nha, ngụy trang kín đáo, tránh địch phát hiện sớm dừng lại đối phó hoặc tháo lui. Hai đại đội của tiểu đoàn 9 còn lại chốt giữ ở ngã ba Gia Bình, 1 trung đội độn thổ ở điểm cao 82, khi địch vào đúng ý định, bật thổ thực hiện trong đánh ra, ngoài đánh vào, tiêu diệt thật thanh gọn.

Đúng như ý định của trung đoàn, 8 giờ 10 phút ngày 2 tháng 7, một đại đội của trung đoàn 9 Mỹ, một nửa đi theo đường 75 kéo vào sục sạo An Nha, một nửa được 6 trực thăng chở quân đổ bộ xuống đồi 82 và làng Hảo Sơn. Thời cơ diệt địch đã đến. Trung đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn 8 và tiểu đoàn 9 dùng 1 đại đội, 3 trung đội xuất kích tiêu diệt đại đội lính thủy đánh bộ. Các phân đội còn lại sẵn sàng đánh địch khi chúng đổ quân tiếp.

Tại hướng tiểu đoàn 8, sau khi đại pháo các loại của ta mới chuyển làn, đại đội trưởng Giao đã bật dậy dẫn đầu đại đội đánh thẳng vào ngã ba An Nha, bất chấp bọn địch chống trả quyết liệt. Thấy tình thế không trụ nổi, một trung đội địch phá chạy tán loạn, nhưng chúng không thể thoát khỏi cách đánh gần, quyết liệt, táo bạo của quân ta. Hầu hết trung đội địch bị tiêu diệt.

Trên hướng tiểu đoàn 9, tình hình diễn ra không suôn sẻ như tiểu đoàn 8. Trước khi cho một trung đội đổ quân xuống điểm cao 82, địch cho pháo các cỡ bắn hàng trăm quả đạn vào mảnh đất rộng chừng hơn một héc-ta. Một trung đội của tiểu đoàn độn thổ ở đây không trụ nổi, một nửa thương vong, số còn lại tự động rút lui. Do vậy khi 2 đại đội của tiểu đoàn 9 đánh lên gặp trở ngại lớn. Mặc dù được pháo các cỡ của ta bắn chi viện tới hai lần, nhưng hai ổ hỏa lực đại liên và cối 61 của địch chưa bị tiêu diệt, vẫn khống chế được toàn bộ phần tây bắc điểm cao.

Thấy tình hình trận đánh phát triển chậm có thể ảnh hưởng tới kế hoạch đánh châm ngòi của trung đoàn, tiểu đoàn trưởng Chánh một mặt hạ lệnh cho đại đội 2 điều 1 trung đội lợi dụng địa hình đánh vu hồi từ tây nam lên nhằm thu hút sự chú ý của địch, mặt khác hai trung đội còn lại, lợi dụng pháo cối của ta bắn phá nâng dần đội hình, khi pháo chuyển làn thì xung phong nhanh, đồng loạt làm cho địch không trở tay kịp.

Thực hiện ý định của tiểu đoàn trưởng, sau khi đợt pháo bắn thứ ba của ta chuyển làn, trung đội 1 ở phía tây nam đã bật dậy tiến công vào sau lưng địch, gây cho chúng nhiều lúng túng. Lợi dụng tình thế, hai trung đội ở hướng chủ yếu do đại đội trưởng Hiền dẫn đầu bật dậy dùng B40, B41 bắn phá mãnh liệt vào các vị trí hỏa lực địch. Trong giây lát bọn địch bị "phơi áo’ hoàn toàn, mất khả năng chống đỡ, hò nhau tháo chạy. Vậy là chỉ trong 1 giờ 30 phút, bằng trí thông minh và lòng dũng cảm, tiểu đoàn 8 và tiểu đoàn 9 Trung đoàn 3 đã phối hợp chặt chẽ, tiến công liên tục, tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu 1 đại đội địch, thực hiện tốt trận đánh châm ngòi.

Mô tả về trận đánh này, tờ Diễn đàn Quốc tế của Mỹ ngày 7 tháng 7 năm 1967 viết: "Đợt đầu tiên của trận đánh trong ngày chủ nhật 2 tháng 7 năm 1967 đã tiêu diệt cả đại đội B của tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn 9 thủy quân lục chiến Mỹ. Đại đội đã bị chết 58 người, bị thương 100 người và cho đến tối ngày hôm đó còn 38 xác mất tích".

Tiếng súng tiến công dồn dập, quyết liệt của Trung đoàn 3 đã gây hậu quả nặng nề cho tiểu đoàn 1 trung đoàn 9 Mỹ khiến các cấp chỉ huy Mỹ ở Đông Hà -Quảng Trị vô cùng cay cú. Ngày 4 tháng 7, để trả thù cho "các chiến hữu đại đội B đã bị cộng quân tiêu diệt", Bộ chỉ huy sư đoàn 3 Mỹ cho 2 tiểu đoàn (tiểu đoàn 3 trung đoàn 9 và tiểu đoàn 1 trung đoàn 3) đổ bộ xuống khu vực Bãi Dâu nhà Hội Đồng, An Nha củng cố đội hình nhằm tiến công sang Gia Bình, Xuân Hải, Phương Xuân. Nhưng bọn này vừa đặt chân xuống ngoại vi Bãi Dâu ( cách An Nha 2 km) đã bị pháo các loại của ta bắn cấp tập gây nhiều thương vong không còn sức phát triển tiếp.

Ngày 5 tháng 7 chúng điều thêm tiểu đoàn 2 trung đoàn 3 và tiểu đoàn 2 trung đoàn 9 đổ bộ xuống Trung An và đường 76 phối hợp với 2 tiểu đoàn (tiểu đoàn 3 trung đoàn 9 và tiểu đoàn 1 trung đoàn 3) ở Bãi Dâu nhằm đẩy lực lượng ta ra khỏi khu vực Do An.

Ngày 7 tháng 7, bọn chỉ huy Mỹ ở Đông Hà cho hàng chục trận địa pháo (kể cả pháo hạm ở vùng biển Quảng Trị) bắn dồn dập hàng ngàn viên đạn xuống Gia Bình, Xuân Hải, Phương Châm, Trạm Cá, Trung Sơn. Trước khi xuất kích, chúng còn cho hàng chục tốp máy bay ném hàng trăm quả bom xuống các khu vực nghi ngờ quân ta có "hầm ngầm cố thủ”.

8 giờ 30 phút, sau khi được phi pháo đánh tới “đã” theo yêu cầu, tiểu đoàn 1 (trung đoàn 3) lính thủy đánh bộ Mỹ cho hai đại đội ở điểm cao 82, nhà Hội Đồng và làng Hảo Sơn tiến công sang chốt Long Sơn của ta. Đại đội 2 (tiểu đoàn 3) có 3 xe tăng yểm trợ bám theo trục đường 76 tiến sang đông Long Sơn. Đại đội 3 (tiểu đoàn 3) có 2 xe tăng đi cùng từ làng Hảo Sơn tiến vào bắc Long Sơn.

Với tinh thần “đánh gần, diệt gọn”, cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 7 Trung đoàn 3, mặc dù đã có một số đồng chí bị bom pháo sát thương nhưng vẫn kiên trì để địch vào khu quyết chiến điểm mới nổ súng. Đại đội 2 ở gần địch nhất (có chỗ chỉ cách 8m) cùng một lúc cho nổ 6 quả mìn định hướng. Trong khoảnh khắc, 12 tên Mỹ đổ gục, số còn lại kêu cứu om sòm. Thấy đồng bọn phía trước bị tiêu diệt, 2 chiếc xe tăng phía sau lồng lên bắn phá. Nhưng bọn này chỉ vài phút sau đã bị 4 tay súng B40, B41 của đại đội 1 chốt ở cánh trái kết liễu. Bị mất hỏa lực yểm trợ, đại đội địch tháo chạy tán loạn. Đại đội 1 (tiểu đoàn 3) tiến theo đường 76, thấy đồng bọn bị chặn đánh không dám xông vào, dừng lại chờ lệnh.

13 giờ 30 phút, Ban chỉ huy Trung đoàn 3 nhận định: địch vẫn chưa vào đúng kế hoạch dự kiến (sau khi bị tiêu hao trên 100 tên và 2 xe tăng ở Long Sơn), chúng co về vị trí ban đầu (điểm cao 82 và làng Hảo Sơn) để củng cố. Khả năng trong ngày địch sẽ không mở thêm đợt tiến công nào.

Căn cứ vào tình hình của địch, trung đoàn quyết định: tập trung lực lượng tiến công tiêu diệt địch trong khu vực Hảo Sơn, điểm cao 82 và khu vực nhà Hội Đồng nhằm loại khỏi vòng chiến đấu tiểu đoàn 1 (trung đoàn 3) và tiểu đoàn 3 (trung đoàn 9) đã bị đánh đau nhiều lần và đang hoang mang. Về sử dụng lực lượng: tiểu đoàn 7 tiến đánh khu vực Hảo Sơn, điểm cao 82, tiểu đoàn 8 đánh Bãi Dâu và ngã ba An Nha; tiểu đoàn 2 dự bị sẵn sàng chi viện cho các hướng.

14 giờ 30 phút, sau 15 phút pháo các loại của ta bắn phá mãnh liệt khu vực điểm cao 82, ngã ba An Nha (hai khu vực trọng điểm), Trung đoàn 3 phát lệnh tiến công.

Tại hướng tiểu đoàn 8, ngay khi pháo ta còn bắn, bộ đội ta đã dâng lên sát tiền duyên địch. Khi pháo ta vừa bắn chuyển làn, đại đội 1 phụ trách cánh phải bật dậy xung phong đánh vào Bãi Dâu, An Nha. Cuộc chiến đấu lúc đầu diễn ra khá suôn sẻ. Chỉ trong 10 phút, đại đội 1 đã chiếm được gần một nửa mục tiêu. Nhưng sau đó bắt đầu gặp khó khăn do đại đội 2 phụ trách cánh trái phát triển chậm. Địch dựa vào hào sâu và hỏa lực xe tăng chống trả quyết liệt. Đại đội 1 sau ba lần tổ chức xung phong đều bị đánh bật ra và quân số hao hụt hơn một nửa. Tới 16 giờ, đại đội trưởng và chính trị viên phó hy sinh, số quân còn lại chỉ đủ sức đánh trả địch để bảo vệ thương binh, liệt sĩ.

Trên hướng tiểu đoàn 7, hồi 15 giờ, khi pháo ta mới dừng bắn, đại đội 2 đã xung phong đánh lên đồi 82. Nhưng địa hình phát triển xa (cách 300m) trống trải, bọn địch gọi pháo ở Cồn Tiên bắn sang chặn lại. Tiểu đoàn 7 buộc phải tạm ngừng tiến công, gọi pháo của trên chi viện. Do mục tiêu lộ và hầm hố bị pháo 130 ly của ta phá hủy, bọn địch ở điểm cao 82 không trụ nổi tháo chạy về Hảo Sơn cùng đồng bọn lo chống đỡ.

16 giờ 80 phút, trước tình hình chung phát triển thuận lợi, Trung đoàn 3 quyết tâm dốc toàn lực đánh vào khu quyết chiến điểm Hảo Sơn, khu nhà Hội đồng, Bãi Dâu quyết không cho địch có thời gian rút chạy hoặc gọi lực lượng chi viện. Kế hoạch táo bạo của trung đoàn được Bộ chỉ huy Mặt trận chấp thuận.

17 giờ 30 phút, sau khi được pháo các cỡ của ta bắn hàng trăm quả vào khu vực quyết chiến điểm, ba tiểu đoàn 7, 8 và 9 (tiểu đoàn dự bị của trung đoàn) bất chấp bom đạn, phi pháo của địch đã xung phong dũng mãnh, đánh phá quyết liệt, tiêu diệt hết mục tiêu này đến mục tiêu khác làm cho bọn địch không kịp trở tay, chỉ còn lo tìm đường tháo chạy.

Vậy là sau 7 ngày chiến đấu liên tục, quyết liệt, Trung đoàn 3 và các đơn vị phối thuộc đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.300 tên địch, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn (tiểu đoàn 1 trung đoàn 3 và tiểu đoàn 3 trung đoàn 9) lính thủy đánh bộ Mỹ, bắn cháy 11 xe tăng, bắn rơi 14 máy bay các loại, thu nhiều phương tiện chiến tranh, giải phóng hầu hết xã Do An.

Chiến thắng Do An đã được Bộ tư lệnh Mặt trận đánh giá: ‘là trận đánh lớn đầu tiên cấp trung đoàn, phối hợp chặt chẽ với pháo binh có nhiều ưu điểm, đánh dấu một bước trưởng thành về mặt tổ chức chỉ huy hiệp đồng binh chủng, vận dụng cách đánh thọc sâu, bao vây chia cắt, đánh giáp lá cà, phân tán đội hình địch thành từng mảng để tiêu diệt”.

Phối hợp với các đòn tiến công quân sự tiêu diệt sinh lực địch và thu hút kìm chân các đơn vị lớn Mỹ - ngụy của bộ đội chủ lực, các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương Đường 9 - Bắc Quảng Trị dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Quảng Trị đã kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, từng bước chống phá âm mưu ổn định hậu tuyến, xây dựng hệ thống phòng thủ của địch.

Cuối tháng 3 năm 1967, để phối hợp với bộ đội chủ lực phá tan cuộc.hành quân Bi-khôn-hin vào vùng tây Dốc Miếu, bắc Đông Hà, Tỉnh đội Quảng Trị cho 2 trung đội, 3 tổ võ trang công tác dân sự, 2 tiểu đội du kích huyện Cam Lộ được 1 phân đội đặc công của mặt trận hỗ trợ, luồn sâu vào các khu tập trung dân ở Ba Dốc, Ngã Tư Sòng; các “ấp liên gia tự quản" ở Quất Xá, Lâm Láng, Do Lệ diệt 6 tụ điểm ác ôn cấp xã, quận, vận động hàng trăm hộ dân ở các thôn Thượng Nghĩa, Thanh Lương và một số thôn ở đông đường số 1 thuộc các xã Cam Thành, Cam Giang diệt bảo an dân vệ giành quyền làm chủ.

Đầu tháng 4 năm 1967, cùng với việc vận động nhân dân các xã Do Hà, Do Hải (Do Linh) chống địch tập trung dân thanh lọc cán bộ hoạt động bí mật, nhân cốt cách mạng, bắt thanh niên đi quân dịch, Tỉnh đội còn vận động du kích và nhân dân địa phương các xã Triệu Đông, Triệu Thành (Triệu Phong) đấu tranh không cho địch bắn phá, phục kích bừa bãi xóm làng, ruộng vườn gây thương tích cho nhân dân.

Giữa tháng 5 năm 1967, trong khi lực lượng quân sự Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị hoạt động mạnh, nhiều tổ võ trang công tác hỗn hợp của Mặt trận và của tỉnh luồn sâu vào hậu phương địch, phát động quần chúng đấu tranh chống phá kìm kẹp của địch, các cơ sở đảng trên hai hướng đông và tây nhanh chóng được phục hồi phát triển.

Ở miền núi, thực hiện chủ trương của Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị và Tỉnh ủy Quảng Trị, Đảng bộ huyện Hướng Hóa đã chỉ đạo các chi bộ xã trong vùng địch hậu khắc phục khó khăn, ác liệt, bám dân, bám đất cùng quần chúng vượt qua mọi khó khăn khôi phục thế trận chiến tranh nhân dân, phối hợp với bộ đội chủ lực đánh địch bằng mọi hình thức, biện pháp.

Ở các huyện đồng bằng Triệu Phong, Hải Lăng, thị xã Quảng Trị, một số cơ sơ đảng cấp xã, phường đầu năm 1967 bị đánh đi đánh lại không hoạt động được.

Cuối tháng 6, đầu tháng 7 năm 1967, các đội võ trang công tác nằm vùng của Mặt trận, của tỉnh đã khôi phục trở lại. Các đồng chí Hồ Sĩ Thản, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị, Lê Văn Hoan, Bí thư huyện ủy Hải Lăng; Phan Chung, Bí thư huyện ủy Do Linh và rất nhiều đồng chí khác đã nêu tấm gương kiên trung bất khuất "Đảng bám dân, dân bám đất, du kích bám giặc để đánh giặc". Các nữ du kích Trần Thị Tâm, Nguyễn Thị Liên, Phan Thị Hoa, Nguyễn Thị Lành, Lê Thị Tuyết...chưa một ngày dời dân, cùng đội du kích liên tục đánh địch.

Do đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị phát triển mạnh nên trong ba tháng hè - thu năm1967, ta đã xây dựng được cơ sở cách mạng ở 100 thôn (trong tổng số 159 thôn đồng bằng), 42% thôn có cơ sở cách mạng đã phục hồi lại cơ sở Đảng. Các huyện đồng bằng tổ chức được 47 cuộc đấu tranh chính trị của quần chúng giành thắng lợi. Nhiều nơi chính quyền thôn, xã được xây dựng củng cố đi vào hoạt động có hiệu quả hỗ trợ đắc lực cho bộ đội chủ lực Mặt trận tiêu diệt địch.

Phối hợp chặt chẽ với quân và dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị chiến đấu kiên cường chống quân viễn chinh Mỹ và tay sai, ở hậu phương chiến dịch, quân và dân Quảng Bình, Vĩnh Linh, mặc cho địch đánh phá quyết liệt các nút giao thông quan trọng dọc sông Gianh, sông Nhật Lệ, đường 12; tuyến giao thông từ Vĩnh Linh vào đường 9 đường ô tô bị tắc, nhưng gần 1.000 dân công của các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình vẫn liên tục vận chuyển bộ, cùng với các đại đội "gùi, cõng" của Mặt trận khắc phục khó khăn gian khổ, tạo nhiều bến vượt, nhiều đường vòng, thực hiện "khi vào tải đạn, khi ra tải thương". Ở phía đông khu vực Vĩnh Linh, những tuyến đường giao thông trong hầm hào liên hoàn được xây dựng. Thương binh từ Mặt trận đưa ra có cung, trạm dừng chân để chăm sóc, cấp cứu an toàn.

Giữa tháng 7 năm 1967, được hậu phương chi viện sức người, sức của, Bộ tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị quyết định sử dụng Sư đoàn 325 và Trung đoàn 1 (trực thuộc Bộ tư lệnh Mặt trận) tổ chức bao vây tiến công Cồn Tiên nhằm tiêu hao, tiêu diệt sinh lực, gây nỗi kinh hoàng mới cho quân Mỹ.

Cồn Tiên là một căn cứ lớn, “một tiền đồn đặc biệt quan trọng" ở phía đông tuyến phòng thủ Đường 9 - Bắc Quảng Trị của địch. Mất căn cứ Cồn Tiên, toàn bộ phía đông bắc đường 9 thuộc khu vực Do - Cam sẽ bị uy hiếp. Vì vậy, ngay từ khi quân Mỹ ra Quảng Trị, chúng liên tục cho một tiểu đoàn Mỹ chốt giữ ở đây. Trong hơn một tháng chiến đấu, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, ác liệt, các chiến sĩ hai trung đoàn 101D và 1, lần lượt đánh bóc được tới lớp hàng rào thứ 9 trên hướng đông nam và tây bắc Cồn Tiên, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch.

Đầu tháng 9 năm 1967, cuộc bao vây của hai trung đoàn gần giành được thắng lợi trọn vẹn thì Quảng Trị bước vào mùa mưa lớn. Căn cứ và tình hình cụ thể và để chuẩn bị cho các đợt hoạt động mùa khô tới, Bộ tư lệnh Mặt trận đã cho các đơn vị mở vây Cồn Tiên, chuyển lực lượng ra phía sau để củng cố.

Như vậy, tính từ ngày thành lập (tháng 6 năm 1966 đến tháng 10 năm 1967), quân và dân Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ, ác liệt, hy sinh, mở hàng chục đợt chiến đấu quy mô vừa. Đánh hàng trăm trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 8 tiểu đoàn (có 6 tiểu đoàn Mỹ) với gần 1 vạn tên, bắn rơi 80 máy bay các loại, bắn cháy và bắn hỏng 190 xe quân sự (có 42 xe tăng), 9 tàu vận tải LST, 65 khẩu pháo, 6 kho xăng cùng hàng trăm tấn phương tiện chiến tranh và đồ dùng quân sự.

Những chiến công đầu tiên của quân và dân Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị đã góp phần tích cực cùng quân và dân toàn miền mở được một hướng tiến công chiến lược mới ở Đường 9 - Bắc Quảng Trị, tiêu hao, tiêu diệt, thu hút giam chân một bộ phận khá lớn sư đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ tại chiến trường làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của chúng. Đồng tnời chiến công đó còn trực tiếp bảo vệ, mở rộng hành lang vận chuyển chiến lược Bắc - Nam trên dãy Trường Sơn, bước đầ đánh bại kế hoạch xây dựng hệ thống phòng thủ Mắc Na-ma-ra, tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào chiến tranh du kích ở miền Trung - Trung Bộ nói chung và Trị - Thiên nói riêng phát triển mạnh mẽ.

2 nhận xét:

  1. Bài viết có nhiều tư liệu rất quý, rất có ý nghĩa lịch sử. Nhưng rất tiếc trong bài có nhiều lỗi chính tả không thể tha thứ được!!

    Trả lờiXóa
  2. Cám ơn tác giả đã đưa tư liệu này lên mạng!
    Vì muốn tìm sách này rất khó!
    Tuy nhiên hy vọng tác giả xem lại các lỗi trong các dùng từ phát âm theo kiểu địa phương, rất khó đọc, ví dụ như: ngoài thì viết là "ngồi"...

    Trả lờiXóa